Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Bài tập lớn hình sự 2 đề 1 vào khoảng 19h ngày 26032003, 4 tên a, b, c, d ngồi quán uống rượu tại đây, b có rút dao mang theo cho a mượn xem

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.28 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
ĐỀ BÀI ……………………………………………………………………………..1
BÀI LÀM…………………………………………………………………………...3
1.Hãy lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B? Xác định tình tiết tăng
nặng định khung hình phạt (nếu có)? ……………………………………………...3
2. A có bị coi là đồng phạm với B không? Tại sao?..................................................6
3. K có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì về tội gì?.........................9
4.Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản
2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm tội này của B
là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?.......................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………....12

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TNHS: trách nhiệm hình sự
CTTP: cấu thành tội phạm
BLHS: Bộ luật hình sự

0


ĐỀ BÀI
Vào khoảng 19h ngày 26/03/2003, 4 tên A, B, C, D ngồi quán uống rượu. Tại
đây, B có rút dao mang theo cho A mượn xem. Đây là loại dao có lưỡi xếp vào cán
dao, cán dao bằng mủ màu vàng dài khoảng 10cm, rộng khoảng 2-3 cm, mũi dao
hình dạng hơi bầu, lưỡi dao có một bên sắc bén, một bên bằng. Ra khỏi quán, B đòi
A trả lại dao và cất vào túi quần. Cả bọn gặp 2 anh T và H đi ngược chiều. Do có
quen biết, A và C dừng lại nói chuyện với H, còn B và D đi trước. A rủ H đi uống
rượu tiếp nhưng H từ chối, A liền nắm tay H kéo đi thì T ngăn cản kéo H lại. Thấy
vậy, A quay sang cãi nhau với T và dùng tay đẩy vào ngực T làm T bị mất thăng
bằng ngã ngồi. T và A xô xát, ẩu đả với nhau. H dùng tay ôm ngăn A, còn C can T.
A nhiều lần la lớn chửi T với nội dung: “chúng mày đánh chết nó cho tao”. Nghe


tiếng A la chửi, B đi trước quay trở lại nhìn thấy A và T đang đứng đối diện nhau, B
cho rằng A bị T đánh nên đã lấy con dao trong túi quần ra đâm nhiều nhát vào bụng
và ngực T. Do C đang can T nên cũng bị một vết đâm vào tay trái. C bị đâm đau
nên chửi. Thấy vậy, B ngừng đâm và cầm dao bỏ đi. H buông tay giữ A ra thì thấy
T đang nằm ngửa, máu ra nhiều. H gọi C đưa T đi cấp cứu. Trên đường đi, T đã tử
vong.
B gọi điện thoại cho bạn là K để kể về sự việc B vừa đâm T và nói kế hoạch
trốn của B. K bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện thoại của B lấy tiền cho B đi
trốn. B trốn ra Hải Phòng đến ngày 09/04/2003 thì về đầu thú tại Công an huyện D.
Bản kết luận giám định pháp y số 46/GĐPY ngày 04/03/2003 của Tổ chức
giám định pháp y tỉnh kết luận: nạn nhân T tử vong do xuất huyết nội, gây giảm thế
tích máu cấp tính sau các vết thương thủng gan và thủng bàng quang.
Hỏi:

1


1. Hãy lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B? xác định tình tiết
tăng nặng định khung hình phạt (nếu có)? (3 điểm)
2. A có bị coi là đồng phạm với B không? Tại sao? (2 điểm)
3. K có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì về tội gì? (1 điểm)
4. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo
khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm tội này
của B là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? (1 điểm)

2


BÀI LÀM
Trong các loại tội phạm được BLHS qui định thì các tội xâm phạm tính

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người là một trong những tội phạm
chiếm tỉ lệ nhiều trong các vụ án và diễn biến khá phức tạp. Đặc biệt là những vụ
đánh người gây thương tích, nhiều người phải nhập viện, thậm chí đánh đổi cả sinh
mạng chỉ vì một xích mích nhỏ. Với bài tập lớn lần này, em xin chọn tình huống số
1 để giải quyết, thông qua đó để tìm hiểu kĩ hơn về các tình tiết trong một vụ án
cũng như việc định tội danh, định khung hình phạt, xác định đồng phạm…trong vụ
án về tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người.
1. Hãy lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B? Xác định tình
tiết tăng nặng định khung hình phạt (nếu có)?
*)Để xác định một tội danh nào đó, ta cần làm rõ các yếu tố cấu thành tội
phạm và dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Với trường hợp nêu trên, ta nhận thấy
hành vi của B có dấu hiệu của tội giết người.
Theo qui định của Bộ luật hình sự thì giết người được hiểu là hành vi cố ý
tước đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật. Với hành vi phạm tội của
B:
Thứ nhất, khách thể của tội phạm: hành vi phạm tội của B xâm phạm quyền
sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng, đây là một trong những khách thể
quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ. Hành vi phạm tội của B tác động tới đối
tượng là T, một người đang sống, đang tồn tại trong thế giới khách quan.
Thứ hai, về chủ thể của tội phạm: B thỏa mãn điều kiện là chủ thể của tội
giết người, bởi tội này không yêu cầu phải là chủ thể đặc biệt. Những người có

3


năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định đều có khả năng trở thành chủ thể của tội
này.
Thứ ba, về mặt khách quan:
-Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật
tính mạng của người khác, hành vi này được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái

chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ. Những hành vi không có khả năng
này thì không thể là hành vi khách quan của tội giết người. Hành vi khách quan của
tội giết người có thể là hành động hoặc không hành động. Đối tượng của hành vi
tước đoạt tính mạng là con người đang sống. Với hành vi của B, B đã dùng con dao
đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T. Hành vi này được thể hiện dưới dạng hành
động. Rõ ràng, hành vi phạm tội của B có khả năng sẽ gây ra cái chết cho T, bởi B
dùng dao đâm vào bụng và ngực là những vị trí hiểm yếu trên cơ thể. Hơn nữa, việc
B đâm T là hành vi tước đoạt tính mạng của cá nhân đang sống khỏe mạnh, bình
thường.
Hành vi tước đoạt tính mạng người khác của tội giết người được coi là trái
pháp luật khi hành vi đó không phải là tự tước đoạt tính mạng của chính mình,
trường hợp gây ra cái chết cho người khác được pháp luật cho phép (phòng vệ
chính đáng hay thi hành bản án tử hình), hoặc thực tiễn xét xử còn gặp những
trường hợp tước đoạt tính mạng do được sự đồng ý của nạn nhân. Với trường hợp
này, hành vi tước đoạt tính mạng T do B thực hiện là trái pháp luật. Khi nghe tiếng
A la chửi, B quay lại thấy A và C đứng đối diện nhau thì nghĩ A bị T đánh nên B đã
dùng dao đâm T, hành vi này không phải là hành vi phòng vệ chính đáng hay bất cứ
hành vi tước đoạt tính mạng nào khác mà được pháp luật công nhận.
-Hậu quả của tội phạm: Hậu quả được qui định là dấu hiệu bắt buộc trong
CTTP tội giết người. Tức là, tội giết người chỉ được coi là tội phạm hoàn thành khi
có hậu quả chết người xảy ra. Nếu hậu quả chết người không xảy ra vì nguyên nhân
khách quan thì hành vi phạm tội bị coi là giết người chưa đạt hoặc tội cố ý gây
4


thương tích, tùy thuộc vào lỗi của người phạm tội. Ở tình huống này, dù sau khi bị
đâm, T chưa chết ngay nhưng nhưng trên đường đi cấp cứu, T đã tử vong. Như vậy,
hậu quả chết người đã xảy ra. Hơn nữa, hậu quả cái chết của T có mối quan hệ nhân
quả với hành vi phạm tội của B, T bị B dùng dao đâm vào bụng dẫn đến mất nhiều
máu, thủng gan, thủng bàng quang và đã tử vong trên đường đi cấp cứu, nói cách

khác chính hành vi phạm tội của B là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của T.
Vì vậy, B sẽ phải chịu TNHS về tội giết người ở giai đoạn tội phạm hoàn thành.
Thứ tư, về mặt chủ quan của tội phạm:
Lỗi của người phạm tội giết người là lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố
ý gián tiếp. Trong trường hợp cố ý trực tiếp, người phạm tội thấy trước hậu quả
chết người tất nhiên xảy ra nhưng vì mong muốn hậu quả đó nên đã thực hiện hành
vi phạm tội. Còn trường hợp lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội nhận thấy hành vi
của mình có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng người khác, thấy trước hậu
quả có thể xảy ra nhưng có ý thức để mặc hậu quả đó, chấp nhận cho hậu quả xảy
ra. Ở đây, hành vi phạm tội của B là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi: B hoàn toàn nhận thức
được hành vi của mình sẽ gây ra cái chết cho T và B mong muốn hậu quả chết
người xảy ra. Điều này được thể hiện qua các tình tiết như: B nhằm vào bụng và
ngực để đâm T, đây là những vị trí hiểm yếu trên cơ thể, hơn nữa, B còn thực hiện
hành vi này bằng nhiều nhát đâm chứ không phải chỉ một nhát, điều đó thể hiện B
muốn tước đoạt tính mạng của T đến cùng.
Với những căn cứ và phân tích như trên, khẳng định hành vi phạm tội của B
hoàn toàn thỏa mãn các dấu hiệu trong CTTP của tội giết người, vì vậy B phạm tội
giết người được qui định tại Điều 93 BLHS.
*) Xác định tình tiết định khung tăng nặng:
Tình tiết định khung tăng nặng là tình tiết làm tăng lên đáng kể mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của B thỏa mãn tình tiết định khung
tăng nặng “giết người có tính chất côn đồ” tại điểm n, khoản 1 Điều 93 BLHS.
5


Phạm tội có tính chất côn đồ là trường hợp giết người mà tất cả những tình
tiết của vụ án thể hiện người phạm tội có tính chất hung hãn cao độ, quá coi thường
tính mạng của người khác, sẵn sàng giết người vì nguyên cớ nhỏ nhặt. Hành vi giết
người của B thể hiện rõ tính chất côn đồ này, thể hiện qua các tình tiết:
Thứ nhất, B mang sẵn dao trong người, nếu chỉ là đi uống rượu bình thường

với bạn bè thì tại sao B lại mang dao theo người?
Thứ hai, B đâm T vào ngực và bụng, đây là những vị trí hiểm yếu trên cơ thể
Thứ ba, B không chỉ đâm T một nhát mà đâm liên tiếp nhiều nhát, chính
hành vi đâm liên tiếp nhiều nhát dao chí mạng đã khiến T tử vong do xuất huyết
nội, gây giảm thể tích máu cấp tính sau các vết thương thủng gan và thủng bàng
quang. Vậy tình tiết tăng nặng được áp dụng với T là “phạm tội có tính chất côn
đồ” qui định tại điểm n, khoản 1 Điều 93 BLHS.
(Tình huống còn đưa ra tình tiết: C vì can T nên cũng bị một vết đâm vào tay
trái, C bị đâm thấy đau nên chửi. Tuy nhiên, sau khi vụ án xảy ra thì chỉ có biên bản
giám định pháp y đối với cái chết của T, không nhắc đến giám định thương tật với
C, như vậy, hành vi đâm vào tay C của A không cấu thành tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 104 BLHS).
2. A có bị coi là đồng phạm với B không? Tại sao?
Theo Điều 20 BLHS thì đồng phạm là trường hợp có 2 người trở lên cố ý
cùng thực hiện một tội phạm. Những người đồng phạm ở đây có thể là người tổ
chức, người thực hành, người giúp sức hoặc người xúi giục.
Trong trường hợp này, trước hết cần khẳng định A và B đồng phạm tội giết
người theo Điều 93 BLHS, bởi hành vi của A,B đã thỏa mãn hết những dấu hiệu
của đồng phạm:
Về mặt khách quan:

6


-Dấu hiệu chủ thể: Đồng phạm đòi hỏi có 2 người trở lên và có đủ điều kiện
chủ thể của tội phạm (có năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS). Như vậy, A,B
thỏa mãn điều kiện này, tội giết người không yêu cầu chủ thể đặc biệt.
-Dấu hiệu cùng thực hiện tội phạm: Những người đồng phạm phải cùng tham
gia vào tội phạm với một trong các hành vi: người thực hành, người tổ chức, người
xúi giục, người giúp sức. Nếu không có một trong những hành vi này thì không thể

coi là cùng thực hiện, do vậy cũng không có đồng phạm. Trong vụ đồng phạm có
thể có bốn loại hành vi tham gia nhưng cũng có thể chỉ có một loại hành vi, người
đồng phạm có thể tham gia với một loại hành vi nhưng cũng có thể tham gia với
nhiều loại hành vi khác nhau. Hành vi của mỗi người là điều kiện hỗ trợ cho sự
hoạt động chung. Có thể tất cả những người đồng phạm đều cùng trực tiếp thực
hiện tội phạm và tổng hợp những hành vi của họ tạo thành hành vi phạm tội có đủ
những dấu hiệu của CTTP. Nhưng cũng có thể chỉ có 1 hoặc 1 số người trực tiếp
thực hiện tội phạm, những người khác chỉ có hành vi góp phần vào việc thực hiện
tội phạm.
Trong tình huống trên, cả A và B đều là người trực tiếp thực hiện tội phạm
nên A và B đều là người thực hành (khoản 2 Điều 20 BLHS). Hành vi của A là
“dùng tay đẩy vào ngực T làm T mất thăng bằng, ngã ngồi, sau đó A và T xô xát, ẩu
đả với nhau”. Còn hành vi của B là dùng dao đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T.
Theo kết quả giám định pháp y thì T bị xuất huyết nội, gây giảm thể tích máu cấp
tính sau các vết thương thủng gan và thủng bàng quang. Hậu quả xuất huyết nội là
do việc xô xát, ẩu đả với A gây ra (chứ không phải do bị đâm bằng dao). Còn hậu
quả thủng gan, thủng bàng quang, mất nhiều máu là do bị dao đâm gây nên. Chính
vì trước đó T bị xuất huyết nội do xô xát với A, sau đó lại bị đâm liên tiếp nên đã
dẫn đến giảm thể tích máu cấp. Như vậy, hậu quả chết người xảy ra có mối quan hệ
nhân quả với hành vi phạm tội của A và B, hậu quả đó là kết quả chung do hoạt
động của A và B đưa lại. Hành vi đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T do B thực
7


hiện chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết của T, còn hành vi của A thông
qua hành vi của B mà gây ra hậu quả. Tổng hợp hành vi của A và B đã thỏa mãn
dấu hiệu trong CTTP tội giết người.
Ngoài ra, A còn đồng phạm tội giết người với B trong vai trò người xúi giục.
Bởi: Khoản 2 Điều 20 BLHS qui định: “người xúi giục là người kích động, dụ dỗ,
thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm”. Như vậy, đặc điểm của người xúi giục là

tác động đến tư tưởng và ý chí của người khác khiến nguời đó phạm tội. Người xúi
giục có thể là người đã nghĩ ra việc phạm tội và thúc đẩy cho tội phạm đó được
thực hiện thông qua người khác. Vì vậy, có thể coi người xúi giục là “tác giả tinh
thần” của tội phạm. Trường hợp khác, người xúi giục cũng có thể chỉ tác động thúc
đẩy người khác thực hiện ý định phạm tội đã có từ trước. Sự xúi giục có thể được
thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như: kích động, lôi kéo, dụ dỗ, cưỡng ép, lừa
phỉnh…
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, hành vi xúi giục ở đây phải trực tiếp, tức là người
xúi giục phải nhằm vào một hoặc một số đối tượng nhất định. Việc kêu gọi, hô hào
mà không hướng tới những người xác định thì không phải là hành vi xúi giục. Với
tình huống trên, A đã nhiều lần chửi bới T với nội dung “Chúng mày đánh chết nó
cho tao”, “chúng mày” ở đây theo đề bài chính là một nhóm bao gồm cả B, C, D,
H. Như vậy, việc hô hào “chúng mày đánh chết nó cho tao” đã nhằm vào các đối
tượng cụ thể là nhóm bạn có mặt cùng A lúc đó. Về mặt chủ quan, A có ý định rõ
ràng thúc đẩy người khác phạm tội, vì xô xát ẩu đả với T, A đã chửi không phải chỉ
một mà là nhiều lần với cùng một mục đích là muốn những người còn lại đánh chết
T. B không hề có ý định giết T, nhưng chính vì nghe thấy lời la lớn và chửi T của A
nên B dù đã đi trước vẫn quay lại, thấy A và T xô xát, B tưởng A bị đánh nên đã
cầm dao đâm T nhiều nhát. Những tiếng la lớn chửi bới của A đã đưa B đến việc
thực hiện hành vi phạm tội.
-Về mặt chủ quan:
8


Lỗi của những người đồng phạm là lỗi cố ý. Tình huống trên, A không chỉ cố
ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý tham gia của B. A, B
còn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội củ hành vi của mình cũng như hậu
quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện.
HƠn nữa, A, B cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng mong muốn
cho hậu quả phát sinh: B đâm T nhiều nhát, A thấy vậy cũng không can ngăn, chỉ

đến khi C bị đau và chửi thì B mới dừng lại và cầm dao bỏ đi, cả A và B thấy T
nguy hiểm đến tính mạng nhưng đều không có hành động đưa T đi cấp cứu.
Với những phân tích trên, khẳng định A và B đồng phạm tội giết người theo
Điều 93 BLHS.
3. K có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì về tội gì?
Trước hết ta thấy rằng hành vi của K theo như tình huống trên thì có dấu hiệu
phạm tội che giấu tội phạm qui định tại Điều 21 BLHS.
“Người nào không hứa hẹn trước nhưng sau khi biết tội phạm được thực
hiện đã che giấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành
vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lí người phạm tội, thì phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này qui
định”
Cụ thể, các trường hợp mà BLHS qui định là phạm tội che giấu tội phạm
được qui định rõ tại khoản 1 Điều 313 như các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội
giết người, tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em…
Tội che giấu tội phạm được thực hiện qua những hành vi sau:
-Che giấu người phạm tội: được hiểu là chứa chấp, nuôi giấu trong nhà, tìm
địa điểm cho người phạm tội ẩn náu, giúp người phạm tội bỏ trốn…
-Che giấu các dấu vết của tội phạm: tẩy xóa, làm thay đổi, làm mất đi các
dấu vết có ý nghĩa quan trọng cho việc chứng minh tội phạm.

9


-Che giấu tang vật của tội phạm: là che giấu các công cụ, phương tiện được
dùng vào việc thực hiện tội phạm…
Sau khi B dùng dao đâm T đã gọi điện thoại cho K và kể về hành vi phạm tội
của mình, đồng thời nói kế hoạch bỏ trốn với K. Như vậy, sau khi tội phạm được
thực hiện, K hoàn toàn biết rõ, mặc dù trước đó K và B không hề có hứa hẹn gì với
nhau về việc thực hiện hành vi phạm tội của B, trước khi tội phạm được thực hiện,

K và B không hề có liên lạc với nhau, K cũng không hứa hẹn hay thực hiện bất cứ
việc gì để giúp B thực hiện hành vi phạm tội đó. Nhưng sau khi biết B đâm T, thay
vì khuyên B ra đầu thú thì K đã bảo B về nhà K chờ, K còn mang điện thoại của B
đi cầm để lấy tiền cho B bỏ trốn. Hành vi của K thể hiện rõ việc che giấu người
phạm tội (bảo B về nhà mình đợi và còn tìm cách giúp B bỏ trốn). Tội phạm B thực
hiện là tội giết người, tội này thuộc các trường hợp được qui định tại khoản 1 Điều
313 BLHS. Như vậy, B phải chịu TNHS về tội che giấu tội phạm thuộc khoản 1
Điều 313 BLHS.
4.Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản
theo khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần
phạm tội này của B là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?
Trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm được qui định tại Điều 49 BLHS.
Như vậy, căn cứ theo điều 49 thì muốn xác định được lần phạm tội này của B là tái
phạm hay tái phạm nguy hiểm, ta phải xác định được loại tội phạm mà B thực hiện
trong hai lần phạm tội (trộm cắp tài sản và giết người) thuộc loại nào theo sự phân
loại tội phạm ở khoản 3 Điều 8, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý hay vô ý.
Tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 138 BLHS có mức cao nhất của
khung hình phạt là đến bảy năm tù, như vậy theo khoản 3 Điều 8 về phân loại tội
phạm thì đây là trường hợp tội phạm nghiêm trọng, và người phạm tội thực hiện
hành vi với lỗi cố ý.

10


Theo phân tích ở ý 1, B phạm tội giết người thuộc khoản 1 Điều 93 BLHS,
khoản này có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình, theo khoản 3 Điều 8
BLHS thì đây là trường hợp tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, lỗi của người phạm tội
là lỗi cố ý.
Như vậy, B đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản, tuy đã chấp hành xong bản án
3 năm tù về tội này nhưng chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội đặc biệt

nghiêm trọng do cố ý, đối chiếu với điều 49 BLHS thì trường hợp của B thuộc
khoản 1 Điều 49: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà
lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do
vô ý”.
Vậy hành vi phạm tội giết người của B là trường hợp tái phạm.
Trên đây là toàn bộ phần giải quyết của em với tình huống số 1. Bài làm
không tránh khỏi còn những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô
để em củng cố thêm kiến thức của mình cũng như hoàn thiện hơn trong các bài làm
lần sau. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009,
Nxb.CTQG
-Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, tập I, II
Nxb.CAND, Hà Nội-2007
-Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam, tập I, Nxb.
TP.Hồ Chí Minh
-Bình luận khoa học Bộ Luật Hình sự Việt Nam, NXB. CTQG, Hà Nội-2000

12



×