Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Do có mâu thuẫn từ trước với k, t định giết k t cầm giao nhọn đâm 3 nhát liên tiếp vào ngực k để trả thù thấy k nằm im, tin rằng k đã chết, t bỏ đi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.3 KB, 4 trang )

Đề số 3
Do có mâu thuẫn từ trước với K, T định giết K. T cầm giao nhọn đâm 3 nhát liên
tiếp vào ngực K để trả thù. Thấy K nằm im, tin rằng K đã chết, T bỏ đi. Được cấp cứu
kịp thời, K không chết. Hỏi:
a. Xác định giai đoạn phạm tội của T.
b. Hình thức lỗi của T khi phạm tội là gì?
c. Mức hình phạt cao nhất mà Tòa án có thể áp dụng đối với T là bao nhiêu?

Bài làm
a.Xác định giai đoạn phạm tội của T.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Trong đó:
- Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo ra những
điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội
phạm đó. Có thể hiểu “Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương
tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm” (Điều 17 Bộ
luật hình sự)
- Phạm tội chưa đạt là có ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng
vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Có ba dấu hiệu để xác
định trường hợp phạm tội chưa đạt đó là:
 Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm, thể hiện ở chỗ người phạm tội đã
bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm.
 Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng (về mặt pháp lý), tức là
hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu
thành tội phạm.
 Người phạm tội không thực hiện tội phạm đến cùng là do nguyên nhân ngoài ý
muốn của họ.
Căn cứ vào thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hành vi phạm tội mà họ đã
thực hiện có thể chia thành phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành (người phạm tội vì
1



những nguyên nhân khách quan chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây
ra hậu quả của tội phạm) và phạm tội chưa đạt đã hoàn thành (người phạm tội đã thực
hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậy quả nhưng do nguyên nhân
ngoài ý muốn, hậu quả vẫn không xảy ra).
Căn cứ vào tính chất đặc biệt của nguyên nhân dẫn đến việc chưa đạt có thể chia
thành phạm tội chưa đạt cô hiệu (là trường hợp phạm tội chưa đạt mà nguyên nhân
khách quan của việc chưa đạt gắn với công cụ, phương tiện, với đối tượng tác động của
tội phạm) và các trường hợp chưa đạt khác.
- Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu
được mô tả trong cấu thành tội phạm. Tội phạm có cấu thành vật chất hoàn thành khi
người phạm tội đã gây ra hậu quả của tội phạm. Tội phạm có cấu thành hình thức
hoàn thành khi người phạm tội đã thực hiện được hành vi phạm tội. Tội phạm có cấu
thành tội phạm cắt xén hoàn thành khi người phạm tội đã có những hoạt động bất kì
nhằm thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy, trong tình huống trên, giai đoạn phạm tội của T là giai đoạn phạm tội chưa đạt
mà cụ thể là phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Vì căn cứ vào các dấu hiệu pháp lý thì:
- K đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội giết
người đó là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của K (dùng dao nhọn đâm
liên tiếp ba nhát vào ngực K).
- Tuy nhiên T không thực hiện được tội phạm đến cùng vì T mới chỉ thực hiện được
hành vi khách quan là đâm K nhưng chưa gây ra hậu quả chết người (K do được đưa
đi cấp cứu kịp thời nên không chết) mà tội giết người có cấu thành vật chất nên chỉ
hoàn thành khi có hậu quả chết người xảy ra.
- Thứ ba là T đã không thực hiện được tội phạm đến cùng là do nguyên nhân khách
quan, ngoài ý muốn của T. Sau khi đâm K, thấy K nằm im, tin rằng K đã chết nên T
mới bỏ đi. Việc K không chết do được cấp cứu kịp thời là hoàn toàn nằm ngoài ý
muốn của T.

2



Và trong trường hợp này, do T đã thực hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để giết K
nhưng K không chết là do nguyên nhân ngoài ý muốn của T cho nên giai đoạn phạm tội
của T là phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
b.Hình thức lỗi của T khi phạm tội là gì?
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình
và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Về các loại lỗi cố ý, theo Điều 9 Bộ luật hình sự thì lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Còn lỗi cố ý
gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, tuy không
mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Về các loại lỗi vô ý, theo Điều 10 Bộ luật hình sự thì: Lỗi vô ý vì quá tự tin là lỗi
trong trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên
vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả nguy hại đó. Lỗi vô ý do cẩu thả là lỗi trong trường hợp
người phạm tội đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy
được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy
trước.
Từ sự phân biệt trên, ta thấy rằng hình thức lỗi của T khi phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp, căn
cứ vào các dấu hiệu sau:
- Về lý trí: T hoàn toàn có thể nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi của mình và
T cũng có thể thấy trước được hậu quả là K có thể chết do hành vi dùng dao nhọm
để đâm vào ngực K của mình.
- Về ý chí: T mong muốn hậu quả là K bị chết sẽ xảy ra vì T với K có mâu thuẫn từ
trước, T đâm K là để trả thù và sau khi đâm K, tin rằng K đã chết, T bỏ đi.
c.Mức hình phạt cao nhất Tòa án có thể áp dụng đối với T là bao nhiêu?
Theo Điều 18 Bộ luật hình sự thì người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm

hình sự về tội phạm chưa đạt. Theo khoản 3 Điều 52 thì “Đối với trường hợp phạm tội
3


chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân
hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều
luật quy định”
Trường hợp phạm tội của T thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt của tội giết người
theo khoản 2 Điều 93 Bộ luật hình sự. Do đó mức hình phạt mà T phải chịu là không quá
3/4 mức hình phạt được quy định cho tội giết người theo khoản 2 Điều 93. Mà theo khoản
2 Điều 93 thì mức phạt tù mà điều luật quy định là từ 7 đến 15 năm. Như vậy mức phạt cao
nhất mà Tòa án có thể áp dụng với T là 11 năm 3 tháng.

Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội,Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập 1, Nxb.CAND,
Hà Nội, 2009.
2. Bộ Luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009

4



×