Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và quy phạm tập quá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.97 KB, 7 trang )

I. MỞ BÀI
Các tranh chấp quốc tế được giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau
một trong các biện pháp đó là việc sử dụng hình thức tài phán quốc tế. Tòa
án công lý quốc tế Liên hợp quốc là một trong những cơ quan tài phán quốc
tế giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể quốc tế. Không chỉ dừng ở việc giải
quyết tranh chấp giữa các chủ thể quốc tế mà phán quyết của Tòa án công lý
quốc tế Liên hợp quốc có ỹ nghĩa quan trọng trong lĩnh vực thực thi luật
quốc tế. Dưới đây là bài viết của em đi vào tìm hiểu đề tài : Chứng minh
rằng :" phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong
quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và
quy phạm tập quán".

II. NỘI DUNG
1. Khái quát chung về Tòa án công lý quốc tế
a. Lịch sử hình thành
Năm 1939, Chiến tranh thế giới lần 2 bùng nổ đã làm gián đoạn hoạt động
của Pháp viện thường trực. Tình hình thế giới thay đổi sau chiến tranh đòi
hỏi phải có một tổ chức liên quốc gia mới, nhằm duy trì hoà bình và an ninh
quốc tế. Trong tuyên bố Matxcơva ngày 30-10-1943, Chính phủ các nước
Liên xô, Anh và Mỹ (sau đó Trung quốc cũng tham gia) kêu gọi sớm thành
lập một tổ chức quốc tế nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.Tại hội
nghị Sanfrancisco năm 1945, với việc thông qua hiến chương Liên hợp quốc
và quy chế của Liên hợp quốc, Toà án công lý quốc tế, cơ quan pháp lý
chính của Liên hợp quốc , đã được khai sinh, mở ra một chương mới trong
lịch sử tài phán quốc tế. Ngày 31-1-1946, tất cả các thẩm phán của Pháp
viện thường trực tuyên bố từ chức và ngày 5-2-1946, Đại hội đồng Liên hợp
quốc đã tiến hành bầu chọn các thẩm phán của Tòa án công quốc tế.Ngày 6

1



tháng 2 năm 1946, Tòa án công lý của Liên hợp quốc - cơ quan pháp lý
chính của Liên hợp quốc chín thức đi vào hoạt động và chính thức thay thế
pháp viện thường trực từ ngày 18-4-1946. Tòa án có trụ sở chính đặt tại
Lahaye. Tại đây, tòa tiến hành các thủ tục tiến hành tranh tụng giữa các bên
và thủ tục nghị án. Cơ sở pháp lý để Tòa án hoạt động là Hiến chương Lien
hợp quốc 1945 và Quy chế của Tòa án công lý quốc tế được thông qua 1946.
b. Thành phần và tổ chức của Tòa án công lý quốc tế
Hoạt động chức năng của Tòa án được tiến hành bởi các thẩm phán được
bầu theo quy chế. Cơ quan có thẩm quyền đề cử và bầu thành viên của Tòa
án công lý quốc tế Liên hợp quốc là Đại hội đồng và Hội đồng bảo an. Số
lượng thành viên của Tòa án được ấn định là 15 thành viên, với nhiệm kỳ
chung là 9 năm, trong đó có phân thành tỷ lệ 1/3 số thành viên có nhiệm lỳ 3
năm và 6 năm. Tiêu chuẩn được bầu là thẩm phán của Tòa án công lý quốc
tế căn cứ vào năng lực cá nhân, quốc tịch, tương quan vị trí địa lý và hệ
thống pháp luật trên thế giới. Các thẩm phán của Tòa không đại diện cho
chính phủ nước nào và hoạt động hoàn toàn độc lập.
Bên cạnh thẩm phán của Tòa, khi phiên tòa mở, các bên có thể lựa chọn
thẩm phán ad hoc nhằm đảm bảo nguyên tắc công bằng.Khi một trong các
bên tranh chấp có thẩm phán mang quốc tịch nước mình, phía bên kia có
quyền cử trọng tài ad hoc của mình hoặc yêu cầu không đưa trọng tài mang
quốc tịch phía bên kia vào danh sách thành viên tham gia xét xử. Nếu cả hai
bên đều không có thẩm phán mang quốc tịch nước mình thì mỗi bên có thể
lựa chọn một vị thẩm phán ad hoc. Tiêu chuẩn của thẩm phán ad hoc tương
tự tiêu chuẩn của thẩm phán của Tòa.
Các phụ thẩm có thể được Tòa tự lựa chọn hoặc theo yêu cầu của các bên
đưa ra trước khi kết thúc thủ tục viết.Họ có quyền tham dự các phiên họp
của Tòa hay Tòa rút gọn nhưng không có quyền bỏ phiếu.
2



Ban thư ký Tòa gồm chánh thư ký, phó chánh thư ký và các nhân viên.
chánh thư ký và phó chánh thư ký do Tòa bầu theo phương thức bỏ phiếu
kín, với nhiệm kỳ 7 năm, các nhân viên thư ký do Tòa hoặc chánh thư ký
Tòa đề cử. Ban thư ký là cơ quan hành chính thường trực của Tòa và chỉ phụ
thuộc vào Tòa, đảm trách các dịch vụ tư pháp và là bên liên lạc giữa Tòa và
các quốc gia.
c. Thẩm quyền của Tòa án công lý quốc tế của Liên hợp quốc
Trong mọi trường hợp xảy ra tranh chấp, thẩm quyền của Tòa án đều
được xác định trên cơ sở ý chí chủ thể tranh chấp và khi thẩm quyền của Tòa
án được viện dẫn đến thì thẩm quyền này độc lập, dựa trên sự tự nguyện của
các bên hữu quan mà không bị bất kỳ sức ép chính trị, kinh tế nào. Các quốc
gia có thể lựa chọn thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa được thiết lập
theo ba phương thức, như chấp nhận thẩm quyền của Tòa án theo từng vụ
việc, chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa án trong các điều ước quốc tế
hoặc được tuyên bố đơn phương chấp nhận thẩm quyền của Tòa. Ngoài ra,
Tòa đưa ra các quyết định tư vấn được xác định theo Điều 96 Hiến chương
Liên hợp quốc và chỉ định các chánh án của Tòa trọng tài, Ủy ban trọng tài
hoặc hòa giải và các ủy viên khi cần hoặc theo yêu cầu của quốc gia.
d. Thủ tục tố tụng tại phiên tòa
Tòa án công lý quốc tế Liên hợp quốc xét xử một vụ tranh chấp theo hai
trình tự đầy đủ và rút gọn. Thành phần của phiên tòa có thể là toàn bộ các
thẩm phán, có thể là ít hơn nhưng tối thiểu là chín vị thẩm phán. trong phạm
vi chức năng của mình, Tòa có thể thành lập các Tòa đặc thù như Tòa rút
gọn trình tư tố tụng, gồm năm thẩm phán ( chánh án, phó chánh án và ba
thẩm phán khác ), Tòa đặc biệt gồm ba thẩm phán hoặc nhiều hơn, Tòa rút
gọn hay tòa ad hoc đối với từng vụ việc ( thành phần theo sự chấp thuận của
các bên ). Các bước thuộc trình tự xét xử của Tòa thường gồm hai giai đoạn
3



là giai đoạn xem xét về hình thức, tức là giai đoạn xem xét thẩm quyền của
Tòa và giai đoạn thứ hai xét xử về nội dung vụ việc, theo hai thủ tục nói và
viết.
Trong thủ tục viết, các bên hoàn thành và trao đổi bị vong lục, phản bị
vong lục về lập luận của từng bên và các lý lễ luận tội hay bào chữa.Ở thủ
tục nói, còn gọi là thủ tục tranh tụng, thời gian và địa điểm do Tòa quyết
định, có tính đến yêu cầu của các bên và thời gian biểu của Tòa. Khi hoàn
thành các thủ tục trên, tòa ra quyết định cuối cùng giải quyết tranh chấp.
Song có thể lưu ý rằng 1 vụ án có thể kết thúc mà Tòa không cần đưa ra
phán quyết, đó là trường hợp, hai bên tự giải quyết và đạt được thỏa thuận
hòa bình giải quyết tranh chấp hoặc bên nguyên đơn rút đơn kiện hay cả hau
bên từ bỏ vụ kiện.Nếu rơi vào các trường hợp trên, vụ án kết thúc bằng một
bản án xét xử nội dung, được thông qua sau quá trình nghị án.
2. Phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong
quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và
quy phạm tập quán.
Thứ nhất, Tòa án công lý quốc tế có hai chức năng chính đó là : Giải
quyết tranh chấp giữa các nước; Đưa ra kết luận tư vấn nhứng vấn đề pháp
lý cho Hội đồng bảo an và Đại hội đồng ( hoặc tư vấn pháp lý cho các cơ
quan tổ chức chuyên môn khác của Hiên hợp quốc nếu được Đại hội đồng
cho phép ). Như ta đã biết, Tòa án công lý quốc tế là cơ quan pháp lý chính
của Liên hợp quốc không phải là một tổ chức lập pháp mà chỉ là một cơ
quan tài phán đưa ra các phán quyết và các kết luận tư vấn trong chừng mực
thẩm quyền cho phép.Mặt khác, một trong những chức năng chính của Tòa
án công lý quốc tế là đưa ra kết luận tư vấn những vấn đề pháp lý cho Hội
đồng bảo an và Đại hội đồng. Từ chức năng này thì Tòa đã góp nhiều ý kiến
tư vấn về pháp lý cho Liên hợp quốc cũng như góp phần phát triển quốc tế
4



và khoa học pháp lý quốc tế. Thực tiễn hoạt động của Tòa án công lý quốc tế
Liên hợp quốc cho thấy kết quả xét xử thể hiện tại bản án, ngoài chức năng
giải quyết tranh chấp mà tòa có thẩm quyền còn có ý nghĩa tư vấn quan
trọng trong lĩnh vực thực thi luật quốc tế. Chức năng này thể hiện sự đóng
góp của những phán quyết quan trọng trong việc làm sáng tỏ một nội dung
quy quy phạm luật quốc tế hiện hành, tạo tiền đề pháp lý hình thành quy
phạm mới của luật quốc tế và có tác động tích cực đến quan niệm, cách ứng
xử của chủ thể quan hệ pháp luật quốc tế đồng thời có tác dụng bổ sung nhất
định những khiếm khuyết của luật quốc tế.
Thứ hai, Theo khoản 1, Điều 38 Quy chế Tòa án quốc tế thì : " 1. Tòa án,
với chức năng là giải quyết phù hợp với luật quốc tế các vụ tranh chấp được
chuyển đến Tòa án, sẽ áp dụng:
a. Các điều ước quốc tế, chung hoặc riêng, đã quy định về những nguyên
tắc được các bên đang tranh chấp thừa nhận;
b. Các tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung, được thừa
nhận như những quy phạm pháp luật;
c. Nguyên tắc chung của luật được các quốc gia văn minh thừa nhận
d. Với những điều kiện nêu ở điều 59, các án lệ và các học thuyết của các
chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế của các quốc gia khác
nhau được coi là phương tiện để xác định các qui phạm pháp luật ".Qua đó
ta thấy, khi giải quyết các vụ tranh chấp được chuyển đến Tòa án công lý
quốc tế, thì Tòa án chỉ áp dụng các quy phạm pháp luật quốc tế đã quy định
tại khoản 1 Điều 38 quy chế Tòa án quốc tế để giải quyết các vụ tranh chấp
trên. Trong đó , tại điểm a, b khoản 1 Điều 38 Quy chế Tòa án quốc tế có
quy định các điều ước quốc tế, các tập quán quốc tế được áp dụng để giải
quyết các vụ tranh chấp, chứ Tòa án không đặt ra chúng và phán quyết của

5



Tòa án chỉ dùng với tư cách là phương tiện bổ trợ để xác định các quy phạm
pháp lý.
Thứ ba, về pháp lý, phán quyết của Tòa có giá trị chung thẩm và bắt buộc
với các bên. Nếu một trong các bên không chịu thi hành bản án, phía bên kia
có quyền yêu cầu Hội đồng bảo an cân thiệp, buộc phải chấp hành. Phán
quyết của Tòa chỉ có giá trị pháp lý với các bên tranh chấp. Tuy nhiên, trong
một số trường hợp, phán quyết của Tòa có tác động gián tiếp tới bên thứ ba,
ví dụ, các thành viên của điều ước quốc tế đa phương không thể bỏ qua phán
quyết của Tòa, liên quan đến việc giải thích điều ước đó. Trong trường hợp
các bên bất đồng với việc giải thích và thực hiện phán quyết thì có thể yêu
cầu Tòa giải thích hoặc sửa đổi phán quyết. Tòa xem xét có thể chấp nhận
hay từ chối yêu cầu này.Mặc dù mỗi phán quyết của Tòa không đương nhiên
có giá trị là tập quán quốc tế nhưng trên thực tế vẫn gián tiếp tác động thái
độ của các quốc gia đối đối với vấn đề mà Tòa đã phân xử để qua đó, tác
động tới quan niệm và ý chí của chủ thể luật quốc tế. Vì vậy, trên bình diện
chung, có thể đánh giá đóng góp quan trọng mà các bản án do Tòa đưa ra đối
với sự phát triển của luật quốc tế là việc, các chủ thể luật quốc tế, ngoài
trường hợp viện dẫn kết quả giải quyết của Tòa với tính chất của luật tập
quán thì hoàn toàn có thể chấp nhận và áp dụng từng phần hay toàn bộ phán
quyết của tòa với tư cách là phương diện bổ trợ nguồn luật quốc tế.
Thật vậy, ta có thể lấy dẫn chứng thực tế trong vụ tranh chấp ngư trường
Anh – Na Uy năm 1951.Theo đó , đường cơ sở thẳng được xác định theo
phương pháp nối liền các điểm thích hợp được lựa chọn tại những điểm
ngoài cùng nhô ra biển tại mức thủy triều thấp nhất ( trung bình nhiều năm ).
Trước khi được pháp điển hóa thành điều khoản của điều ước quốc tế thì nó
là phương pháp tập quán phổ biến nhất của tập quán quốc tế . Cụ thể là phán
quyết của tòa án quốc tế năm 1951 trong vụ giải quyết tranh chấp ngư
6



trường Anh – Na Uy. Từ phán quyết này của tòa án, rất nhiều quốc gia có
đường bờ biển khúc khuỷu như của Na Uy đã áp dụng phương pháp đường
cơ sở thẳng. Như vậy, ban đầu phán quyết dùng đường cơ sở thẳng để xác
định các vùng biển của quốc gia mình này của Tòa án quốc tế chỉ có giá trị
bắt buộc đối với các bên tranh chấp, nhưng sau đó nó trở thành quy phạm
luật quốc tế được sử dụng rộng rãi và được cộng đồng quốc tế thừa nhận,
được ghi nhận trong công ước Luật Biển 1982 và các tập quán quốc tế.Qua
đó ta có thể thấy được phán quyết của Tòa án công lý quốc tế trong vụ giải
quyết tranh chấp ngư trường Anh – Na Uy đã trỏ thành quy phạm điều ước,
quy phạm tập quán được ghi nhận trong Luật Biển 1982 và các tập quán
quốc tế.
Qua những vấn đề được nêu trên ta thấy : phán quyết của tòa án công lý
quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn
áp dụng quy phạm điều ước và quy phạm tập quán.

III. KẾT LUẬN
Tòa án công lý quốc tế là một trong hai cơ quan tài phán quốc tế có vai trò
rất quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp giữa các nước và có ý
nghĩa tư vấn quan trọng trong lĩnh vực thực thi luật quốc tế. Những phán
quyết của Tòa án công lý quốc tế như đã phân tích ở trên có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều
ước và quy phạm tập quán. Hiện nay tồn tại nhiều tòa án quốc tế , nhưng với
sự tin tưởng vào uy tín của Tòa án công lý quốc tế thì rất nhiều các vụ tranh
chấp phát sinh giữa các nước được gửi đến Tòa án công lý quốc tế Liên hợp
quốc để giải quyết.

7




×