Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

bài tập lớn dân sự 2 một số vấn đề liên quan đến quyền hiến xác, bộ phận cơ thể người của cá nhân sau khi chết (7 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.82 KB, 24 trang )

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Luật Dân sự năm 2005
2.Trường Đại học Luật, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập 1, NXB CAND
3.Luật hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 và các
văn bản hướng dẫn.
4.Quy định hướng dẫn tư vấn, kiểm tra sức khỏe cho người hiến mô, bộ phận cơ
thể ở người sống; hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết và người hiến
xác, ban hành kèm theo Quyết định số 13/2008/QĐ-BYT ngày 12/3/2008 của Bộ
trưởng Bộ y tế.
5.Bộ môn Luật Dân sự trường Đại học Luật Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp trường, Quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân theo pháp luật dân sự,
tháng 12/2008.
6.Phùng Trung Tập, “Về quyền hiến bộ phận cơ thể và hiến xác sau khi chết”,
tạp chí Tòa an nhân dân, số 1/2006.
7.Bùi Đức Hiển, “Hoàn thiện hơn nữa Luật hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến, lấy xác”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 4(121) tháng 4/2008.

0


LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện thế giới hiện nay nói chung và nước ta nói riêng, khi mà các
giá trị vật chất của con người ngày càng được thỏa mãn đầy đủ hơn thì chúng ta
ngày có xu hướng quan tâm đến các giá trị của cá nhân, một trong những giá trị
mà con người hướng tới đó chính là “quyền hiến xác, bộ phận cơ thể người của
cá nhân sau khi chết”. Xung quanh đề tài này còn khá nhiều vấn đề thú vị và
quan trọng. Dưới đây là phần tìm hiểu của em về một số vấn đề liên quan đến
quyền hiến xác, bộ phận cơ thể người của cá nhân sau khi chết.
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ XÁC VÀ QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ
NHÂN SAU KHI CHẾT


Chết được hiểu là sự chấm dứt các hoạt động của một sinh vật hay ngừng vĩnh
viễn mọi hoạt động sống ( không thể phục hồi) của một cơ thể.
Xác chết được xem là cơ thể của người chết đã chấm dứt mọi hoạt động sống.
1.Đặc điểm của quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết.
Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nằm trong hệ thống các
quyền nhân thân. Việc hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết liên
quan trước tiên đến bản thân người hiến tặng, do đó đây được coi là quyền nhân
thân không thể dịch chuyển cho người khác. Và được quy định tại Điều 34
BLDS 2005, do đó phải tuân theo các nguyên tắc chung của luật dân sự. Ngoài
ra, do là quyền nhân thân đặc biệt cho nên việc hiến xác, bộ phận cơ thể của cá
nhân sau khi chết còn mang những đặc trưng riêng.
1.1. Với tư cách là một quyền nhân thân, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá
nhân sau khi chết mang những đặc điểm chung của quyền nhân thân
Thứ nhất, tính chất cá nhân tuyệt đối. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn
liền với một chủ thế, về nguyên tắc không thể chuyển giao cho chủ thể khác.
1


Luật dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân là quyền nhân thân và quy định các
biện pháp bảo vệ. Quyền nhân thân thuộc về cá nhân cụ thể từ khi người đó được
sinh ra hoặc theo những căn cứ khác do pháp luật quy định. Là các yếu tố cấu
thành không thể tách rời khỏi cá nhân chủ thể, những giá trị nhân thân được cá
thể hoá, làm cho bản thân người mang các giá trị đó là hoàn toàn không thể lặp
lại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định có thể dịch chuyển được
nhưng phải do pháp luật quy định (quyền công bố tác phẩm của tác giả các tác
phẩm, các đối tượng sở hữu công nghiệp…).
Thứ hai, quyền nhân thân không xác định được bằng tiền – Giá trị nhân
thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi
ngang giá. Về cơ bản, chủ thể của quyền nhân thân chỉ được hưởng lợi ích tinh
thần mà không được hưởng lợi ích vật chất. Bên cạnh đó, có những trường hợp

đặc biệt, quyền nhân thân mang lại lợi ích vật chất cho chủ thể quyền. Những lợi
ích vật chất mà chủ thể quyền được hưởng ở đây có được là do giá trị tinh thần
mang lại (ví dụ: trường hợp góp vốn bằng uy tín trong một doanh nghiệp). Như
vậy, một trong những tiêu chí phân loại quyền nhân thân là dựa vào yếu tố tài
sản, theo đó, có thể chia quyền nhân thân làm hai loại: quyền nhân thân gắn với
tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản.
Thứ ba, quyền nhân thân được xác lập không dựa trên các sự kiện pháp lý
mà chúng được xác lập trực tiếp trên cơ sở những quy định của pháp luật.
Thứ tư, mỗi một chủ thể có một giá trị nhân thân khác nhau nhưng được bảo
vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm.
1.2. Đặc điểm riêng của quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi
chết
Mục đích chủ yếu của việc thực hiện quyền này không phải đem lại lợi ích
cho chủ thể quyền như đại đa số các quyền nhân thân khác, mà nhằm đem lại lợi
ích cho người khác, lợi ích cho toàn xã hội. Lợi ích mà chủ thể quyền đạt được
2


chủ yếu là lợi ích tinh thần, là niềm vui khi cứu sống được người khác đang mắc
bệnh hiểm nghèo, đặc biệt khi người bệnh lại là người thân thích, ruột thịt của
mình; hoặc niềm vui khi thấy mình cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa
học. Lợi ích vật chất có thể có nhưng không phải là chính yếu. Lợi ích của chủ
thể quyền thực sự rất khiêm tốn so với lợi ích to lớn mà xã hội nhận được từ việc
người đó thực hiện quyền của mình.
Hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết vẫn được coi là “quyền”
mặc dù những lợi ích to lớn mà nó đem lại chủ yếu là cho người khác và cho xã
hội, trong khi lợi ích mang lại cho chủ thể quyền hầu như không đáng kể.
“Quyền” ở đây được hiểu là sự tự do ý chí lựa chọn hành động của chủ thể trong
khuôn khổ pháp luật: mỗi cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền tự
quyết định đối với thân thể của mình, không ai có quyền can thiệp hay ngăn cản;

kể cả là những người thân thích, ruột thịt.
2. Việc ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết trong các văn
bản pháp luật.
2.1 Trong Bộ Luật Dân sự năm 2005.
Hiến xác là một vấn đề dường như còn rất xa lạ không chỉ đối với người dân
Việt Nam mà còn với nhiều quốc gia khác. Trong thực tế không mấy người có ý
định sẽ hiến cơ thể mình cho việc cứu người hoặc cho việc nghiên cứu khoa học,
có thể một phần do khái niệm này còn quá mới lạ hoặc có thể do phong tục quan
niệm từ xưa đến nay khi chết họ muốn toàn vẹn vì kết thúc cuộc sống ở thế giới
này nhưng khi sang thế giới bên kia họ có thể tiếp tục sống tiếp. Nhưng cũng có
nhiều trường hợp có người đồng ý hiến xác thì những người thân của họ lại
không chấp nhận hoặc việc đăng kí hiến xác của một cá nhân mà người thân của
họ không biết đến khi người thân của họ chết họ mới biết và quá bất ngờ và
thường không chấp nhận việc đó.

3


Việc hiến xác của cá nhân sau khi chết là vấn đề được bàn luận và tranh cãi rất
nhiều của các đại biểu quốc hội và rất nhiều ý kiến của dư luận và nó mới chính
thức quy định cụ thể hóa tại Điều 34 BLDS năm 2005 thuộc nhóm các quyền
nhân thân.
Điều 34 BLDS 2005 quy định về quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi
chết: “ Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết vì mục
đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học. Việc hiến và sử dụng
xác, bộ phận cơ thể của người chết được thực hiện theo quy định của pháp luật.”
2.2 Trong Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989.
Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989
“Điều 30: Lấy và ghép mô hoặc một bộ phận của cơ thể con người.
1- Thầy thuốc chỉ tiến hành lấy mô hoặc bộ phận của cơ thể người sống

hay người chết dùng vào mục đích y tế sau khi đã được sự đồng ý của người cho,
của thân nhân người chết hoặc người chết có di chúc để lại.
2- Việc ghép mô hoặc một bộ phận cho cơ thể người bệnh phải được sự
đồng ý của người bệnh hoặc thân nhân hay người giám hộ của người bệnh chưa
thành niên.
3- Bộ y tế quy định chế độ chăm sóc sức khoẻ người cho mô hoặc một bộ
phận của cơ thể”.
* Bên cạnh đó, vấn đề này cũng được cụ thể hóa trong trong Điều 10 của
Nghị định ban hành kèm theo Điều lệ khám chữa bệnh và phục hồi chức năng số
23-HĐBT ngày 21/1/1991:
“1- Việc lấy mô bộ phận cơ thể của người sống phải được người đó tự
nguyện và viết thành văn bản.
2- Việc lấy mô hoặc một bộ phận của cơ thể người được tiến hành trong
các trường hợp:

4


_ Người chết có di chúc để lại đồng ý cho mô hoặc một bộ phận cơ thể của
họ
_ Người chết không có di chúc nhưng được thân nhân người chết đồng ý cho
bằng văn bản.
_ Người chết vô thừa nhận.
3- Cơ quan y tế được quyền tiếp nhận, bảo quản và sử dụng mô hoặc một
bộ phận cơ thể con người.
4- Các thủ tục, tiến hành ghép mô hoặc một bộ phận cơ thể con người
được tiến hành như các trường hợp phẫu thuật ghi trong Điều 8 của Điều lệ này.
5- Cơ sở y tế tiến hành lấy mô hoặc một bộ phận cơ thể của người cho có
trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho họ trước, trong và sau khi lấy.”
2.3 Trong Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác

Ngày 29/11/2006, Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến,
lấy xác được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Việc
ghi nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác thành một luật riêng là một
bước tiến lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với xã hội, thể hiện sự nhân đạo
và sự quan tâm của nhà nước đối với sức khỏe nhân dân, đồng thời cũng thể hiện
sự trình độ của các nhà làm luật.
3. Thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết mang
lại nhiều ý nghĩa vô cùng to lớn.
Vai trò chủ yếu của pháp luật về hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi
chết ở các quốc gia là thiết lập một cơ chế phân bổ một cách công bằng, bình
đẳng nguồn “tài nguyên” chữa bệnh quý giá và khan hiếm này cho những bệnh
nhân nguy kịch nhất, hiểm nghèo nhất, thêm hi vọng chữa bệnh cho những bệnh
nhân nghèo.
Việc thừa nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết có ý nghĩa vô
cùng quan trọng:
5


Đối với người cần hiến tạng: Việc thừa nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể
góp phần làm tăng số lượng người hiến. Đối với hàng ngàn bệnh nhân đang mòn
mỏi trông chờ được hiến tạng thì điều đó có ý nghĩa vô cùng to lớn, điều đó là tia
hy vọng cứu chữa căn bệnh của họ, giúp họ vượt qua cơn nguy kịch về tính
mạng, giảm bớt chi phí thuốc thang
Đối với bản thân những người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết:
+ Tạo điều kiện và hành lang pháp lí cho họ thực hiện ý nguyện giúp đỡ
người khác, nhất là khi những người cần cứu chữa đó lại là những người thân
yêu của họ. Qua việc thực hiện quyền này, những người hiến tặng đã thể hiện
được tình cảm, lòng nhân ái bao dung của mình đối với người bệnh và đối với
khoa học. Những người hiến tặng được nhà nước truy tặng huy chương cao quý
cho những đóng góp to lớn của họ đối với xã hội. Việc truy tặng này của nhà

nước góp phần động viên về mặt tinh thần đối với những người hiến tặng.
+ Việc ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết
chính là một bảo đảm cho sự tự do ý chí lựa chọn hành động của các cá nhân
trong lĩnh vực đặc thù và hết sức nhạy cảm này.
Đối với nhà nước: Việc ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể người sau
khi chết thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với quyền lợi và sức khỏe của
nhân dân. Góp phần hoàn thiện, nâng cao hệ thống y tế để phục vụ ngày càng tốt
hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân và nghiên cứu khoa học.
4. Nguyên tắc ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến bộ phận cơ thể
Điều 4 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
2006 quy định về Các nguyên tắc trong việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ
thể người và hiến, lấy xác:
“1. Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép.
2. Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học.
3. Không nhằm mục đích thương mại
6


4. Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được
ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác.”
4.1 Nguyên tắc tự nguyện
Việc cá nhân hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi chết là quyền của mỗi cá
nhân, không phải là nghĩa vụ không ai có quyền hoặc cản trở người khác thực
hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Hiến xác, bộ phận cơ thế sau
khi chết mang tính tự nguyện, tức là phải có sự thống nhất giữa ý chí bên
trong của cá nhân và sự bày tỏ được ý chí bên ngoài hơn nữa vấn đề hiến xác
hiện còn là một vấn đề rất nhạy cảm nên một cá nhân khi thực hiện việc hiến
xác của mình sau khi chết phải được thể hiện một cách rõ ràng bằng văn bản
chứ không chỉ bằng lời nói như một số giao dịch dân sự thông thường để tránh

một số vấn đề đảm bảo tính minh bạch.
Điều kiện để một cá nhân có thể thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể:
Người có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật và trong trạng thái minh
mẫn, sáng suốt, không bị ép buốc về mặt tinh thần khi thể hiện ý chí hiến của
mình cho người khác mà mục đích hiến đã được xác định rõ ràng (theo Luật
hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác là một cá nhân phải
đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực dân sự đầy đủ) thì đều có quyền bày tỏ nguyện
vọng hiến xác, bộ phận cơ thể của mình với cơ sở y tế. Người đã đăng ký hiến
xác, bộ phận cơ thể có quyền thay đổi hoặc hủy bỏ đơn đăng ký. Ngoài ra cơ
sở y tế chỉ được lấy mô, bộ phận cơ thể của người sống đã đăng ký hiến.
Trong trường hợp cấp cứu mà cần phải cấy ghép bộ phận cơ thể hoặc cần
ghép bộ phận cơ thể cho cha, mẹ, anh, chị, em ruột thì được phép lấy bộ phận
cơ thể của người chưa đăng ký nếu có sự đồng ý của người đó.
Ngoài ra nếu như ở Việt Nam quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
mới được ghi nhận trong BLDS năm 2005 và chỉ áp dụng nguyên tắc “tự
7


nguyện” do xuất phát từ đặc điểm tâm lý, văn hóa, phong tục tập quán của
người Việt rất coi trọng sự toàn vẹn của cơ thể của thi hài người quá cố thì
pháp luật một số nước lại thừa nhận nguyên tắc “suy đoán ý chí” cho phép lấy
mô và bộ phận cơ thể người chết trừ khi người đó đã thể hiện rõ ràng sự phản
đối khi họ còn sống, nguyên tắc này áp dụng ở mức độ khác nhau: một là áp
dụng ở mức độ “cứng”, theo đó không cho phép gia đình của người chết can
thiệp vào quá trình lấy bộ phận cơ thể, hai là ở mức độ “mềm”, theo đó việc
lấy bộ phận cơ thể người chết phải được sự đồng ý của gia đình người đó, ba
là áp dụng mức độ “triệt để”, theo đó một cá nhân phải đăng ký tại tòa án về
việc mình không muốn hiến bộ phận cơ thể sau khi chết và đó là cách duy
nhất để người đó không bị lấy bộ phận cơ thể sau khi chết. Quốc gia đầu tiên
áp dụng nguyên tắc này là Singapore và sau đó là một số nước Châu Âu như:

Tây Ban Nha, Áo, Bỉ…bắt đầu từ thập niêm 80 của thế kỷ trước, trước đây
vào thập niên 60,70 của thế kỷ trước thì hầu hết các nước đều áp dụng nguyên
tắc “tự nguyện hiến” nhưng việc áp dụng như vậy thì số lượng bộ phận cơ thể
hiến tự nguyện rất ít không áp ứng được nhu cầu chữa bệnh. Việc áp dụng
nguyên tắc “suy đoán ý chí” đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia thì
trong tương lai Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc “suy đoán ý chí” một
cách phù hợp nhằm tăng nguồn thu cung cấp bộ phận cơ thể phục vụ cho sự
nghiệp chữa bệnh cứu người của ngành y tế nước nhà.
4.2 Nguyên tắc “phi thương mại”
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng. Việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi
chết chỉ nhằm mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa
học, không nhằm mục đích lợi nhuận. Mục đích của hiến xác, bộ phận cơ thể
luôn luôn phải được đặt ra như một sự kiểm soát đặc biệt của pháp luật đối với
vấn đề có tính chất xã hội nhạy cảm này. Nguy cơ các bộ phận cơ thể người trở
thành hàng hoá giao dịch trên thị trường đang hiện hữu ngày càng rõ nét.
8


Pháp luật một số nước thừa nhận việc mua bán bộ phận cơ thể người, nhưng
quan điểm của Việt Nam là không chấp nhận thương mại hoá các bộ phận cơ thể
người. Nguyên tắc “phi thương mại” xuất phát từ đối tượng đặc biệt của quyền
hiến bộ phận cơ thể là “bộ phận cơ thể người”, đây là những bộ phận tạo nên một
con người hoàn chỉnh, gắn liền với sự tồn tại và phát triển bình thường của con
người, không thể là vật đem ra mua bán, trao đổi. Hơn nữa, hiến tặng xác, bộ
phận cơ thể là nghĩa cử vô cùng cao đẹp. Điều quan trọng hơn, một khi hoạt
động “bán” bộ phận cơ thể được thừa nhận sẽ dẫn đến tình trạng hết sức nguy
hiểm – những khoản lợi nhuận từ hoạt động mua bán này có thể làm cho những
kẻ chuyên kinh doanh bộ phận cơ thể người sẵn sàng ép buộc, làm tổn thương
người khác, thậm chí giết người để lấy bộ phận cơ thể họ. Như thế, quyền hiến
xác, bộ phận cơ thể sẽ không được đảm bảo mà quyền con người còn bị ảnh

hưởng nghiêm trọng (quyền được đảm bảo an toàn tính mạng, sức khoẻ, thân thể
bị xâm phạm, an toàn xã hội không thể kiểm soát được). Ngay cả khi một người
vì quá túng thiếu muốn bán một bộ phận cơ thể của mình, pháp luật cũng không
cho phép, giao dịch đó sẽ là giao dịch vô hiệu tuyệt đối do vi phạm điều cấm của
pháp luật, đồng thời giao dịch đó cũng trái với đạo đức xã hội.
Nguyên tắc “phi thương mại” tạo cơ hội chữa bệnh bình đẳng giữa bệnh
nhân giàu và bệnh nhân nghèo về quyền nhận bộ phận cơ thể người. Nếu cho
phép mua bán, sử dụng bộ phận cơ thể người nhằm mục đích lợi nhuận thì những
bệnh nhân nghèo sẽ hiếm có cơ hội được ghép bộ phận cơ thể người để chữa trị
bệnh. Và nếu như vậy, pháp luật về hiến-nhận bộ phận cơ thể người đã không
làm tròn được vai trò của nó.
4.3 Nguyên tắc hiến xác, bộ phận cơ thể vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng
dạy hoặc nghiên cứu khoa học.
Nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc “phi thương mại”,
và thực chất là sự cụ thể hoá nguyên tắc đó. Việc hiến bộ phận cơ thể không
9


nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm vào mục đích chữa bệnh, giảng dạy hoặc
nghiên cứu khoa học, trong đó mục đích chữa bệnh là quan trọng, chủ yếu nhất
vì nhu cầu lấy bộ phận cơ thể để chữa bệnh cứu người là rất lớn, rất cấp bách.
Nguyên tắc trên xuất phát từ quan điểm coi con người là giá trị cao quý
nhất, là trung tâm của mọi chính sách, pháp luật, tất cả là vì con người, trong đó,
quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, là cơ sở để
thực hiện các quyền con người khác. Một trong số các biện pháp bảo đảm quyền
sống cho con người chính là tạo điều kiện cả về mặt kỹ thuật, cả về mặt pháp lý
để y học có thể cứu sống được ngày càng nhiều bệnh nhân hiểm nghèo. Vì vậy,
mục đích chữa bệnh của việc hiến bộ phận cơ thể người cần được đặt lên hàng
đầu. Bên cạnh đó, hiến bộ phận cơ thể còn nhằm mục đích giảng dạy, nghiên cứu
khoa học để ngày càng tìm ra các phương thức chữa bệnh hiệu quả hơn, và suy

cho cùng cũng là vì con người.
5.Chủ thể, đối tượng của quyền hiến xác sau khi chết
5.1. Chủ thể của quyền hiến xác.
Cũng giống như chủ thể của các quyền thân nhân khác, chủ thể của quyền
hiến xác sau khi chết cũng là cá nhân. Căn cứ vào Điều 34 BLDS năm 2005 :
“Cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết vì mục đích
chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học…”. Như vậy, đối với
quyền hiến xác pháp luật không có bất kỳ một sự phận biệt nào đối với các chủ
thể có nghĩa là xét về mặt năng lực pháp luật, mọi cá nhân đều có quyền hiến xác
sau khi chết và quyền này được pháp luật tôn trọng bảo vệ và đảm bảo sự bình
đẳng cho các cá nhân thực hiện quyền này. Thậm chí có một số cá nhân bị pháp
luật tước một số quyền công dân vì những lý do khác nhau thì quyền hiến xác
của cá nhân vẫn được pháp luật thừa nhận tôn trọng và bảo vệ.
Quyền hiến xác sau khi chết là một quyền nhân thân quan trọng, mặc dù là
quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện cũng được mà cá nhân đó
10


phải đạt được những điều kiện nhất định, trong đó một điều kiện không thể
không nói đến là điều kiện về độ tuổi và điều kiện về khả năng nhận thức cũng
như điều khiển hành vi. Tại Điều 5 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người hiến, lấy xác có quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống,
sau khi chết và hiến xác”. Bởi vì quyết định hiến xác sau khi chết là một quyết
định quan trọng có ảnh hưởng lớn tới bản thân người hiến cũng như đối với xã
hội, nên pháp luật đòi hỏi người hiến phải là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự, nhằm đảm bảo nguyên tắc tự nguyện của việc hiến xác. Quyền hiến xác
thuộc vào nhóm quyền nhân thân nên phải do cá nhân tự mình tham gia xác lập
và thực hiện. Quyền này không thể thông qua người đại diện cho người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự vì những người này chưa nhận

thức được rõ và sự nhạy cảm của vấn đề này. Người giám hộ của người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự chỉ được thay mặt thực hiện các
giao dịch dân sự liên quan đến tài sản còn các quan hệ nhân thân vẫn phải do chủ
thể đó tự quyết định thực hiện.
Nhưng khi một người đã chết việc hiến xác theo Điều 22 Luật hiến, lấy, ghép
mô bộ phận cơ thể người hiến, lấy xác thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của
cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó hoặc vợ, chồng hoặc đại diện các con
đã thành niên của người đó.
Tuy nhiên còn một vấn đề phải nêu ra nữa đó là về độ tuổi của người hiến xác
sau khi chết theo điểm b,c khoản 2 Điều 22 của Luật hiến, lấy, ghép mô bộ phận
cơ thể người hiến, lấy xác quy định: “…b, Trường hợp người chết không có thẻ
đăng ký hiến xác thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người
giám hộ của người đó hoặc vợ, chồng, các con đã thành niên của người đó.
c, Người chết không xác định được nơi cư trú cuối cùng và có giấy chứng từ do
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó chết cấp” thì việc quy định
11


độ tuổi là không cần thiết nếu được gia đình người giám hộ hợp pháp của người
đó đồng ý bởi:
+ Thứ nhất, Luật hiện hành cho phép cơ sở y tế có quyền nhận mô, bộ phận cơ
thể từ người chết trong trường hợp người đó không có thẻ đăng ký sau khi chết,
nhưng gia đình, cụ thể là người thân thích theo quy định của pháp luật của họ có
đơn muốn hiến.
+ Thứ hai, trường hợp người đó hiến khi còn sống thì điều kiện về năng lực
chủ thể tức là vấn đề khả năng nhận thức hành vi của mình là chưa đầy đủ thì
vấn đề quy định quyền hiến xác còn đặt ra, nhưng trong trường hợp người đó đã
chết thì trên cơ sở pháp luật quy định phải được sự đồng ý của gia đình của cá
nhân đó thì vấn đề đặt ra độ tuổi đối với người hiến liệu có cần thiết nữa không.
5.2 Đối tượng của quyền hiến xác.

Đối tượng của quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là xác người và
bộ phận cơ thể người sau khi người đó đã chết. Cả thể xác bao gồm các bộ phận
cấu tạo nên một chính thể con người như chân, tay, tim, gan,…Dưới góc độ dinh
học cơ bản tất cả những gì thuộc về cơ thể con người, cấu tạo nên cơ thể con
người được gọi là “bộ phận cơ thể”. Nên việc hiến xác được hiểu là hiến tất cả
các bộ phận của cơ thể của cá nhân sau khi chết.
6. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau
khi chết.
6.1Yếu tố kinh tế xã hội
Kinh tế phát triển sẽ có điều kiện đầu tư cho nghiên cứu khoa học, trong đó
có khoa học cấy ghép mô, bộ phận cơ thể. Mặt khác, kinh tế phát triển phúc lợi
xã hội ngày càng cao, việc hiến xác, bộ phận cơ thể người sẽ được Nhà nước đài
thọ hoặc lập quỹ để hỗ trợ các bệnh nhân; đồng thời Nhà nước sẽ cho phép thu
hút nhiều loại hình bảo hiểm hơn để hỗ trợ hiệu quả cho người bệnh.

12


Kinh tế phát triển thì sẽ có điều kiện đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại,
quy mô hơn; đội ngũ chuyên gia y tế sẽ có điều kiện tiếp thu nhiều hơn những
thành tựu y học trên thế giới. Điều này sẽ đảm bảo cho việc lấy và ghép bộ phận
cơ thể có khả năng thành công cao hơn
6.2 Phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa
Đối với vấn đề vô cùng nhạy cảm như Hiến xác, bộ phận cơ thể người sau
khi chết thì phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa chiếm một vị trí vô
cùng quan trọng, nó có sức mạnh điều chỉnh hành vi cũng như quan niệm của
người hiến tặng.
Tín ngưỡng dân gian của người Việt Nam mà đặc biệt là phong tục ma
chay quan niệm: cái chết không phải là sự kết thúc sự sống mà là chỉ là sự
chuyển giao từ dương gian sang âm thế. Người ta co rằng ở âm thế, con người

vẫn sống và sinh hoạt bình thường như những người ở dương gian. Vì vậy, họ rất
coi trọng việc bảo toàn thân xác cho người chết “nghĩa tử là nghĩa tận”, “chết là
phải toàn thây”. Việc hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết khiến thân xác không
được yên nghỉ, khi xuống cõi âm thân thể không toàn vẹn và đó được coi là điều
bất hạnh đối với gia đình người chết.
Theo giáo lí của Phật giáo, chỉ khi thần thức rời khỏi thể xác mới gọi là
chết, chứ không phải sau khi trút hơi thở cuối cùng, và người ta tin rằng chính
hoàn cảnh tử vong lâm sàng và thời gian sau đó, trước khi thần thức thoát đi, là
thời điểm then chốt quyết định sự tái sinh hoặc đầu thai của người đó. Theo quan
niệm này, tốt nhất là không được cắt xẻ thi hài trong vòng ba ngày sau cái chết
lâm sàng, nếu không nó sẽ gây ra sự rối loạn cho tiến trình tái sinh. Vì vậy, họ rất
kiêng kị việc động chạm vào cơ thể người mới chết. Tuy nhiên, theo y học, để
cấy ghép cơ thể có hiệu quả, những bộ phận đó trong cơ thể người chết phải
được cắt càng nhanh càng tốt sau khi trút hơi thở sau cùng.

13


Chính những quan niệm này đã trở thành rào cản vô cùng lớn đối với việc
hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết của cá nhân.
6.3Yếu tố trình độ dân trí
Đây là yếu tố có tác động sâu chuỗi hầu hết các vấn đề, đảm bảo cho quyền
hiến xác, bộ phận cơ thể được quy định và đáp ứng vào thực tế phù hợp với quy
luật của cuộc sống.
Việc phát triển đội ngũ trí thức sẽ giúp xây dựng hệ thống pháp luật về
quyền hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết và có thể đảm bảo việc thực
thi luật này có hiệu quả hơn.
Khi con người có những hiểu biết nhất định về ý nghĩa của việc hiến xác,
bộ phận cơ thể sau khi chết thì những yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo hay các yếu tố
tâm linh sẽ không còn tác động mạnh đến lý trí của họ. Và họ sẽ tích cực tham

gia vào việc thực hiện quyền này để cứu sống những người khác hoặc để phục vụ
cho mục đích nghiên cứu khoa học.
6.4Rào cản từ những người thân của người hiến xác, bộ phận cơ thể
_ Quyết định hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết là một quyết định khó
khăn không chỉ với riêng người hiến tặng mà còn với gia đình, người thân của
họ. Mất đi người thân yêu là việc hết sức đau lòng, nhưng việc chứng kiến người
thân sau khi nhắm mắt vẫn phải chịu giày vò về thể xác là việc vô cùng đau xót
mà không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận ngay cả khi đó là tâm nguyện, là di
chúc của người chết.
Phó giám đốc Ngân hàng Mắt, bác sỹ Nguyễn Hữu Hoàng tâm sự: “Một
lần, Ngân hàng Mắt nhận được điện thoại báo tin người tình nguyện hiến giác
mạc vừa qua đời. Đó là trường hợp bà nội hiến cho cháu. Khi làm thủ tục, các
con đồng ý hết rồi, kỹ thuật viên đang chuẩn bị dụng cụ thì có một người cháu
(gọi người quá cố là bà) vác dao xông tới ngáng đường. Người này doạ: "Ai lấy
giác mạc của bà thì chém chết! "
14


Ngay cả khi không vấp phải rào cản chuyên môn, không vấp phải rào cản
về mặt luật pháp và được sự chấp thuận của người đã khuất nhưng việc hiến xác,
bộ phận cơ thể sau khi chết lại vấp phải sự phản đối quyết liệt của những thành
viên trong gia đình người đã khuất. Trên thực tế, đối với những trường hợp này,
người thầy thuốc không tiến hành lấy xác, bộ phận cơ thể của người chết. Theo
tâm sự của bác sĩ Nguyễn Hữu Hoàng: “Dù sao, đây cũng là vấn đề tâm linh.
Mình làm việc thiện thôi nhưng người ta không chấp nhận thì mình không cố để
làm. Cố tình lấy mà không được sự đồng thuận tuyệt đối thì hậu quả để lại là họ
hàng sẽ sứt mẻ về mặt tình cảm”.
II. THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN
SAU KHI CHẾT Ở VIỆT NAM CŨNG NHƯ MỘT SÔ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI.

1. Thực tiễn việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết ở Việt
Nam.
1.1 Việc thực hiện quyền hiến xác còn khá hạn chế.
Từ khi quyền hiến xác sau khi chết của cá nhân được ghi nhận nhưng số
người hiến xác sau khi chết còn rất ít trong khi đó việc nghiên cứu học tập của y
khoa và số bệnh nhân chờ được ghép các bộ phận cơ thể còn rất nhiều mà ngân
tạng, mô, các bộ phận cơ thể còn đang rất khan hiếm. Tại Việt Nam nhu cầu
ghép tạng là rất lớn, nhất là ghép thận và ghép gan, nhưng y học không đáp ứng
được chủ yếu vì thiếu nguồn tạng.
Hiện nay, cả nước có khoảng 5.000 đến 6.000 người suy thận mãn cần được
ghép thận, tại Hà Nội đã có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan nhưng
không có nguồn cho nên số bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng. Do không có nguồn của người hiến nên cho đến nay, ở Việt Nam đã
có hơn 200 người phải sang Trung Quốc và một số nước khác để ghép thận, ghép
gan. Về nhu cầu mô, đặc biệt là ghép giác mạc, đến nay, cả nước có khoảng hơn
15


5.000 người bệnh đang chờ được ghép giác mạc. Riêng tại Viện Mắt Trung ương,
mỗi năm nhu cầu ghép giác mạc từ 500 ca/năm trở lên nhưng từ năm 1985 đến
nay, Viện mới chỉ ghép được 1.500 ca, riêng năm 2004 ghép được 103 ca, năm
2005 ghép được 150 ca. Số giác mạc được dùng để ghép chủ yếu lấy từ nguồn
viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (khoảng 50-100 giác mạc/năm) mà không
có nguồn của người cho giác mạc.
Mặt khác, nhu cầu về giảng dạy, nghiên cứu khoa học trên xác chết rất lớn.
Theo tiêu chuẩn, tại các trường đại học y dược, cứ 6 – 7 sinh viên có 1 xác chết
để học tập, nghiên cứu giải phẫu, nhưng đến nay, cả khoá trên dưới 400 sinh viên
mới chỉ có 1 xác chết, thậm chí phải dùng lại nhiều lần do không có xác (theo
báo cáo của Trường Đại học y Hà Nội, cả Trường hiện có 22 xác chết; Trường
Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh có 173 xác chết). Số lượng này này vô cùng

hạn chế.
Để gia tăng hơn nữa số người hiến xác, chúng ta phải tăng số lượng những
người hiến mang tính chất tự nguyện chứ không thể chỉ chờ vào nguồn hiến từ
những người thân của bệnh nhân vì như thế là không thể đủ. Do đó, việc lấy mô,
bộ phận cơ thể ở người hiến tự nguyện ngoài huyết thống và đặc biệt là ở người
hiến sau khi chết là vô cùng cấp thiết.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến số lượng người hiến xác còn hạn chế:
+ Thứ nhất, do phong tục tập quán của người Việt ta “chết phải toàn thây” nên
việc đụng chạm dao kéo vào người chết là một điều cấm kị.
+ Thứ hai, do ảnh hưởng tôn giáo chủ yếu là theo Phật giáo thì người chết chỉ
là chấm dứt sự tồn tại ở thế giới này nhưng khi chết họ sẽ tồn tại ở một thế giới
khác nên sự nguyên vẹn của cơ thể là một điều quan trọng hơn nữa sau khi chết
là lúc chuyển giao từ thế giới này sang thế giới khác nên hạn chế việc đụng chạm
vào người chết.

16


+ Thứ ba, do một số người còn chưa biết đến quyền này do ít tiếp cận đến các
phương tiện thông tin đại chúng, hoặc biết nhưng chưa hiểu hết được những lợi
ích mạng lại cho người khác từ việc làm của mình hoặc do người thân ngăn cản.
1.2 Vấn đề hiến xác của tử tù còn gặp nhiều rào cản pháp lí.
Tháng 10-2007, tử tù Nguyễn Phước Đỉnh bị tuyên phạt tử hình về tội giết
người ở Tiền Giang cũng viết đơn gửi TAND Tối cao xin được hiến xác cho y
học sau khi thi hành án. Trong đơn tử tù này nói mình khỏe mạnh, nhiều bộ phận
cơ thể vẫn còn có ích cho những ca bệnh hiểm nghèo.
Tháng 9/2009 phạm nhân Nguyễn Văn Hải (SN 1980) đã bị Tòa Phúc thẩm
TAND Tối cao tuyên án tử hình về tội giết người và cướp tài sản; đã viết đơn gửi
đến chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bày tỏ ý muốn xin được thi hành án và nêu
nguyện vọng xin được hiến xác cho khoa học.

Tuy nhiên, nguyện vọng của cả hai tử tù trên đều không được chấp thuận
mặc dù nó mang đầy tính nhân văn. Tại sao vậy?
Ở Trung Quốc, từ năm 1984 đã có quy định về việc hiến xác của các tử tù.
Theo quy định, xác tử tù sẽ được sử dụng trong trường hợp không có người
nhận, tử tù tự nguyện hiến xác hoặc gia đình tử tù chấp thuận cho hiến xác.
Trung Quốc cũng chấp nhận cho tử tù hiến nội tạng sau khi chết.
Tuy nhiên, ở Việt Nam tử tù xin hiến xác đặt ra vấn đề mới liên quan đến
nhiều khía cạnh: y học, xã hội, pháp lý… và các cơ quan chức năng đang bàn
cách giải quyết và việc này còn có rất nhiều những ý kiến trái chiều. Đa số ý kiến
không đồng tình vì một số nguyên nhân sau:
+ Tử tù là một người đang phải thi hành bản án, bị hạn chế một số quyền
công dân.
+ Hình thức tử hình là xử bắn bằng đội hành quyết, cho nên dù tử tù có
muốn hiến bộ phận cơ thể hay thi thể cũng khó vì các nội tạng (tim, thận…) đều
không còn nguyên vẹn. Còn nếu để cho ướp xác để phục vụ nghiên cứu cũng
17


khó vì, khi tiêm thuốc vào các mạch máu của tử thi, tử thi phải đảm bảo nguyên
vẹn, nếu các động mạch bị vỡ thì không thể tiêm thuốc vào vì bị xì hơi.
+ Theo quy định người hiến bộ phận cơ thể, mô tạng còn được gắn kỷ niệm
chương, người hiến xác còn được ghi tên trong nhà tưởng niệm… Nếu tử tù tự
nguyện hiến xác thì có được đối xử như trên không?
+ Từ 1/7/2011, Luật Thi hành án Hình sự có hiệu lực, trong đó quy định
thay hình thức xử bắn bằng tiêm thuốc độc. Như vậy, việc lấy mô tạng, bộ phận
cơ thể hoặc thi thể của tử tù sẽ càng khó khăn vì nếu tiêm thuốc độc thì dường
như các cơ quan nội tạng đều rất khó còn có thể sử dụng được nữa
+ Một điểm nữa là số lượng tử tù tình nguyện xin hiến xác, bộ phận cơ thể
sau khi chết không nhiều (đến nay mới ghi nhận 2 trường hợp).
2.Việc hiến xác của cá nhân sau khi chết một số nước trên thế giới.

Pháp luật các nước bên cạnh quy định nguyên tắc chung về hiến xác được cả
thế giới thừa nhận về vấn đề này thì thùy theo thực tế, truyền thống, văn hóa, đất
nước cũng có những quy định riêng. Ở Pháp, trong các đạo luật về đạo đức hy
sinh quy định việc lấy, ghép mô bộ phận cơ thể người phải tôn trọng các nguyên
tắc như: tôn trọng cơ thể người; nguyên tắc phải có sự đồng ý của đương sự
(Điều L.1211-2 Bộ Luật Y tế cộng đồng Cộng hòa Pháp); nguyên tắc an toàn về
y tế và cẩn trọng (Điều L.1211-6/7 Bộ Luật Y tế cộng đồng Cộng hòa Pháp); và
ở Pháp còn áp dụng nguyên tắc vô danh và nguyên tắc này chỉ áp dụng trong
trường hợp lấy mô, bộ phận cơ thể của người chết để cấy, ghép, nguyên tắc này
sẽ không áp dụng với người hiến khi còn sống. Đồng thời ở Pháp đã áp dụng cơ
chế suy đoán sự đồng ý, tức là phát hiện một người bị chết, cơ sở y tế có thẩm
quyền kiểm tra trên hệ thống thông tin điện từ xem người đó có đăng ký từ chối
hiến không, nếu người đó không đăng ký thì suy đoán rằng người đó đã đồng ý
hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Tuy nhiên trong trường hợp này nếu gia
đình người hiến không đồng ý thì cơ sở y tế cũng không lấy xác, bộ phận cơ thể
18


của người đó. Nên vấn đề hiến xác, bộ phận cơ thể của người sau khi chết của cá
nhân rất phổ biến so với nước ta. Ở các nước theo hệ thống suy đoán đồng ý như:
Pháp, Na Uy, Bồ Đào Nha, Áo, Bỉ,…pháp luật coi những người không thể hiện
quan điểm đối lập với việc hiến mô, bộ phận cơ thể khi họ còn sống nghĩa là họ
sẵn sàng hiến mô, bộ phận cơ thể của họ khi chết. Còn ở những nước theo hệ
thống chủ đồng ý như Anh, Mỹ, Đức, Hà Lan…trái lại chỉ những bệnh nhân
trước khi chết thể hiện nguyện vọng muốn hiến thì mới được coi là người hiến.
Cả hai mô hình của đồng ý, chủ động, suy đoán đều dựa trên nguyên lý “sự
mong muốn của người chết là cơ sở quyết định và nó phải được tôn trọng”. Thực
tế ở Tây Ban Nha cho thấy cơ chế suy đoán sự đồng ý mang lại hiệu quả thu gom
mô, bộ phận cơ thể cao hơn cơ chế chủ động đồng ý. Căn cứ vào biểu đồ UNOS
(Mỹ) cung cấp tình hình hoạt động lấy tạng ở Mỹ chúng ta thấy số tạng lấy từ

người sống tăng nhanh tới 6499 ca vào năm 2001 lớn hơn số ca ghép tạng từ
người chết cũng tăng. Tuy nhiên thực tế áp dụng cho thấy hiện nay có một số
quốc gia có thiên hướng theo cơ chế suy đoán đồng ý ngày càng gia tăng. Thậm
chí ở một số nước có hệ thống y tế kém phát triển cũng có sự ủng hộ đối với cơ
chế suy đoán đồng ý như Mexico. Một bản dự thảo Luật đã được trình vào năm
2000 với mục đích chấp nhận hệ thống suy đoán đồng ý và các nhà lập pháp
Achentina bỏ phiếu ủng hộ hệ thống này vào năm 2004.
Do việc quy định hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết, nhận
thức, văn hóa truyền thống ở từng quốc gia có những nét khác nhau nên tinh thần
hiến cũng khác nhau. Có thể nói rằng việc hiến xác của cá nhân sau khi chết ở
nước ngoài phổ biến hơn ở Việt Nam do vậy nguồn cung cấp cho việc chữa bệnh
cũng như nghiên cứu khoa học cũng nhiều hơn ở Việt Nam.
III.BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN HIỆU QUẢ QUYỀN HIẾN XÁC, BỘ
PHẬN CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT

19


_ Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề hiếc
xác, bộ phận cơ thể sau khi chết.
_ Đầu tư trang thiết bị y tế hiện đại, đào tạo đội ngũ bác sĩ có trình độ
chuyên môn cao về việc cấy, ghép tạng.
_ Để giải quyết vấn đề khó khăn về tài chính cho người bệnh, các hãng bảo
hiểm nên mở rộng thêm các loại hình bảo hiểm về vấn đề cấy ghép bộ phận cơ
thể người.
_ Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ cho vấn đề này, giúp người bệnh
và gia đình họ vượt qua khó khăn.
_ Từng bước xóa bỏ các hủ tục, quan niệm lạc hậu làm ảnh hưởng xấu đến
việc thực hiện quyền này.
_ Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với các nước tiên tiến để nâng cao

trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ y tế, cũng như những kinh
nghiệm trong việc quản lí, cơ chế chính sách của nhà nước để việc quyền này
ngày càng được người dân hưởng ứng
KẾT LUẬN
Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết mới được ghi nhận
trong Luật dân sự Viêt Nam từ năm 2005 nên nó còn khá mới mẻ, đặc biệt, nó
liên quan đến những vấn đề tâm linh hết sức nhạy cảm. Vì vậy đây là một đề tài
khó, phạm vi nghiên cứu rộng, đòi hỏi cần phải có một vốn kiến thức xã hội
cũng như vốn kiến thức pháp luật sâu rộng. Tuy nhiên, với khả năng và vồn kiến
thức còn hạn chế của bản thân nên bài viết trên còn nhiều thiếu sót mong được
các thầy cô góp ý để em có thể hoàn thiện hơn bài viết của mình.

20


MỤC LỤC
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………………0
Lời nói đầu……………………………………………………………………….1
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ XÁC VÀ QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ
NHÂN SAU KHI CHẾT…………………………………………………………1
1.Đặc điểm của quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết……………………….1
1.1. Với tư cách là một quyền nhân thân, quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá
nhân sau khi chết mang những đặc điểm chung của quyền nhân thân…………..1
1.2. Đặc điểm riêng của quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi
chết…………………………………………………………………….…………2
2.Việc ghi nhận quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết trong các văn bản
pháp luật……………………………………………………………..………….3
2.1 Trong Bộ Luật Dân sự năm 2005…………………………………………….3
2.2 Trong Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989…………..……………………..4
2.3 Trong Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy

xác…………………………………………………………………………..……5
3. Thực hiện quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết mang lại
nhiều ý nghĩa vô cùng to lớn…………………………………………………….5
4. Nguyên tắc ghi nhận, thực hiện và bảo vệ quyền hiến bộ phận cơ thể………..6
4.1 Nguyên tắc tự nguyện……………………………………………………7
4.2 Nguyên tắc “phi thương mại”…………………………………………….8
4.3 Nguyên tắc hiến xác, bộ phận cơ thể vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng
dạy hoặc nghiên cứu khoa học…………………………………………………...9
5.Chủ thể, đối tượng của quyền hiến xác sau khi chết…………………………10

21


5.1. Chủ thể của quyền hiến xác………………………………………………..10
5.2 Đối tượng của quyền hiến xác……………………………………………..12
6. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi
chết……………………………………………………………………………..12
6.1Yếu tố kinh tế xã hội………………………………………………………...12
6.2 Phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa…………………………13
6.3Yếu tố trình độ dân trí………………………………………………………13
6.4Rào cản từ những người thân của người hiến xác, bộ phận cơ thể………….14
II. THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN HIẾN XÁC CỦA CÁ NHÂN
SAU KHI CHẾT Ở VIỆT NAM CŨNG NHƯ MỘT SÔ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI……………………………………………………………………………15
1. Thực tiễn việc thực hiện quyền hiến xác của cá nhân sau khi chết ở Việt
Nam…………………………………………………………………………….15
1.1 Việc thực hiện quyền hiến xác còn khá hạn chế…………………………..15
1.2 Vấn đề hiến xác của tử tù còn gặp nhiều rào cản pháp lí………………….16
2.Việc hiến xác của cá nhân sau khi chết một số nước trên thế giới…………18
III.BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN HIỆU QUẢ QUYỀN HIẾN XÁC, BỘ PHẬN

CƠ THỂ CỦA CÁ NHÂN SAU KHI CHẾT………………………………….19
Kết
luận…………………………………………………………………………….20

22


23



×