Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bình luận hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong ASEAN dưới các góc độ sau phạm vi, cấp độ, phương thức hợp tác thực tiễn hợp tác vai trò của h

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.68 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Các vấn đề pháp lý về hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong

3
3
3

ASEAN
1. Cơ sở pháp lý
2. Phạm vi tương trợ
3. Cấp độ hợp tác
4. Phương thức hợp tác
II. Thực tiễn hợp tác tương trợ tư pháp hình sự trong ASEAN
III. Vai trò của hoạt động tương trợ tư pháp hình sự của ASEAN
C. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
4
7
8
10
13
14
15

A. MỞ ĐẦU
Trong hợp tác quốc tế về đấu tranh phòng chống tội phạm thì hoạt động tương trợ


tư pháp về hình sự là hoạt động được các quốc gia sử dụng nhiều nhất. Hiện nay,
các hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự được điều chỉnh chủ yếu bằng các hiệp


định song phương hoặc đa phương khu vực. Đây là xu thế phát triển chung và ngày
càng trở thành phổ biến trong quan hệ quốc tế. Các quốc gia thành viên ASEAN
cũng không nằm ngoài xu thế phát triển này, đại đa số các quốc gia thành viên đã đi
đến kí kết hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự (1). Bài này chúng em xin chọn đề
tài: “Bình luận hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong ASEAN dưới các góc độ
sau:
-

Phạm vi, cấp độ, phương thức hợp tác

-

Thực tiễn hợp tác

-

Vai trò của hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong duy trì an ninh, công lý

và trật tự xã hội trong ASEAN.” để làm rõ hơn hoạt động tương trợ tư pháp hình sự
trong ASEAN

B. NỘI DUNG
I. Các vấn đề pháp lý về hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong ASEAN
Tương trợ tư pháp hình sự là các hoạt động do cơ quan có thẩm quyền của một
quốc gia thực hiện, trên cơ sở yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài
nhằm hỗ trợ cho cơ quan này trong quá trình giải quyết vụ việc hình sự (2).

Nội dung cơ bản của tương trợ tư pháp về hình sự bao gồm ba lĩnh vực: dẫn độ
(chuyển giao cá nhân có mặt trên lãnh thổ quốc gia được yêu cầu cho quốc gia yêu
cầu để thi hành các bản án, quyết định hình phạt tù), tương trợ pháp lý (bao gồm
nhiều hoạt động cụ thể như lấy lời khai, tống đạt giấy tờ, tài liệu..) và chuyển giao
người bị kết án tù.
1. Cơ sở pháp lý
Tình hình tội phạm có tính chất quốc tế diễn ra ngày càng phức tạp với nhiều
hình thức tinh vi và đòi hỏi phải có sự hợp tác sâu rộng giữa các quốc gia để ngăn
ngừa phòng chống tội phạm trong lĩnh vực này, tương trợ tư pháp được coi là một
trong những biện pháp có hiệu quả nhất để thực hiện các hành vi tố tụng hình sự cần
thiết ở nước ngoài xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia chỉ thực
hiện thẩm quyền tài phán của mình trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trừ trường hợp
1()

Trang 57 – Bài viết “Các vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự trong ASEAN”
– Tác giả Đỗ Mạnh Hồng đăng trên tạp chí luật học số 9/2008
2()
Trang 123 – Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN – Trường đại học Luật Hà Nội – Nhà xuất bản Công
an nhân dân Hà Nội – năm 2012.

2


có điều ước quốc tế giữa các quốc gia. Các quốc gia ASEAN trên cơ sở nhận thức
được tầm quan trọng của hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong phạm vi
khu vực và xuất phát từ hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế đồng thời
xem xét các đặc điểm tình hình riêng của khu vực nội bộ ASEAN đã có sự thoả
thuận và đi đến ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự ngày 29/11/2004.
Văn bản này là điều ước quốc tế đa phương đầu tiên về tương trợ tư pháp trong lĩnh
vực hình sự giữa các nước Đông Nam Á, đóng vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng

và chủ yếu nhất để thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự trong
khuôn khổ các nước thành viên của ASEAN, thể hiện quyết tâm cùng nhau hợp tác
phòng, chống tội phạm trong khu vực, nhất là tội phạm xuyên quốc gia của các
quốc gia thành viên Hiệp hội.
2. Phạm vi tương trợ
Phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia ASEAN được quy định
tại điều 1 của Hiệp định, bao gồm:
- Thu thập chứng cứ hoặc lấy tờ khai tự nguyện từ những người có liên quan;
- Bố trí để những người có liên quan cung cấp chứng cứ hoặc trợ giúp trong các
vấn đề hình sự;
- Thực hiện việc tống đạt giấy tờ, tài liệu tư pháp;
- Tiến hành khám xét, thu giữ;
- Kiểm tra đồ vật, địa điểm;
- Cung cấp bản gốc hoặc bản sao có xác nhận tài liệu, hồ sơ, chứng cứ có liên
quan;
- Xác định hoặc truy tìm tài sản do phạm tội mà có và phương tiện phạm tội;
- Hạn chế giao dịch đối với tài sản hoặc phong tỏa tài sản có được từ việc thực
hiện tội phạm có thể bị thu hồi hoặc tịch thu;
- Thu hồi, tịch thu tài sản do phạm tội mà có;
- Xác minh địa chỉ và nhận dạng người làm chứng, người bị tình nghi
- Các hình thức tương trợ khác theo thỏa thuận và phù hợp với mục đích của
Hiệp định này và pháp luật của Quốc gia được yêu cầu(3).

3()

Xem bản dịch hiệp định tương trợ tư pháp bằng tiếng Việt tại />
3


Phạm vi xác định trong hiệp định tương trợ tư pháp chỉ áp dụng trong quan hệ

giữa các nước thành viên và tuân thủ theo nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết
quốc tế của các chủ thể luật quốc tế trong quá trình thực thi điều ước, nếu các quốc
gia vi phạm sẽ phải chịu các trách nhiệm pháp lý tương ứng. Hiệp định không tạo ra
quyền đặc thù hoặc quyền ưu tiên cho bất kỳ cá nhân nào có lợi hoặc ngăn cản thực
hiện hoạt động tương trợ tư pháp giữa các quốc gia.
Bên cạnh việc xác định rõ ràng phạm vi tương trợ tư pháp, các quốc gia thành
viên hiệp định còn thoả thuận nhất trí ghi nhận cụ thể các trường hợp không áp
dụng các quy định của hiệp định. Theo đó, những vấn đề pháp lý liên quan đến bắt
hoặc giam giữ một người nhằm mục đích dẫn độ người đó; Thi hành bản án hình sự
của Quốc gia yêu cầu tại Quốc gia được yêu cầu, trừ trong phạm vi được pháp luật
của Quốc gia được yêu cầu cho phép; Chuyển giao người bị giam giữ để thi hành
hình phạt; và Chuyển giao vụ án hình sự không thuộc phạm vi tương trợ tư pháp về
hình sự do hiệp định điều chỉnh(4). Mặc dù đây là các vấn đề pháp lý nằm trong khái
niệm tương trợ tư pháp nhưng xuất phát từ tính phức tạp liên quan đến nhiều vấn
đề, đặc biệt là quyền con người và sự khác nhau trong pháp luật hình sự giữa các
quốc gia, do vậy để giải quyết được những nội dung này phải có những điều ước
quốc tế chuyên biệt trong từng lĩnh vực điều chỉnh.
Phạm vi tương trợ tư pháp theo Hiệp định còn được cụ thể hóa rõ hơn qua quyền
từ chối tương trợ tư pháp của quốc gia thành viên được yêu cầu. Quyền từ chối này
bao gồm các quyền có hai cấp độ khác nhau, phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể
phát sinh trong thực tiễn tương trợ tư pháp.
Cấp độ 1: Thể hiện mức độ quyền từ chối tương trợ tư pháp của quốc gia được
yêu cầu là tuyệt đối. Các trường hợp từ chối tương trợ tư pháp ở cấp độ này quy
định cụ thể tại khoản 1 Điều 3 Hiệp định. Theo đó, quốc gia được yêu cầu sẽ không
tương trợ tư pháp trong trường hợp nếu theo đánh giá của họ yêu cầu tương trợ tư
pháp của quốc gia có yêu cầu có liên quan đến việc điều tra, xét xử và kết án các cá
nhân có hành vi phạm tội liên quan đến chính trị hoặc là tội phạm quân sự. Điều này
được quy định trên cơ sở tôn trọng chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của quốc gia
trong các vấn đề liên quan đến chính trị, quân sự có tính chất nhạy cảm trong quan
4()


Trang 59 – Bài viết “Các vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự trong ASEAN”
– Tác giả Đỗ Mạnh Hồng đăng trên tạp chí luật học số 9/2008

4


hệ đối ngoại. Trường hợp khác, nếu quốc gia được yêu cầu có đầy đủ cơ sở cho rằng
việc yêu cầu tương trợ được đưa ra dựa trên cơ sở phân biệt chủng tộc, tôn giáo,
giới tính, quốc tịch hoặc quan điểm chính trị đối với cá nhân có liên quan thì quyền
từ chối tương trợ tư pháp cũng là tuyệt đối, nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của
con người cũng như sự bảo hộ công dân dưới góc độ chủ quyền quốc gia của quốc
gia được yêu cầu. Ngoài ra quốc gia còn có quyền từ chối tương trợ tuyệt đối trong
một số trường hợp khác đươc quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 3 Hiệp định.
Ở cấp độ 2, thể hiện mức độ quyền từ chối tương trợ tư pháp của quốc gia được
yêu cầu là tương đối. Quốc gia được yêu cầu có thể từ chối tương trợ trợ giúp nếu
theo quan điểm quốc gia được yêu cầu quốc gia yêu cầu đã không tuân thủ một điều
khoản quan trọng của Hiệp định hay việc thực hiện tương trợ tư pháp có thể xâm
phạm tới an ninh của cá nhân hữu quan, kể cả trong trường hợp đang ở trong hoặc
ngoài lãnh thổ quốc gia được yêu cầu. Quy định này là cần thiết nhằm nâng cao ý
thức tận tâm, thiện ý thực hiện các điều khoản của Hiệp ước của các quốc gia thành
viên. Hoặc, việc tương trợ tư pháp cũng có thể sẽ không được tiến hành nếu hoạt
động tương trợ tạo ra gánh nặng tài chính cho quốc gia được yêu cầu (Khoản 2
Điều 3)(5).
Tuy có một số hạn chế về phạm vi tương trợ như trên nhưng đặt trong bối cảnh
ASEAN đang trong quá trình phát triển dần mối quan hệ hợp tác khu vực trong tất
cả các lĩnh vực thì nhìn chung, phạm vi hợp tác về tương trợ hình sự được quy định
trong Hiệp định cũng đã tương đối đầy đủ và chặt chẽ, đảm bảo được mục tiêu
hướng tới khi các quốc gia tiến hành hoạt động hợp tác. Việc quy định quyền từ
chối tương trợ tư pháp trong một số trường hợp cụ thể tạo cơ sở pháp lý cho quốc

gia được yêu cầu có thể từ chối thực hiện tương trợ nếu như việc tương trợ được
đặt ra không hoàn toàn hợp lý, xâm phạm đến chủ quyền quốc gia được yêu cầu
hoặc xâm phạm đến các quyền của cá nhân có liên quan...
Bên cạnh đó, các quốc gia kết ước cũng thống nhất ghi nhận quan điểm chung
rằng “không cho phép bất cứ Quốc gia thành viên nào thực hiện trong phạm vi
lãnh thổ của Quốc gia thành viên khác quyền tài phán hay các chức năng thuộc
5()

Trang 59, 60 – Bài viết “Các vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự trong
ASEAN” – Tác giả Đỗ Mạnh Hồng đăng trên tạp chí luật học số 9/2008

5


thẩm quyền tuyệt đối của các cơ quan có thẩm quyền của Quốc gia thành viên khác
theo quy định của pháp luật của quốc gia đó”. Quy định này đã nhấn mạnh tới việc
tôn trọng chủ quyền của các quốc gia trong quan hệ quốc tế, thể hiện tinh thần
tuyệt đối tuân thủ các quy định pháp luật quốc tế của ASEAN với vai trò là một tổ
chức liên chính phủ có uy tín và ảnh hưởng trong khu vực và trên toàn thế giới.
Như vậy, có thể thấy được trong vấn đề hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự
khi kí kết Hiệp định các quốc gia thành viên đã có sự nhất trí về phạm vi hợp tác
trên cơ sở các điều kiện chung của toàn khu vực cũng như điều kiện riêng của từng
quốc gia để đặt ra phạm vi hợp tác thích hợp, mặc dù chưa có sự toàn diện về mọi
mặt (mà điển hình là chưa có sự hợp tác trong vấn đề dẫn độ) nhưng phạm vi này
cũng đã tương đối phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội phạm trong nội khối liên minh.
3. Cấp độ hợp tác
Thực tế chứng minh hoạt động hợp tác tương trợ tư pháp về hình sự giữa các
quốc gia là một trong những cách thức hiệu quả nhất để mỗi quốc gia có thể thực
hiện tốt chức năng đấu tranh phòng chống tội phạm đảm bảo an ninh quốc gia cũng

như góp phần đấu tranh các loại tội phạm trên toàn thế giới. Việc hợp tác tương trợ
tư pháp hình sự có thể diễn ra dưới nhiều cấp độ khác nhau, tùy thuộc vào sự thỏa
thuận giữa các bên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại. Với Hiệp định tương trợ tư
pháp hình sự ASEAN, cấp độ hợp tác này được các quốc gia thành viên thỏa thuận
dừng lại ở mức hợp tác không toàn diện. Sở dĩ khẳng định như thế là do có thể thấy
Hiệp định tương trợ không điều chỉnh tất cả các vấn đề pháp lý liên quan đến tương
trợ tư pháp, một số nội dung thuộc tương trợ tư pháp nhưng Hiệp định không có
quy định điều chỉnh cụ thể, điển hình là vấn đề dẫn độ và một số vấn đề pháp lý
khác.
Xem xét vấn đề theo nghĩa rộng, phạm vi tương trợ tư pháp trong luật hình sự
quốc tế bao gồm ba lĩnh vực chính là dẫn độ, tương trợ pháp lý và chuyển giao
người bị kết án phạt tù. Việc Hiệp định tương trợ tư pháp ASEAN không điều chỉnh
vấn đề dẫn độ xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà chủ yếu là như mối
quan hệ hợp tác đặc thù giữa các quốc gia thành viên có sự đa dạng về chế độ chính
trị, văn hóa, xã hội, phong tục, tập quán...Ngoài ra dẫn độ tội phạm là một hoạt

6


động pháp lý được thực hiện trên cơ sở nhiều nguyên tắc chặt chẽ như nguyên tắc
có đi có lại, định danh kép, không dẫn độ công dân nước mình...Những nguyên tắc
này không thể được đảo bảo một cách tuyệt đối trong một phạm vi cộng đồng
ASEAN với nhiều quốc gia thành viên, về vấn đề dẫn độ này các quốc gia thành
viên thường lựa chọn con đường kí kết các Hiệp định tương trợ tư pháp hình sự
song phương.
Bên cạnh đó, sự không toàn diện trong hợp tác tương trợ tư pháp hình sự trong
ASEAN còn được thể hiện trong một số vấn đề pháp lý không nằm trong phạm vi
điều chỉnh của Hiệp định như vấn đề chuyển giao người bị kết án phạt tù.
4. Phương thức hợp tác
Đối với từng loại yêu cầu tương trợ tư pháp của các quốc gia ASEAN, quốc gia

được yêu cầu sẽ tiến hành thực hiện theo những phương thức riêng phù hợp với quy
định của hiệp định, pháp luật và thực tiễn của mình. Yêu cầu thực hiện tương trợ tư
pháp phải được lập thành văn bản hoặc trong trường hợp có thể, bằng bất kỳ
phương tiện nào có khả năng tạo ra bản sao cho phép quốc gia được yêu cầu chứng
thực. trong trường hợp khẩn cấp hoặc pháp luật của quốc gia được yêu cầu cho
phép, yêu cầu có thể bằng lời nói nhưng trong thời hạn 5 ngày phải chuyển sang
hình thức văn bản.
Mỗi quốc gia thành viện sẽ chỉ định một cơ quan trung ương để gửi và nhận yêu
cầu. Cụ thể, Brunei Darussalam là Bộ tổng chưởng lí; Indonesia là Bộ pháp luật và
nhân quyền; Lào là Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ an ninh; còn đối với Việt
Nam là Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Yêu cầu tương trợ về hình sự phải bao gồm đầy đủ những thông tin cần thiết
theo yêu cầu của Quốc gia được yêu cầu. Các yêu cầu tương trợ và tài liệu kèm theo
phải được lập bằng tiếng anh và tiếng của Quốc gia được yêu cầu hoặc ngôn ngữ
khác được quốc gia này chấp nhận khi có thể. Quốc gia yêu cầu phải được cung cấp
thông tin cần thiết theo đề nghị của quốc gia được yêu cầu trong trường hợp những
thông tin trong yêu cầu tương trợ tư pháp chưa đầy đủ. Về nguyên tắc, các yêu cầu
tương trợ tư pháp sẽ được các quốc gia được yêu cầu thực hiện ngay theo phương
thức tì được quy định trong pháp luật hoặc thực tiễn của quốc gia mình. Tuy nhiên,

7


quốc gia được yêu cầu cũng có thể sử dụng phương thức mà quốc gia yêu cầu trợ
giúp đưa ra với điều kiện phù hợp với pháp luật và thực tiễn quốc gia mình.
Trong quá trình thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp, quốc gia được yêu cầu phải
áp dụng mọi biện pháp thích hợp để bảo mật về yêu cầu tương trợ, nội dung yêu
cầu, các tài liệu kèm theo cũng như các hoạt động được tiến hành theo yêu cầu đồng
thời quốc gia yêu cầu cũng phải đảm bảo những thông tin, chứng cứ mà quốc gia
được yêu cầu đã cung cấp sẽ được bảo mật, không bị mất mát, tiết lộ trái phép hoặc

các hành vi lạm dụng khác…(6)
Yêu cầu tương trợ sẽ được thực hiện ngay theo cách thức do pháp luật và thực
tiễn của Quốc gia được yêu cầu quy định. Trong phạm vi mà pháp luật và thực tiễn
nước mình cho phép. Quốc gia được yêu cầu phải thực hiện yêu cầu theo cách thức
mà Quốc gia yêu cầu đã nêu. Nếu có đề nghị và trong phạm vi mà pháp luật và thực
tiễn nước mình cho phép, Quốc gia được yêu cầu thu xếp mọi việc cần thiết để
Quốc gia yêu cầu tham gia bất kỳ thủ tục tố tụng hình sự nào phát sinh từ yêu cầu
tương trợ hoặc đại diện cho lợi ích của Quốc gia yêu cầu. Quốc gia được yêu cầu
phải sớm đáp ứng những đề nghị hợp lý của Quốc gia yêu cầu về tiến độ thực hiện
yêu cầu tương trợ. Quốc gia được yêu cầu có thể đề nghị Quốc gia yêu cầu cung cấp
thông tin dưới hình thức cần thiết để giúp mình thực hiện yêu cầu, hoặc để tiến hành
các bước cần thiết theo pháp luật và thực tiễn của Quốc gia được yêu cầu để làm
cho yêu cầu tương trợ có hiệu lực. (Điều 7, Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự)
II. Thực tiễn hợp tác tương trợ tư pháp hình sự trong ASEAN
Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa các nước ASEAN, được các quốc
gia ASEAN ký vào ngày 29/11/2004 tại Kuala Lumpur, Malaysia – là điều ước quốc
tế đa phương đầu tiên về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự giữa các quốc gia
Đông Nam Á, thể hiện sự quyết tâm chung của các nước ASEAN trong hợp tác
phòng, chống tội phạm trong khu vực, nhất là tội phạm mang tính chất quốc tế, tội
phạm xuyên quốc gia.. Hiệp định này được xây dựng theo sáng kiến của Malaysia,
gồm 32 điều quy định nhiều vấn đề có liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự.
Đến nay, Hiệp định đã được tất cả các quốc gia thành viên ASEAN ký kết và đã có
8 quốc gia phê chuẩn là Malaysia, Singapore, Việt Nam, Brunei Darussalam, Lào,
6()

Trang 127, 128 – Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN – Trường đại học Luật Hà Nội – Nhà xuất bản
Công an nhân dân Hà Nội – năm 2012.

8



Indonesia, Phillipines và Campuchia; 2 quốc gia còn lại (Thái Lan, Myanma) đang
nỗ lực hoàn thành các thủ tục phê chuẩn.
Theo thông lệ, hàng năm các nước tham gia ký kết Hiệp định đều luân phiên
đăng cai tổ chức Hội nghị quan chức cao cấp (ưu tiên các nước đã phê chuẩn Hiệp
định) nhằm tổng kết đánh giá quá trình ký kết, tham gia hiệp định qua đó xác định
những khó khăn, vướng mắc và tìm giải pháp trong phê chuẩn và thực thi Hiệp
định. Trong báo cáo thường niên của các quốc gia đều có những cam kết nhằm tạo
ra một cơ chế minh bạch trong quá trình thực thi các thỏa thuận trong khuôn khổ
của Hiệp định. Các cam kết đó tập trung vào các định hướng cơ bản như: Đối với
nhóm các quốc gia chưa phê chuẩn Hiệp định (Thái Lan, Myanma) thì cam kết nỗ
lực hoàn thành các thủ tục pháp lý để phê chuẩn Hiệp định. Đồng thời tất cả các
quốc gia tham gia hiệp định đều có sự nỗ lực trong việc xây dựng luật quốc nội
(nước chưa có luật tương trợ tư pháp) hoặc sửa đổi luật quốc nội (nước đã có luật
tương trợ tư pháp) để điều chỉnh những vấn đề có liên quan đến hoạt động tương trợ
tư pháp về hình sự, trong đó có nội dung liên quan đến việc thực thi các cam kết của
Hiệp định. Ví dụ: Brunei Darussalam ban hành Sắc lệnh tương trợ tư pháp về hình
sự năm 2005, Indonesia ban hành Bộ luật số 01 năm 2006 về tương trợ tư pháp về
hình sự luật áp dụng từ ngày 3/3/2006, Singapore năm 2006 đã sửa đổi luật Tương
trợ tư pháp về hình sự (MACMA) và Đạo luật Cộng hòa Singapore (CDSA)…, đào
tạo đội ngũ cán bộ bổ sung cho các cơ quan trung ương đầu mối thực hiện hiệp
định. Đặc biệt là thông qua các chương trình nghị sự, các phái đoàn quốc gia trao
đổi, tập trung tháo gỡ vướng mắc thực tiễn nhằm xây dựng một cơ chế cởi mở, thân
thiện và tin tưởng lẫn nhau trong quá trình thực thi hiệp định.
Đối với Việt Nam được coi là một trong những thành viên tích cực của Hiệp
định, Việt Nam đã tham gia đàm phán Hiệp định ngay từ những phiên đàm phán
đầu tiên và là một trong các quốc gia tham gia ký Hiệp định ngày 29/11/2005. Với
mong muốn của Nhà nước Việt Nam là ngoài việc tăng cường hợp tác quốc tế trên
tất cả các lĩnh vực, thì vấn đề hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm cũng được đặc biệt quan tâm. Trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự,

Việt Nam cũng có nhiều thuận lợi trong việc triển khai thực thi Hiệp định, từng
bước hoàn thiện cơ sở pháp lý và đầu tư nhân lực, vật lực để thực hiện hiệp định.

9


Việt Nam cũng đã chú trọng đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc nội có liên
quan đến tương trợ tư pháp về hình sự. Cụ thể là năm 2003, lần đầu tiên trong Bộ
luật Tố tụng hình sự (chương 36 và chương 37) đã quy định một số điều luật mang
tính nguyên tắc về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự và dẫn độ. Đặc biệt, với
sự nỗ lực và quyết tâm lớn luật Tương trợ tư pháp đã được Quốc hội khóa VII,
thông qua ngày 21/11/2007 tại kỳ họp thứ 2, luật có hiệu lực thi hành từ ngày
01/07/2008, bao gồm 7 chương với 72 điều quy định cả bốn lĩnh vực: Tương trợ tư
pháp về dân sự, tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang
chấp hành hình phạt tù. Trong đó tương trợ tư pháp về hình sự được quy định đầy
đủ, chi tiết từ điều 17 đến điều 31 thuộc Chương III của luật Tương trợ tư pháp để
điều chỉnh toàn bộ những vấn đề liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự (7).
Nhìn chung, nội dung tương trợ tư pháp về hình sự của Hiệp định phù hợp với
luật pháp các nước ASEAN và thực tiễn quốc tế, tạo cơ sở pháp lý cho hợp tác giữa
các nước ASEAN với nhau. Tuy nhiên, bên cạnh đó những quy định của Hiệp định
còn mang tính nguyên tắc; cơ chế hợp tác về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình
sự ở một số nước vẫn chưa được coi trọng đúng mức, chỉ tiến hành triển khai hoạt
động hợp tác về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự với nhau trên cơ sở của
nguyên tắc có đi có lại đối với từng vấn đề cụ thể. Nhiều nước ASEAN vẫn chưa
sẵn sàng với cơ chế hợp tác đa phương.
Những khó khăn trên do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Thứ nhất, có thể thấy hầu hết các điều ước đa phương về tương trợ tư pháp có
các yêu cầu, mục đích, quy phạm dựa trên tiêu chí của nền tư pháp phát triển. Do
đó, đối với một số nước ở khu vực Đông Nam Á còn có khoảng cách nhất
định, khiến cho nhiều nước còn e ngại tiếp cận.

- Thứ hai, mặc dù hoạt động tương trợ tư pháp là một trong những hoạt động
hợp tác được hình thành và phát triển từ lâu trên thế giới, nhưng đối với nhiều nước
ASEAN thì vẫn còn mới mẻ.

7()

Trang web: />
10


- Thứ ba, nhiều nước chưa sẵn sàng để tham gia vào các cơ chế hợp tác đa
phương vì lo ngại phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý với số lượng lớn các quốc gia
thành viên, trong khi chưa có nhiều kinh nghiệm hợp tác trong lĩnh vực này(8).
Tại Việt Nam, việc thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự cũng
còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, ví dụ như:
- Hiện tại các quy định về tương trợ tư pháp về hình sự trong Bộ luật Tố tụng
Hình sự (TTHS) 2003 không nhiều và chỉ mang tính nguyên tắc. Pháp luật quốc tế
và pháp luật Việt Nam không quy định thời hạn thực hiện một yêu cầu tương trợ tư
pháp. Do đó các cơ quan tiến hành tố tụng trong nước khi giải quyết vụ án hình sự
có yêu cầu tương trợ gửi ra nước ngoài gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong
trường hợp thời hạn điều tra, truy tố, xét xử theo luật định đã hết mà chưa nhận
được kết quả tương trợ từ nước ngoài.
- Một số Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam tham gia ký kết đã quy định
về việc đề nghị nước ngoài cho phép cơ quan có thẩm quyền Việt Nam tham gia
một số hoạt động điều tra ở nước ngoài và ngược lại trong quá trình thực hiện tương
trợ tư pháp. Tuy nhiên điều này không thể thực hiện tại Việt Nam do Bộ luật TTHS
2003 không quy định.
- Quy định cụ thể về thẩm quyền thực hiện tương trợ tư pháp (cấp huyện, cấp
tỉnh nơi phát hiện tội phạm hay nơi cư trú của người phạm tội) cũng chưa có nên
không thống nhất trong việc tiếp nhận, giải quyết yêu cầu tương trợ tư pháp của

nước ngoài trong thực tiễn(9).
Do bối cảnh khu vực và từng nước khác nhau nên các nước ASEAN cần tăng
cường hợp tác bằng các hình thức thiết thực nhằm thực hiện có hiệu quả Hiệp định
tương trợ tư pháp về hình sự nói riêng, hoạt động tương trợ tư pháp nói chung, tạo
hành lang pháp lý quan trọng trong hoạt động hợp tác phòng, chống tội phạm trong
khu vực, nhất là tội phạm mang tính chất quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, góp
phần bảo vệ hòa bình và an ninh trật tự trong khu vực và trên thế giới.
8()

Trang web: />Trang web: />9()

11


III. Vai trò của hoạt động tương trợ tư pháp hình sự của ASEAN
Với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ thông
tin cũng như xu thế hợp tác và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, tình hình tội phạm
đang có xu hướng diễn biến phức tạp nhất là các loại tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia đã khiến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm không đơn thuần là công
việc nội bộ liên quan đến an ninh của mỗi quốc gia mà đã trở thành mối quan tâm
của cả cộng đồng quốc tế. Đặc biệt là các loại tội phạm hình sự quốc tế như tội buôn
lậu ma túy, buôn người, rửa tiền, các loại tội phạm kinh tế, khủng bố... do các băng
đảng, tổ chức tội phạm quốc tế thực hiện ngày càng được tổ chức quy mô, chặt chẽ
và tinh vi hơn, tiềm lực kinh tế ngày càng lớn hơn làm cho công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm ngày càng gay go, phức tạp và quyết liệt hơn.
Chính vì vậy, đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay không chỉ giới hạn trong
phạm vi lãnh thổ của mỗi quốc gia mà cần phải có sự hợp tác của cộng đồng quốc
tế. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải có sự hợp tác, hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau một
cách chặt chẽ và có hiệu quả nhất. Một trong những hình thức hợp tác quốc tế điển
hình trong đấu tranh phòng chống tội phạm là hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp

hình sự Sự ra đời của hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự là thành công lớn của
sự hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm trong khu vực ASEAN. Với 32
điều khoản, văn bản pháp lí quốc tế quan trọng này của ASEAN chắc chắn sẽ trở
thành công cụ pháp lí hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong
khu vực, đặc biệt là tội phạm khủng bố quốc tế - mối đe dọa có tính toàn cầu hiện
nay. Cùng với tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, chúng ta có quyền tin
rằng Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự của ASEAN sẽ góp phần quan trọng
trong sự nghiệp bảo vệ hòa bình và an ninh khu vực, qua đó đảm bảo sự ổn định và
bền vững của trật tự pháp lí quốc tế(10).
Vai trò lớn hơn của hoạt động tương trợ tư pháp hình sự là tăng cường hợp tác
an ninh-chính trị trong ASEAN và xây dựng Cộng đồng an ninh-chính trị ASEAN
(ASC) vào năm 2015. Trong Kế hoạch hành động ASC được thông qua qại Hội nghị
Cấp cao ASEAN lần thứ 10 tổ chức tại Viêng chăn, Lào tháng 11/2004, các quốc gia
10()

Trang 64 – Bài viết “Các vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự trong
ASEAN” – Tác giả Đỗ Mạnh Hồng đăng trên tạp chí luật học số 9/2008

12


ASEAN đã xác định 6 lĩnh vực hợp tác kèm theo là các chương trình và biện pháp
cụ thể để xây dựng ASC. Một trong những lĩnh vực hợp tác được xác lập trong quan
hệ giữa các quốc gia trong ASEAN là xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử.
Để triển khai lĩnh vực hợp tác này, Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự được coi
là công cụ pháp lí hữu hiệu mà các quốc gia thành viên ASEAN đã, đang và tiếp tục
sẽ sử dụng(11).

C. KẾT LUẬN
Trên đây là bài làm của nhóm chúng em, phần nào đã làm rõ được phần nào hoạt

động tương trợ tư pháp hình sự trong ASEAN. Bài làm còn nhiều thiếu sót, chúng
em rất mong được sự đóng góp của thầy cô. Chúng em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

11()

Trang 58 – Bài viết “Các vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự trong
ASEAN” – Tác giả Đỗ Mạnh Hồng đăng trên tạp chí luật học số 9/2008

13


1. Giáo trình Pháp luật cộng đồng ASEAN – Trường đại học Luật Hà Nội – Nhà
xuất bản Công an nhân dân Hà Nội – năm 2012.
2. Bài viết “Các vấn đề pháp lý cơ bản trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về
hình sự trong ASEAN” – Tác giả Đỗ Mạnh Hồng đăng trên tạp chí luật học số
9/2008
3. Trang web:
/>4. Trang web:
/>ItemID=1365
5. Trang web:
/>6. Trang web:
/>
14



×