Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Kháng cáo phúc thẩm trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.18 KB, 17 trang )

Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để đảm bảo sự thận trọng trong việc xét xử cũng như đảm bảo quyền được
pahrn đối lại bản án, quyết định của Tòa án của bị cáo và những người có liên
quan, luật TTHS Việt Nam quy định “Nguyên tắc hai cấp xét xử”. theo đó, bảo án
và quyết định sơ thẩm sau khi tuyên án có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử
một lần nữa nhằm khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm, đảm
bảo áp dụng thống nhất pháp luật. Bài tiểu luận sau sẽ tìm hiểu kĩ hơn về kháng
cáo phúc thẩm trong TTHS.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.
MỘT SỐ VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG CÁO PHÚC THÂM
1. Khái niệm
Có nhiều quan điểm khác nhau về kháng cáo:
- Theo đại từ điển Tiếng việt : “ Kháng cáo là chống án, yêu cầu Tòa án cấp trên
xét xử”
- Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học – NXB CAND: “Kháng cáo là người
tham gia tố tụng có quyền và lợi ích hợp pháp trong vụ án yêu cầu TA cấp phúc
thẩm xét xử lại bản án, quyết định sơ thẩm”
- Theo tác giả Đinh Văn Quế: “Kháng cáo là biểu thị sự bất đồng của mình đối
với bản án hoặc quyết định của TA cấp sơ thẩm để yêu cầu TA cấp trên xét xử lại”.
- Theo từ điển Luật học – NXB Từ điển Bách Khoa: “Kháng cáo là quyền theo
luật định của những người tham gia tố tụng được đề nghị TA cấp trên trực tiếp
xem xét lại bản án, quyết định sơ thẩm đang còn trong thời gian kháng cáo”
- Theo giáo trình Luật TTHS VN của trường Đại học Luật Hà Nội: “Kháng cáo là
quyền của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật được đề nghị

Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412



Page 1


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

TA cấp trên trực tiếp xét lại bản án và quyết địn của TA cấp sơ thẩm chưa có hieuj
lực pháp luật”
Nhìn chung, các quan điểm nêu trên chưa đưa ra một khái niệm chính xác về
kháng cáo phúc thẩm, nhưng đều có những điểm chung, có thể đưa ra khái niệm
như sau:
“Kháng cáo theo phúc thẩm là quyền của những người tham gia tố tụng mà
pháp luật cho phép được đề nghị Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án cấp sơ thẩm
xét xử lại hoặc xét lại bản án quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật”
2. Ý nghĩa
Kháng cáo phúc thẩm là một chế định có vị trí và vai trò quan trọng không thể
thiếu trong pháp luật TTHS. Xét cả về mặt lí luận và thực tiễn, nếu không có thủ
tục này thì hàng năm sẽ có nhiều bản án quyết định của TA sơ thẩm thiếu căn cứ,
không hợp pháp vẫn được mang ra thi hành. Điều đó đồng nghĩa với việc quyền
và lợi ích hợp pháp của bị cáo không được bảo vệ và nguyên tắc hai cấp xét xử
không đạt hiệu quả. Do đó, kháng cáo có ý nghĩa chính trị, pháp lí xã hội quan
trọng
Ý nghĩa chính trị: Việc quy định và thực hiện chế định kháng cáo phúc thẩm trong
TTHS có ý nghĩa quan trọng trong việc đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền . Pháp luật quy định quyền kháng cáo phúc thẩm cho bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác chính là việc Nhà nước đã tạo điều kiện cho công dân tự
mình đứng ra bảo về các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình. Đây là nguyên
tắc thể hiện thái độ thận trọng của nhà nước trong việc đưa ra. Bên cạnh đó, bị cáo

và người đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền kháng cáo là một trong những
cách thức để họ thực quyền bào chữa cho bị cáo. Thông qua việc kháng cáo, bị cáo
và những người tham gia tố tụng khác thể hiến sợ bất đồng về việc giải quyết vụ
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 2


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

án của TA cấp sơ thẩm, đồng thời đưa ra những yêu cầu của mình đối với TA cấp
phúc thẩm , qua đó để bảo về quyền và lợi ích của mình.
Từ nội dung kháng cáo, các cơ quan tiếng hành tố tụng có điều kiện thấy được
những vướng mắc trong các quy định của pháp luật, từ đó kiến nghị sửa đổi, bổ
sung kịp thời, phát hiện những sai lầm, thiếu sót nhằm khắc phục, đảm bảo vụ án
được giải quyết đúng đắn, khách quan, công bằng và đúng pháp luật, nhằm hoàn
thiện pháp luật, đảm bảo được nguyên tắc pháp chế XHCN.
Ý nghĩa xã hội: Quyền kháng cáo là một trong những biểu hiện của dân chủ và
tiến bộ, vốn là những thuộc tính quan trọng của hệ thống tư pháp hình sự hiện đại.
Sự ra đời của quyền kháng cáo trong tố tụng hịnh sự là nhu cầu tất yếu khách quan
xuất phát từ bản chất tố tụng hình sự là bảo vệ ngày càng hiệu quả hơn quyền con
người trong lĩnh vực đặc thù.
- Là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà nước, Tòa án có vai trò quan trọng đối với
xã hội. Các bản án, quyết định của Tòa án có ảnh hưởng to lớn tới toàn xã hội.
Muốn các bản án, quyết định của Tòa án có ảnh hưởng tích cực tới xã hội thì các
bản án, quyết định đó phải chính xác, công bằng, minh bạch, được mọi người đồng
tình. Để đảm bảo các sai sót được sửa chữa kịp thời, nhanh chóng thì kháng cáo có
vai trò đặc biệt quan trọng.

- Thông qua việc xem xét lại các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, các vụ việc
được giải quyết thấu đáo, chính xác, tăng cường niềm tin của nhân dân vào pháp
luật,vào nhà nước pháp quyền. Quyền kháng cáo được thực hiện hiệu quả góp phần
đảm bảo trật tự xã hội, đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, tránh gây ra
những hậu quả đáng tiếc ảnh hưởng tới toàn xã hội.
II.

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VỀ KHÁNG CÁO

THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM
1. Đối tượng của kháng cáo
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 3


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

Bộ luật TTHS hiện hành chưa có quy định riêng cụ thể về đối tượng của kháng
cáo mà được quy định đan xen trong các điều luật khác nhau
Quy định tại Điều 203 BLTTHS có nêu:
“xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại
quyết định sơ thẩm mà bản án quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”
Điều luật này đã gián tiếp quy định đối tượng của kháng cáo là những bản án,
quyết đinh sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Những bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật không phải là đối tượng của kháng cáo phúc thẩm
Theo quy định của luật TTHS, tất cả các bản án sơ thẩm đều có thể là đối tượng

của kháng cáo, không kể nội dung bản án đó như thế nào.
2. Chủ thể của quyền kháng cáo
Phạm vi kháng cáo của từng chủ thể khác nhau, điều đó có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong việc chủ động thực hiện quyền năng của từng chủ thế cũng như đảm
bảo tính hợp pháp của kháng cáo
Chủ thể có quyền kháng cáo được quy định tại Điều 233 BLTTHS và được
hướng dẫn cụ thể tại nghị quyết số 05. Theo đó, những chủ thể sau có quyền kháng
cáo trộng phạm vi luật định:
a. Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết
định sơ thẩm.
- Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ hoặc một
phần bản án của Tòa án cấp sơ thẩm có liên quan đến mình nếu thấy bản án đó
chưa hợp lý.
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 4


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

- Theo NQ số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/052005 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “ xét xử
phúc thẩm” của Bộ luật TTHS thì người đại diện hợp pháp của bị cáo là người đại
diện theo pháp luật.
- Theo quy định tại Điều 50 BLTTHS, bị cáo là “Người đã bị Tòa án quyết định
đưa ra xét xử”. Như vậy, bị cáo tham gia tố tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra
xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Là chủ thể

chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ bản án hay quyết định sơ thẩm, bị cáo có quyền
kháng cáo là điều tất yếu. khi kháng cáo của bị cáo hợp pháp, Tòa án cấp phúc
thẩm phải xem xét và giải quyết kháng cáo. Bị cáo có thể nêu mục đích của việc
kháng cáo như: xin giảm hình phạt, thay đổi tội danh nhẹ hơn, giảm mức bồi
thường,…Để bị cáo có thể yên tâm thực hiện quyền kháng cáo, luật TTHS quy
định, nếu chỉ có kháng cáo của bị cáo mà không có kháng cáo, kháng nghị theo
hướng tăng nặng nào khác thì Tòa án cấp phúc thẩm không có quyền sửa bản án
theo hướng bất lợi cho bị cáo. Những người thân thích của bị cáo đã thành niên
như: cha, mẹ, vợ, chồng, con không được quyền kháng cáo thay cho bị cáo.
- Trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất thì người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án
hoặc quyết định sơ thẩm để bảo vệ lợi ích cho họ.
Người được Tòa tuyên vô tội cũng có quyền kháng cáo về phần nhận định của
bản án sơ thẩm đã tuyên là học không có tội . Luật TTHS hiện hành không hạn chế
hướng kháng cáo của bị cáo.
b. Người bào chữa
- Để đảm bảo việc bảo vệ quyền lợi cho bị cáo bị hạn chế về năng lực hành vi tố
tụng, luật TTHS Việt Nam quy định người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 5


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

lợi ích của bị cáo chưa thành niên hoặc có nhược điểm về tâm thần hoặc thẻ chất.
đây là quyền kháng cáo độc lập của người bào chữa, không phụ thuộc vào việc bị
cáo có đồng ý hay không đồng ý. Trong trường hợp người bào chữa kháng cáo, bị

cáo vẫn có quyền kháng cáo.
- Theo quy định tại Điều 56 BLTTHS thì người bào chữa có thể là luật sư, người
đại diện hợp pháp của bị cáo, bào chữa viên nhân dân. Pháp luật TTHS hiện hành
không quy định rõ phạm vi của chủ thể này.
c. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự
Theo quy định tại Điều 59 BLTTHS, người bảo vệ quyền lợi của đương sự là
người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất bao
gồm: luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra,
VKS, Tòa án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình. Đây là quyền kháng cáo độc
lập của người bảo vệ quyền lợi của đương sự , không phải do đương sự ủy quyền
d. Người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại.
- Người bị hại và đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án, quyết định
của Tòa án về phần hình phạt cũng như phần bồi thường.
- Nếu người bị hại chưa thành niên hoặc có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất
thì đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo. Theo NQ số 05 thì : “Trong
trường hợp người bị hại chỉ kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có
liên quan đến việc bồi thường thiệt hại thì họ có thể ủy quyền cho người khác.
Người được ủy quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của
nguyên đơn dân sự”. Nếu người bị hại chết thì đại diện hợp pháp của họ thực hiện
quyền kháng cáo. Luật TTHS Việt Nam hiện hành không hạn chế hướng kháng cáo
của người bị hại, họ có thể kháng cáo với yêu cầu tăng nặng, hoặc giảm nhẹ đối
với bị cáo. Điều đó được quy định chit iết tại NQ số 05/2005/NQ-HĐTPND.
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 6


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012


e. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ.
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền
kháng cáo phần bản án hoặc quyết định của Tòa án có liên quan đến việc bồi
thường thiệt hại. Do nguyên đơn, bị đơn dân sự tham gia vụ án hình sự để giải
quyết vấn đề dân sự phát sinh trong vụ án hình sự, vì vậy, quyền kháng cáo của họ
chỉ hạn chế trong phạm vi những phần bản án, quyết định liên quan đến việc bồi
thường thiệt hại.
f. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của họ
Theo Khoản c Điều 54 và Điều 231 BLTTHS, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án và người đại dieenh hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản
án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
họ mà không được kháng cáo các phần khác như phần hình phạt, phần bồi thường
thiệt hại.
3. Hình thức và thủ tục kháng cáo
Thủ tục kháng cáo được BLTTHS quy định như sau:
Người kháng cáo có thể gửi đơn đến Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc
thẩm hoặc có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm về việc kháng
cáo. Nếu kháng cáo bằng miệng, Tòa án dã xử sơ thẩm phải lập biên bản về việc
kháng cáo. Người lập biên bản phải giải thích cho người yêu cầu kháng cáo nói rõ
lý do và yêu cầu kháng cáo . Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam, Ban giám
thị trại giam phải tiếp nhận và gửi ngay đơn kháng cáo của bị cáo đến Tòa án đã xử
sơ thẩm
4. Thời hạn kháng cáo
- Theo quy định tại Khoảng 1 Điều 124 BLTTHS: “Thời hạn kháng cáo là 15
ngày kể từ ngày tuyên án”
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 7



Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

- Trường hợp Tòa xử vắng mặt bị cáo hoặc đương sự tại phiên tòa thì đối với họ,
thời hạn kháng cáo được tính từ ngày bản sao bản án được gioa cho họ hoặc được
niêm yết. Ngày đầu tiên của thời hạn kháng cáo được xác định là ngày tiếp theo
của ngày tuyên án. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn kháng cáo là ngày nghỉ, ngày
lễ tết thì ngày cuối cùng của thời hạn kháng cáo được tính là ngày làm việc tiếp
theo của ngày đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn là 12h đêm của
ngày đó. Cụ thể hơn tại NQ số 05/2005/NQ-HĐTP.
- Ngày kháng cáo được tính là ngày mà chủ thể kháng cáo thực hiện việc kháng
cáo. Nếu đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào
dấu bưu điện. Nếu đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại giam thì ngày kháng
cáo được tính căn cứ vào ngày BGT trại giam nhận được đơn kháng cáo.
Việc kháng cáo quá hạn có thể chấp nhận được nếu có lý do chính đáng.
5. Thông báo về việc kháng cáo
Theo quy định tại Điều 236 BLTTHS thì khi có kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm
phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia
tố tụng trong thời hạn bảy ngày về nội dung kháng cáo, về những phần liên quan
đến quyền lợi của họ. Đối với bị cáo, việc thông báo đảm bảo cho họ có điều kiện
thực hiện tốt quyền bào chữa tại phiên tòa phúc thẩm. Người được thông báo về
việc kháng cáo có quyền gửi ý kiến của mình cho Tòa án cấp phúc thẩm.
6. Hậu quả của kháng cáo
Trong thời hạn kháng cáo, toàn bộ bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật. Khi thời hạn kháng cáo hết mà có đơn kháng cáo thì những phần của
bản án bị kháng cáo chưa có hiệu lực pháp luật nên chưa được đưa ra thi hành, trừ
một số trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 255 BLTTHS. Đó là trường hợp bị
cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết

Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 8


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

tội, miễn trách nhiệm hình sự , miễn trách nhiệm hình phạt cho bị cáo, hình phạt
không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt
tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án
được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo .
Khi có kháng cáo đối với toàn bộ bản án thì toàn bộ bản án chưa có hiệu lực
pháp luật và không được đưa ra thi hành. Khi có kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm
phải gửi hồ sơ vụ án cùng với đơn kháng cáo cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời
hạn bảy ngày, kể từ ngày hết hạn kháng cáo để Tòa án cấp phúc thẩm chuẩn bị cho
việc xét xử
7. Bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo
Luật TTHS không chỉ quy định về quyền kháng cáo mà còn quy định cho các
chủ thể của quyền kháng cáo có quyền bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo.
- Về việc bổ sung, thay đổi kháng cáo:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 238 BLTTHS: “Trước khi bắt đầu hoặc tại
phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo…có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo…
nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo”
Theo thông tư số 01, làm xấu hơn tình trạng của bị cáo là “làm cho bị cáo có thể
bị tòa án cấp phúc thẩm phạt nặng hơn áp dụng điều khoản của BLTTHS về tội
nặng hơn hoặc tăng mức bồi thường sơ với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.”
Do đó, người đã kháng cáo theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo so với quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm thì không được bổ sung hoặc thya đổi kháng cáo theo hướng

tăng nặng cho bị cáo. Nếu đã kháng cáo theo hướng tăng nặng thì không được bỏ
sung hình thức hoặc thay đổi bằng loại hình phạt khác nặng hơn”
Thời điểm bổ sung, thay đổi kháng cao mà pháp luật cho phép là “trước khi bắt
đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm”. Theo hướng dẫn tại NQ số 05, trong thời hạn
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 9


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

kháng cáo luật định, việc thay đổi kháng cáo không bị hạn chế, không bị giới hạn
việc bổ sung , thay đổi nội dung kháng cáo. Nguyên tắc không làm xấu hơn tình
trạng của bị cáo chỉ được áp dụng trong trường hợp khoảng thời gian đã hết hạn
kháng cáo và trong trường hợp kháng cáo quá hạn. Như vậy, thời điểm “trước khi
bắt đầu phiên tòa” trong trường hợp này được tính từ khi hết thời hạn kháng cáo.
- Về việc rút kháng cáo:
Người kháng cáo có thể rút một phần hay toàn bộ kháng cáo . Nếu rút một phần
kháng cáo thì Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phần còn lại. theo quy định của pháp
luật, rút kháng cáo không bị giới hạn bởi nguyên tắc: “không làm xấu đi tình trạng
của bị cáo”như bổ sung, thay đổi kháng cáo. Người kháng cáo vào bất kì thời điểm
nào từ sau khi tiến hành kháng cáo cho đến trước khi Tòa án cấp phúc thẩm nghị
án đều được rút toàn bộ hoặc mỗi phần kháng cáo của mình.
Quyền rút kháng cáo và quyền kháng cáo là hai quyền song song tồn tại trong
thời hạn kháng cáo. Luật TTHS không quy định về số lần được rút hay điều kiện
rút kháng cáo. Vậy nên, trong thực tế người kháng cáo đã rút kháng cáo lại tiếp tục
kháng cáo trở lại khi vẫn còn thời hạn kháng cáo. Đây cũng là điểm khác so với
quy định của một số nước trên thế giới.

III.

THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS 2003 VỀ
KHÁNG CÁO PHÚC THẨM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ KHÁNG CÁO THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM

BLTTHS năm 2003 ra đời đã khắc phục được những vướng mắc, thiếu sót của
BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên, vẫn còn những điểm chưa đầy đủ, hoàn thiện trong
quy định của pháp luật về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm cùng với việc hướng
dẫn, giải thích của các cơ quan có thẩm quyền chưa rõ ràng, đầy đủ dẫn đến trong
thực tiễn xét xử của Tòa án các cấp còn nhiều sai phạm. Nhiều trường hợp các sai
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 10


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

phạm của Tòa án cấp dưới không được khắc phục kịp thời, không bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, làm giảm uy tín của Tòa án
và làm cho mục đích của xét xử phúc thẩm không đạt được.
Trong thực tế xét xử, theo số liệu thống kê hàng năm số lượng kháng cáo luôn
lớn hơn số lượng kháng nghị của VKS.
Nhiều trường hợp kháng cáo không hợp pháp vẫn tồn tại phổ biến. Trong thực
tiễn xét xử, thụ lý kháng cáo cho thấy các đơn kháng cáo khộng hợp pháp và không
được chấp nhận tập trung ở những trường hợp:
+ Kháng cáo quá hạn mà không đưa ra được lý do chính đáng
+ Người kháng cáo không thuộc những quy định tại Điều 231 BLTTHS “Những

người có quyền kháng cáo”. Ví dụ như cha, mẹ kháng cáo thay cho con là người đã
thành niên; vợ (hoặc chồng) kháng cao thay cho chồng (hoặc vợ) không phải là
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất…
+ Kháng cáo vượt phạm vi, vượt giới hạn mà pháp luật cho phép. Ví dụ nguyên
đơn dân sự kháng cáo phần hình phạt đối với bị cáo;
+ Người có quyền kháng cáo nhờ người khác kí hộ đơn kháng cáo hoặc đơn kháng
cáo gửi đúng hạn nhưng không có chữ kí, địa chỉ hoặc kháng cáo của bị cáo đang
bị tạm giam không có xác nhận của Ban giám thị trại giam.
+ Đơn kháng cáo của người tham gia tố tụng mà tư cách tố tụng của họ bị Tòa án
đã xét xử sơ thẩm xác định sai. Người kháng cáo thực chất không có quyền này
hoặc vì thế mà phạm vi kháng cáo của họ không đúng với quy định của pháp luật;
Trên đây là một số những trường hợp điển hình, tổng kết lại thì có thể thấy kháng
cáo không hợp pháp chủ yếu là do vi phạm những quy định của pháp luật về chủ
thể, thời hạn, hình thức.

Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 11


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

Từ việc phân tích những thực trạng thực hiện quyền kháng cáo trên có thể thấy
thực tiễn kháng cáo trong thời gian qua bên cạnh việc đã đạt được những kết quả
nhất định vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế. Nguyên nhân có thể kể đến như:
- Do sự bất cập của một số quy định pháp luạt hiện hành và thiếu các văn bản
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.

- Do hạn chế về trình độ, năng lực, đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán
bộ các cơ quan điều tra có liên quan trực tiếp nhất là đội ngũ cán bộ thụ lí
kháng cáo, cán bộ Ban giám thì trại giam. Thực tế cho thấy nhiều trường hợp
đơn kháng cáo vi phạm những quy định hoàn toàn có thể khắc phục được
nhưng do ý chí chủ quan, không thiện cảm với một số bị cáo nên cán bộ Ban
giám thì trại giam có thể thờ ơ với những sai sót của họ, do thiếu trách
nhiệm nên không ghi nhận đơn kháng cáo.
- Tình trạng một số TAND cấp tỉnh có số lượng Thẩm phán còn thiếu sơ với
biên chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
- Việc tổ chức đánh giá rút kinh nghiệm về kháng cáo chứa được thực hiện
một cách thường xuyên, đặc biệt về việc rút kinh nghiệm những trường hợp
xử lý đơn kháng cáo, những khó khăn vướng mắc trong việc thống nhất, bổ
sung, thay đổi, rút kháng cáo… Còn thiếu các văn bản tổng kết về hoạt động
kháng cáo. Việc tổng kết, rút kinh nghiệm trong hoạt động kháng cáo đó
không được quan tâm thực hiện một cách đúng mực là một trong những
nguyên nhân dẫn đến những bất cập hạn chế về kháng cáo phúc thẩm như
hiện nay.
IV. NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC
KHÁNG CÁO
Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm:
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 12


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012


- Về chủ thể của quyền kháng cáo:
+ Phạm vi kháng cáo của người bị hại
Hiện nay trong pháp luật TTHS nước ta có một số quy định không rõ rang và
thống nhất về phạm vi kháng cáo của người bị hại.
Khoản 2 Điều 51 BLTTHS quy định: “Người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của họ có quyền [..] kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi
thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo.”. Quy định như vậy là chưa đầy đủ,
không tạo điều kiện cho họ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình, làm
phát sinh vướng mắc khi áp dụng
Điều 231 BLTTHS: “Người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền
kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm”. Quyết định này được NQ số 05 hướng dẫn
như sau: “Người bị hại, người đại diện hợp pháp […] có quyền kháng cáo toàn bộ
bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm
xấu hơn tình trạng của bị cáo”. Quy định như vậy là quá rộng và chưa hợp lý vì
nếu cho phép họ kháng cáo toàn bộ bản án như bị cáo thì vô hình chung cho họ
hangg cáo cả nhứng quyết định không liên quan gì đến họ như: quyết định xử lý
vật chứng, quyết định về án phí….
Khoản 3 Điều 249 quy định: “ Trong trường hợp […] người bị hại kháng cáo
yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể thăng hình phạt, áp dụng điều khoản
BLHS về tội nặng hơn….”. Theo quy định này,có thể hiểu người bị hại được pháp
luật cho phép kháng cáo cả phần tội danh không chỉ là nhứng trường hợp đã nên
trên.
Để thống nhất về phạm vi kháng cáo của người bị hại, có thể quy định Điều 231
như sau: “Người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo
bản án, quyết định sơ thẩm cả về phần hình phạt và phần bồi thường thiệt hại”. Và
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 13



Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

2012

sửa đổi quy định tại Điều 51 như sau: “Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp
của họ có quyền […] kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo
quy định tại Điều 231 của bộ luật này.”
Tại Điều 249 của BLTTHS cũng có một điểm cần bổ sung, cụ thể: “Trong
trường hợp […] người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ kháng cáo yêu
cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về
tội nặng hơn”. Như vậy sẽ thống nhất với NQ số 05 quy định người đại diện hợp
phá của người bị hại cũng có quyền kháng cáo theo hướng tăng nặng đối với bị
cáo.
- Về việc thông báo kháng cáo:
Nên bổ sung khoản 1 Điều 236 BLTTHS như sau: “Việc kháng cáo, kháng nghị
phải được Tòa án cấp sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho VKS cùng cấp, bị cáo
và những người tham gia tố tụng có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong thời hạn
bảy ngày kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị.”
- Về vấn đề bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo:
Khoản 1 Điều 238 BLTTHS được hiểu là quy định việc bổ sung , thay đổi kháng
cáo chỉ được theo hướng không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo đã hạn chế ý
nghĩa của quyền kháng cáo. Ngược lại, nếu quy định cho phép kháng cáo theo
hướng có thể làm xấu hơn tình trạng của bị cáo thì lại dẫn đến sự tùy tiện, vô trách
nhiệm của chủ thể kháng cáo. Do đó, thay vì phải hướng dẫn cụ thể trong một văn
bản dưới luật, chúng ta có thể quy định trong nội dung điều luật này các thời điểm
và hướng kháng cáo tương ứng cho các chủ thể.
-

Ngoài ra, BLTTHS cũng chưa có quy định về việc triệu tập những người


liên quan xuất hiện khi kháng cáo được thay đổi, bổ sung. Đây là một khiếm
khuyết đối với việc thay đổi, bổ sung kháng cáo mà pháp luật chưa đề cập tới.
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 14


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

-

2012

Cần có những quy định về giới hạn kháng cáo theo hướng có lợi cho bị

cáo. Hiện nay chưa có quy định hay hướng dẫn cụ thể nào về giới hạn kháng cáo,
đặc biệt là đối với trường hợp kháng cáo theo hướng có lợi cho bị cáo.
Ngoài ra, cần có các giải pháp về tổ chức Tòa án các cấp, đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, kĩ năng xét xử cho đội ngũ Thẩm phán; đảm bảo cơ sở vật
chất, kĩ thuật cho ngành Tòa án nói chung và Tòa án phúc thẩm nói riêng
C. KẾT LUẬN
Trong tình hình hiện nay, khi mà số lượng các vụ án hình sự ngày càng gia tăng
với tính chất phức tạp thì việc xét xửa theo nguyên tắc hai cấp xét xử là yêu cầu
quan trọng không thể thiếu trong hoạt động tố tụng. Quy định về quyền kháng cáo
góp phần quan trọng trong việc đảm bảo dân chủ, công bằng xã hội, đảm bảo pháp
chế xã hội chủ nghĩa cũng như quyền lợi, lợi ích hợp pháp của công dân.Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đạt được, cần chú trọng hơn về thực tiễn thi hành luật về
kháng cáo phúc thẩm đồng thời chú trọng hơn nữa những khuyết điểm nhằm nâng
cao hiệu quả của việc kháng cáo.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật TTHS năm 2003
2. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội
3. Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP về Hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm của Bộ luật Tố tụng hình sự”.
4. Luận văn tốt nghiệp, Kháng cáo phúc thẩm trong luật Tố tụng hình sự.
5. Từ điển luật học, nxb Từ điển Bách Khoa
Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 15


Luật Tố tụng hình sự Việt Nam

6. Chinhphu.vn
7. Bình luận khoa học bộ luật TTHS năm 2003
8. Và một số tài liệu tham khảo khác

Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412

Page 16

2012


MỤC LỤC
A.

ĐẶT VẤN ĐỀ.........................................................................................................................................1


B.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.........................................................................................................................1
I.

MỘT SỐ VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG CÁO PHÚC THÂM...............................................1
1.

Khái niệm........................................................................................................................................1

2.

Ý nghĩa.............................................................................................................................................2

II.

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VỀ KHÁNG CÁO THEO THỦ TỤC

PHÚC THẨM.............................................................................................................................................3
1.

Đối tượng của kháng cáo...............................................................................................................4

2.

Chủ thể của quyền kháng cáo.......................................................................................................4

a.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo...................................................................................4


b.

Người bào chữa................................................................................................................................6

c.

Người bảo vệ quyền lợi của đương sự.............................................................................................6

d.

Người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại...............................................................6

e.

Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ........................................7

f.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của họ................................7

3.

Hình thức và thủ tục kháng cáo...................................................................................................7

4.

Thời hạn kháng cáo........................................................................................................................8

5.


Thông báo về việc kháng cáo........................................................................................................8

6.

Hậu quả của kháng cáo.................................................................................................................8

7.

Bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo..............................................................................................9

III.
THỰC TIỄN THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS 2003 VỀ KHÁNG CÁO PHÚC
THẨM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁNG CÁO THEO THỦ TỤC
PHÚC THẨM...........................................................................................................................................10
IV.
C.

NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC KHÁNG CÁO........13

KẾT LUẬN...........................................................................................................................................15

Đinh Thị Diệu Linh – MSSV: 351412



×