I.LỜI MỞ ĐẦU.
Khi một vụ án xảy ra, các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh sự
thật của vụ án, xác định tội phạm và người phạm tội để giải quyết vụ án một
cách chính xác, đúng pháp luật. Để giải quyết nhanh chóng, đúng đắn vụ án thì
một trong những yêu cầu quan trọng cần quán triệt mà xuyên suốt quá trình giải
quyết vụ án là các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải
thực hiện tốt nghĩa vụ chứng minh của mình. Tuy nhiên trên thực tế do chưa
nắm vững và chưa thực hiện tốt nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể tham gia
tố tụng dân sự (TTDS) dẫn đến việc giải quyết vụ án dân sự chưa nhanh chóng,
chính xác, còn dây dưa, kéo dài, nhiều khi gây ra những bất đồng trong nội bộ
nhân dân. Từ những lí do đó nhóm chúng tôi chọn đề tài: “Nghĩa vụ chứng
minh trong TTDS”.
II.NỘI DUNG
1.Khái quát chung về nghĩa vụ chứng minh trong TTDS.
1.1.Khái niệm.
a.Định nghĩa.
Nhiệm vụ của Tòa án trong TTDS là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc
dân sự: có hay không không có, tồn tại hay không tồn tại các sự kiện, tình tiết
mà các bên nêu ra làm cơ sở cho yêu cầu của mình trước Tòa án. Để có thể đưa
ra kết luận chính xác, đúng đắn về vụ án, vụ việc dân sự, các chủ thể tố tụng
phải trải qua hoạt động chứng minh.
Có thể hiểu: Chứng minh trong TTDS là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố
tụng theo quy định của pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ
việc dân sự.
b. Đặc điểm.
- Hoạt động chứng minh trong TTDS một dạng của họat động nhận thức thế
giới khách quan. Họat động chứng minh trong TTDS là một quá trình nhận thức
đi từ thấp đến cao, là sự thống nhất biện chứng của nhận thức cảm tính và nhận
thức lý tính.
- Hoạt động chứng minh trong TTDS bao gồm hoạt động tư duy và họat động tố
tụng của những người tiến hành tố tụng, đương sự và người tham gia tố tụng
khác đại diện hợp pháp của họ. Trong đó, họat động cung cấp, thu thập, nghiên
cứu và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa của các chủ thể là chủ yếu và mang tính
quyết định.
- Hoạt động chứng minh được diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ việc
dân sự, bắt đầu từ khi khởi kiện cho đến khi vụ án được giải quyết bằng bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật.
- Hoạt động chứng minh phải tuân thủ quy định của pháp luật.
- Hoạt động chứng minh là hoạt động sử dụng chứng cứ.
1.2. Cơ sở của quy định.
a, Cơ sở lý luận
Trong quan hệ tố tụng dân sự, Tòa án, Viện kiểm sát và những người tham
gia tố tụng có mối liên hệ mật thiết với nhau trong một vụ án. Mọi hành vi tố
tụng của các chủ thể trong toàn bộ quá trình tố tụng đều nhằm làm rõ sự thật
khách quan của vụ án đó. Mặt khác, pháp luật nội dung và pháp luật hình thức
là hai bộ phận có mối liên hệ mật thiết, không thể tách rời. Luật tố tụng dân sự
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa Tòa án nhân dân và những người
tham gia tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích hợp
pháp của công dân, thiết lập lại các quan hệ pháp luật về nội dung bị vi phạm
hay tranh chấp. Pháp luật nội dung ghi nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Khi các quyền và lợi ích này bị xâm phạm, họ có quyền khởi kiện để
đòi quyền lợi hợp pháp của mình. Như vậy, khách thể của quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự là đối tượng xem xét của Tòa án nhân dân do chính các yêu cầu của
đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện và mong muốn được Tòa án giải quyêt. Họ
là những người có khả năng đưa ra chứng cứ chính xác nhất làm căn cứ chứng
minh có những yêu cầu của mình nên họ có nghĩa vụ phải chứng minh.
Như vậy, việc quy định nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là cần
thiết nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của những chủ thể có nghĩa vụ chứng
minh, đảm bảo việc thực hiện pháp luật được công bằng, nghiêm minh, giải
quyết vụ việc dân sự hiệu quả và tuân theo pháp luật.
b, Cơ sở pháp lý
Để đảm bảo nguyên tắc “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật” được quy định trong Hiến pháp 1992 cũng như đảm bảo nguyên tắc
nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, BLTTDS
2004 đã quy định quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự thành một
nguyên tắc (Điều 6) và cụ thể hóa tại các Điều 58, 63, 79, 117, 118…BLTTDS
2004. Theo đó, các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự bao
gồm: đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác, Tòa án và Viện kiểm sát. Để giải quyết đúng được các vụ
việc dân sự thì tất cả các sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ việc đều phải chứng
minh, bao gồm những tình tiết, sự kiện mà các chủ thể căn cứ vào đó đưa ra yêu
cầu hay phản đối yêu cầu của người khác và những tình tiết, sự kiện có ý nghĩa
cho việc giải quyết vụ việc dân sự.
2.Nghĩa vụ chứng minh trong TTDS.
2.1.Nghĩa vụ chứng minh của những người tham gia TTDS.
a. Nghĩa vụ chứng minh của đương sự
Trong giải quyết một vụ việc dân sự, nghĩa vụ chứng minh trước hết và quan
trọng nhất thuộc về các đương sự. Bởi vì các vấn đề mà họ yêu cầu Tòa án xem xét,
giải quyết là trung tâm của vụ việc. Bên cạnh đó, bản thân đương sự chính là người
trong quan hệ phát sinh tranh chấp nên hơn ai hết họ thường là người biết rõ về các
tình tiết liên quan đến vụ việc, có điều kiện cung cấp các tin tức và đưa ra tính xác
thực và nguồn gốc của các tin tức đó, tạo sự tin tưởng và làm cơ sở để Tòa án ra bản
án, quyết định cuối cùng. Đồng thời, đương sự cũng là các chủ thể có quyền, lợi ích
liên quan trực tiếp đến vụ việc dân sự nên họ sẽ quan tâm và tìm mọi biện pháp để
khẳng định yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của mình. Do vậy, nghĩa vụ chứng minh
của các đương sự sẽ giúp tạo ra một nguồn chứng cứ vô cùng quan trọng, không thể
thiếu trong quá trình giải quyết một vụ việc dân sự.
Mỗi một bên đương sự khi tham gia tố tụng cần phải chứng minh tất cả các tình
tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà trên cơ sở đó họ đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu
cầu của người khác. Nguyên đơn phải đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý để chứng
minh trên cơ sở quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn được xác lập. Bị đơn phản
đối lại yêu cầu của nguyên đơn thì phải đưa ra các chứng cứ, căn cứ pháp lý làm cơ sở
cho sự phản đối của mình. Những người có quyền, nghĩa vụ liên quan tham gia vào
quá trình tố tụng cũng phải đưa ra các chứng cứ nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của bản thân mình. Như vậy, trong mối tương quan giữa các đương sự, nguyên đơn có
nghĩa vụ chứng minh trước vì là người khởi kiện, đưa ra yêu cầu trước, bắt đầu một vụ
việc dân sự. Sau đó, bị đơn mới có nghĩa vụ chứng minh phản đối các yêu cầu của
nguyên đơn.
Chỉ là trước sau về mặt khái niệm, trình tự, nhưng thực chất, các đương sự có
nghĩa vụ chứng minh như nhau trước tòa án, để đảm bảo việc thực hiện quyền, lợi ích
của họ. Bên này được đưa ra chứng cứ, lý lẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình thì bên kia cũng phải được đưa ra các chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của họ. Sự thiếu bình đẳng về nghĩa vụ chứng minh của đương sự có thể dẫn
đến hậu quả chỉ có một bên đưa ra được chứng cứ, lý lẽ chứng mình, bảo về quyền lợi
của mình, còn bên kia thì không. Vì thế Tòa án có thể nhận định sai lệch sự việc mà
giải quyết vụ án không đúng với bản chất của nó. Tuy nhiên, cũng có một số trường
hợp ngoại lệ pháp luật quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về một bên đương sự, đó
là những trường hợp xuất phát từ tính chất của vụ việc dân sự, nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích của các đương sự mà việc chứng minh của một bên là không cần thiết. Ví dụ
khoản 3, Điều 302 của BLDS quy định việc chứng minh không có lỗi thuộc nghĩa vụ
của bên có nghĩa vụ dân sự. Trong trường hợp này, bên có nghĩa vụ dân sự phải thực
hiện một nghĩa vụ nào đó đối với bên có quyền. Bên có quyền không cần phải chứng
minh bên kia có lỗi thì trách nhiệm dân sự trong trường hợp này vẫn phải thuộc về bên
có nghĩa vụ. Do vậy, nếu muốn không phải nhận trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân
sự thì bên có nghĩa vụ phải tự đưa ra các chứng cứ, căn cứ chứng minh mình không có
lỗi. Nếu không muốn hoặc không thể đưa ra các chứng cứ, thì bên có nghĩa vụ sẽ phải
thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền. Vì thế trong trường hợp này, việc yêu cầu cả
2 bên đều có nghĩa vụ chứng minh là không cần thiết.
b. Nghĩa vụ chứng minh của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu tòa
án bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Đây là những chủ thể khởi kiện nhưng không nhằm bảo vệ quyền lợi của mình
mà bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Đó là các chủ thể như: Hội liên
hiệp phụ nữ, Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở; Cơ quan, tổ chức trong phạm vi
nghĩa vụ, quyền hạn của mình... Các chủ thể này sẽ tham gia tố tụng và có nghĩa vụ
theo khoản 3 Điều 79 BLTTDS. Tuy không có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc
dân sự như đương sự nhưng các cá nhân, cơ quan, tổ chức này cũng đưa ra yêu cầu và
biết rõ sự việc. Do đó, tương tự như đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện
yêu vầu tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác cũng có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp. Khác với nguyên đơn, các chủ thể này không đứng trên địa vị
phải bảo vệ quyền, lợi ích của chính bản thân mình nên họ có thể không quan tâm ở
mức độ cao nhất đến vụ việc nhưng nếu các cơ quan, tổ chức này không thực hiện
nghĩa vụ chứng minh của mình thì sẽ dẫn đến sự bất lợi cho các đương sự.
c. Nghĩa vụ chứng minh của người đại diện của đương sự
Người đại diện của đương sự là người tham gia tố tụng thay mặt đương sự thực
hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự
trước tòa án. Do đó, nghĩa vụ chứng minh của họ được hình thành trên cơ sở nghĩa vụ
chứng minh của đương sự. Nếu họ không thực hiện nghĩa vụ chứng minh thì quyền,
lợi của các đương sự mà họ đại hiện sẽ không được bảo đảm. Trong dân sự, tùy theo
việc họ đại diện cho đương sự nào thì có nghĩa vụ chứng minh cho đương sự đó.
Người đại diện cho nguyên đơn có nghĩa vụ đưa ra các căn cứ để làm cơ sở chứng
minh các yêu cầu của nguyên đơn là hoàn toàn hợp lý, hợp pháp. Người đại diện cho
bị đơn có nghĩa vụ đưa ra các căn cứ làm cơ sở cho sự phản đối các yêu cầu của
nguyên đơn.
Theo quy định của pháp luật, người đại diện theo pháp luật của đương sự gồm
cha, mẹ của con chưa thành niên; người giám hộ của người được giám hộ; người đứng
đầu cơ quan, tổ chức; chủ hộ gia đình v.v..; người đại diện do tòa án chỉ định là những
người được tòa án chỉ định đại diện cho đương sự trong trường hợp đương sự là người
không có năng lực hành vi tố tụng dân sự mà không có người đại diện hoặc người đại
diện theo pháp luật của họ thuộc trường hợp không được đại diện cho họ theo quy
định của pháp luật. Có thể thấy đây là những người mà quyền lợi của họ có thể hoặc
không gắn liền với quyền lợi của đương sự nhưng họ lại là những người có khả năng
nhiều nhất để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Nên họ có nghĩa vụ thực
hiện tất cả các nghĩa vụ chứng minh của đương sự họ đại diện. Còn người đại diện
theo ủy quyền của đương sự có thể chỉ thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự
trong phạm vi được ủy quyền.
d. Nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
Khoản 1 Điều 63- BLTTDS quy định: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự là người được đương sự nhờ và tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.”
Theo đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được hiểu là
người tham gia tố tụng có đủ các điều kiên do pháp luật quy định được đương sự yêu
cầu tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Các chủ thể này tham
gia tố tụng với mục đích, nhiệm vụ giúp các đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ và chứng minh sự tồn tại quyền và lợi ích đó trước tòa án. Do vậy, người bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng phải đưa ra các chứng cứ, lí lẽ để chứng
minh cho các yêu cầu và sự phản đối yêu cầu của đương sự mà mình bảo vệ là có cơ
sở. Có thể thấy, nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự không xuất phát từ nghĩa vụ chứng minh của đương sự mà xuất phát từ mục
đích, nhiệm vụ tham gia tố tụng của họ.
2.2.Nghĩa vụ chứng minh của Tòa án, Viện kiểm sát.
a.Nghĩa vụ chứng minh của Tòa án.
Về nguyên tắc, tòa án không có nghĩa vụ chứng minh làm rõ các tình tiết, sự
kiện đương sự đưa ra làm rõ các tình tiết, sự kiện đương sự đưa ra làm cơ sở
cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của họ vì tòa án không phải là người chỉ ra
các tình tiết, sự kiện ấy. Cũng có thể nói toà án có nghĩa vụ chứng minh tính
khách quan trong vụ án, chứng minh cho quyết định, bản án của mình đưa ra là
công bằng và hợp pháp.
Trong hoạt động thu thập chứng cứ để chứng minh, tòa án chủ yếu dựa trên
sự chứng minh của đương sự. Trong trường hợp ngoại lệ vì lysdo khách quan
đương sự không thực hiện được nghĩa vụ chứng minh thì tòa án mới hỗ trợ
đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh làm rõ những sự kiện pháp lý làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật giữa các đương sự. Tuy nhiên,
cần nhấn mạnh một lần nữa tòa án không có nghĩa vụ chứng minh làm rõ các
tình tiết, sự kiện đương sự đưa ra làm rõ các tình tiết, sự kiện đương sự đưa ra.
Thực chất, hoạt động chứng minh của toàn án chủ yếu phục vụ cho việc làm rõ
cơ sở quyết định của mình.
Việc đánh giá, công bố công khai chứng cứ trước khi sử dụng sẽ được Tòa
án thực hiện theo các quy định tại Điều 96, 97 BLTTDS. Trong hoạt động
nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, Tòa án sẽ xem xét và đưa ra phán quyết của
mình trên cơ sở chứng cứ mà các bên đưa ra. Để quyết định giải quyết vụ việc
của mình có sức thuyết phục thì Tòa án không thể không làm rõ những cơ sở
của quyết định đó, tức là phải chứng minh những sự kiện làm cơ sở cho các kết
luận của Tòa án. Mặt khác, mặc dù đương sự có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ
trước Tòa án nhằm thuyết phục về những yêu cầu mà mình đưa ra là có căn cứ,
song chứng cứ do các đương sự cung cấp không phải lúc nào cũng có độ chính
xác tuyệt đối (đương sự có thể nhầm lẫn hoặc đưa ra các chứng cứ giả mạo). Dó
đó, tòa án phải trực tiếp xem xét, phân tích, so sánh chứng cứ tại phiên tòa. Đây
là nội dung chủ yếu, cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong hoạt động của tòa
án.
b.Nghĩa vụ chứng minh của Viện kiểm sát.
Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát có nghĩa vụ chứng minh là khi tham gia
phiên tòa và kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm để bảo vệ cho
quan điểm của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cũng tương tự, khi đương sự có
yêu cầu, khiếu nại đối với việc tòa án thu thập chứng cứ thì Viện kiểm sát phải
tham gia để bảo vệ quyền lợi của các bên mà cụ thể là những vụ án do tòa án
thu thập chứng cứ. Khi đó, Tòa án nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện
kiểm sát nghiên cứu trong một thời gian luật định để tiến hành xem xét. Viện
kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm khi xét thấy có căn cứ,
Viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định tại điểm b khoản
1 Điều 251, khoản 5 Điều 287 BLTTDS, ngoài ra, viện kiểm sát còn có quyền
nghiên cứu hồ sơ (Điều 262), tham gia phiên tòa (khoản 2 Điều 264).
3.Nghĩa vụ chứng minh trong TTDS và nghĩa vụ chứng minh trong Tố tụng
hình sự.
4. Hậu quả pháp lý của việc vi phạm nghĩa vụ chứng minh, thực trạng
hoạt động chứng minh hiện nay và giải pháp.
4.1Hậu quả pháp lý của việc vi phạm nghĩa vụ chứng minh.
Nội dung nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh của đương sự được thể hiện ở
hai mặt: Thứ nhất, nghĩa vụ là việc phải làm. Đương sự có nghĩa vụ chứng minh
có nghĩa là đương sự phải thực hiện hoạt động chứng minh. Điều này không có
nghĩa là tất cả các đương sự đều phải thực hiện hoạt động chứng minh. Như khi
cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân khác thì tư cách
đương sự thuộc về người được khởi kiện nhưng họ không bắt buộc phải chứng
minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình là có căn cứ mà nghĩa vụ chứng
minh thuộc về cơ quan, tổ chức đã khởi kiện, bị đơn cũng không bắt buộc phải
chứng minh…
Thứ hai, đồng thời với việc phải làm thì nghĩa vụ còn mang lại một hậu quả
pháp lý Theo quy định tại khoản 4 điều 79 thì đương sự có nghĩa vụ đưa ra
chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra
đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc
chứng minh không đầy đủ đó. Hậu quả pháp lý này là việc được tòa án công
nhận các quyền và lợi ích hợp pháp khi đương sự thực hiện một cách đầy đủ và
chính xác nghĩa vụ chứng minh. Ngược lại, khi đương sự không thực hiện hoặc
thực hiện một cách không đầy đủ nghĩa vụ chứng minh thì yêu cầu đưa ra sẽ
không được chấp nhận và sẽ phải chịu “hậu quả”. Không loại trừ trường hợp
người đưa ra yêu cầu không thực hiện nghĩa vụ chứng minh nhưng hậu quả
pháp lý mang lại không phải là một hậu quả bất lợi như khi bị đơn phản đối yêu
cầu của nguyên đơn lại không thực hiện nghĩa vụ chứng minh mà chỉ “chối dài”
nhưng phản đối đó vẫn được chấp nhận, trường hợp này phải thấy được rằng
hậu quả bất lợi ở đây đã thuộc về phía nguyên đơn vì họ đã không thực hiện
được nghĩa vụ chứng minh của mình nên đã không được công nhận quyền và
lợi ích.
Theo phân tích ở phần trước, mặc dù là chủ thể chính trong hoạt động chứng
minh nhưng nghĩa vụ chứng minh không chỉ thuộc về đương sự, mà còn bao
gồm các chủ thể khác như người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự…. Các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh phải thực hiện đúng
và đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của mình trong quá trình tố tụng. Việc thực hiện
không đầy đủ hoặc không đúng nghĩa vụ chứng minh của một chủ thể sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Do vậy, không chỉ đương
sự mà các chủ thể chứng minh thực hiện không đầy đủ hoặc không đúng nghĩa
vụ chứng minh của mình phải chịu trách nhiệm về việc đó. Hiện nay đối với
đương sự thì sẽ phải chịu trách nhiệm về việc không chứng minh làm rõ được
cơ sở yều cầu của họ hay cơ sở họ phản đổi yêu cầu của người khác ( điều 79
BLTTDS ) nhưng với các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh khác thì lại không có
quy định cụ thể. Ngoài ra quy định tại điều 79 cũng là rất chung chung và chưa
cụ thể, đây chính là một trong những hạn chế hiện nay trong quy định của pháp
luật sẽ được đề cập ở phần sau.
4.2 Thực trạng
a. Ưu điểm
Thứ nhất: Bộ luật TTDS đã có nhiều điểm tiến bộ
Bảo đảm việc làm rõ các tình tiết của vụ việc dân sự như: quy định đúng
các chủ thể chứng minh trong TTDS; quyền và nghĩa vụ chứng minh của các
chủ thể. Mặt khác, các quy định hiện nay cũng rõ ràng hơn, hợp lý hơn, từ đó đã
đề cao được trách nhiệm của các chủ thể khác trong việc thực hiện nghĩa cụ
chứng minh của họ, tranh ỷ lại vào Tòa án.
Lần đầu tiên, các sự kiện, tình tiết không phải chứng minh được quy định
trong BLTTDS. Điều này giúp hướng các chủ thể chứng minh không mất quá
nhiều thời gian, công sức vào những tình tiết không cần thiết.
Bộ luật TTDS quy định rõ ràng trình tự, thủ tục chứng minh (cung cấp
chứng cứ, tranh luận, …) đã tạo điều kiện cho các chủ thể chứng minh thực hiện
được các quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình, góp phần giải quyết đúng
đắn vụ việc dân sự.
Thứ hai: Vai trò chứng minh của các chủ thể ngày càng quan trọng hơn
trong giai đoạn hiện nay. Và các chủ thể tiến hành cũng như tham gia tốt tụng
dân sự ngày càng có có những hiểu biết hơn về nghĩa vụ chứng minh của mình.
Điều này là do một số lý do như: Công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống tư
pháp dựa trên sự lãnh đạo của Đảng; Xu thế của sự hội nhập; Quyền con người,
quyền công dân trong giai đoạn hiện nay ngày càng được quan tâm.
b) Hạn chế
Hiện nay, nghĩa vụ chứng minh còn chưa được thực thi hiệu quả. Phần lớn,
những hạn chế đều xuất phát từ các quy định của BLTTDS:
Điều 6, Điều 85 BLTTDS hiện hành đã đề cao vai trò chứng minh của
đương sự nhưng lại hạn chế sự chủ động của Tòa án trong việc giải quyết vụ
việc dân sự; không đảm bảo cho Tòa án giải quyết nhanh và đúng đắn các vụ
việc dân sự.
Điều 64 quy định rằng người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự có quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp cho Tòa án nhưng lại
không quy định những biện pháp thu thập chứng cứ mà họ được áp dụng. Liệu
họ có được sử dụng các biện pháp của Tòa án không? Trong trường hợp người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phía bên kia cho rằng việc thu
thập chứng cứ đó không hợp pháp thì Tòa án căn cứ vào đâu để chấp nhận hay
bác bỏ.
Để đảm bảo cho các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh,
Điều 7 BLTTDS quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền cho đương sự và biện pháp xử lý với những
trường hợp vi phạm. Tuy nhiên, những quy định này chưa cụ thể nên việc thực
hiện quyền này của đương sự còn gặp rất nhiều khó khăn.
Trách nhiệm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ chứng
minh của các chủ thể chưa được BLTTDS quy định cụ thể. Điều 79 có quy định
rằng đương sự phải chịu hậu quả về việc không thực hiện đúng nghĩa vụ này
nhưng hậu quả đó là gì thì BLTTDS lại chưa quy định.
Theo quy định của bộ luật TTDS hiện hành thì các đương sự khó có thể
thực hiện được quyền “được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các
đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58).
3. Giải pháp
Để phát huy hiệu quả trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ
thể, pháp luật hiện hành cần có những sự thay đổi sau:
Thứ nhất: Đối với các quy định của BLTTDS còn chưa hợp lý:
Cần bổ sung các quy định về các tình tiết, sự kiện phải chứng minh, bao
gồm: các tình tiết,sự kiện mà quan hệ giữa các bên phụ thuộc vào nó và việc
giải quyết vụ việc dân sự. Trong đó, có cả các tình tiết mà các bên đương sự đưa
ra làm cơ sở cho yêu cầu của mình hay phản đối yêu cầu của đương sự khác.
Pháp luật cần có những quy định trong việc tạo điều kiện cho Tòa án chủ
động quyết định áp dụng một số biện pháp thu thập chứng cứ như: chủ động lấy
lời khai của đương sự, người làm chứng; quy định các biện pháp bảo vệ chứng
cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tuy hủy mà sau
này khó có thể thu thập được.
Cần quy định cụ thể các phương tiện chứng minh được sử dụng trong TTDS
bao gồm: lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; các tài liệu đọc
được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; kết luận giám định; biên bản ghi
kết quả thẩm định tại chỗ; kết quả định giá tài sản; tạp quán và các phương tiện
khác mà pháp luật có quy định.
BLTTDS nên có sự sửa đổi về quy định tại Điều 58 về ghi chép, sao chụp
tài liệu, chứng cứ theo hướng tạo điều kiện hơn cho các đương sự, ví dụ quy
định bắt buộc các bên đương sự khi cung cấp một chứng cứ mới cho tòa án để
giải quyết yêu cầu của mình thì đồng thời với đó phải thông báo bằng văn bản
hoặc có thể photo một bản cung cấp cho bên còn lại.
Cần có những quy định hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm của đương sự hay
các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh nếu có những hành vi vi phạm, có thể là
phạt cảnh cáo hay phạt tiền….
Cần có một hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Theo đó, khi không thể cung cấp được chứng cứ
thì phải thông báo cụ thể bằng văn bản đồng thời với đó là quy kết trực tiếp vấn
đề trách nhiệm. Đối với tổ chức thì quy trách nhiệm cụ thể về người đứng đầu
cơ quan, tổ chức đó để họ có thể thực hiện nghĩa vụ này mà không hề có sự cản
trở nào. Đối với cá nhân, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không kịp thời thì
có thể quy định vấn đề phạt tiền để răn đe tùy thuộc vào tính chất cũng như mức
độ vi phạm.
Thứ hai: Đối với tòa án
+) Cần thay đổi tư duy của Tòa án về nghĩa vụ chứng minh. Hiện nay các
tòa án vẫn thường có quan niệm rằng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về phía
đương sự, còn nghĩa vụ chứng minh thuộc về tòa án. Đây là quan niệm sai lầm.
Do đó, cần thiết phải để các đương sự tham gia vào đầy đủ các giai đoạn của
hoạt động chứng minh từ thu thập, cung cấp đến nghiên cứu đánh giá chứng cứ
mới có thể phát huy được vai trò quan trọng và trung tâm của họ. Một trong các
biện pháp có thể áp dụng để khắc phục được nhược điểm này là hình thành một
phiên tòa trù bịi.
+) Ngoài ra Tòa án cần mở rộng hơn nữa hoạt động tranh tụng tại tòa. Vai
trò chứng minh của các đương sự được thể hiện một cách cụ thể và trọng tâm
nhất trong phiên tòa. Khi đó, các bên sẽ đưa ra những chứng cứ, cơ sở pháp lý
mà mình có để bảo vệ những luận điểm của mình, tính dân chủ, minh bạch cũng
như tính chính xác trong phán quyết của tòa án cũng từ đây mà hình thành và
được tôn trọng. Do đó, việc mở rộng phạm vi, hiệu quả của tranh tụng trong tố
tụng dân sự là yêu cầu cấp thiết.
Thứ 3: đối với đương sự
Đương sự có vai trò quan trọng hàng đầu, họ phải tự bảo vệ lấy quyền và lợi
ích của mình khi có tranh chấp xảy ra phù hợp với nguyên tắc quyền tự định
đoạt của đương sự, điều này khác hẳn so với trong tố tụng hình sự khi mà bị can
bị cáo có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh. Mặc dù vậy, có thể khẳng
định ngay rằng khả năng tự bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự là rất thấp
nguyên nhân chính xuất phát từ trình độ dân chí chưa cao, sự hiểu biết pháp luật
còn rất hạn chế. Giải pháp được đưa ra đối với các trường hợp này có thể là
thành lập các tổ trợ giúp pháp lý thuộc cấp huyện, trong một số địa phương có
số lượng tranh chấp dân sự nhiều có thể tiến tới thành lập tại các xã, phường, thị
trấn, các doanh nghiệp… Ngoài ra, khi đương sự không có đủ khả năng về kiến
thức pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng trước tòa án thì họ có thể nhờ những
người đáp ứng được yêu cầu này tham gia tố tụng, thay mặt mình để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp. Đây chính là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Tuy nhiên, cho dù thuộc chủ thể chứng minh nào thì các chủ thể
cũng cần tự trau dồi cho mình một kiến thức pháp lý chắc chắn, một tinh thần
chủ động cung cấp chứng cứ. Có như vậy, những chứng cứ đưa ra mới xác
đáng, đúng trọng tâm; quá trình chứng minh vì thế cũng nhanh gọn giúp việc
giải quyết vụ việc dân sự đạt hiệu quả cao.
III.KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy rằng việc nhận thức một cách đầy đủ về nghĩa vụ chứng
minh trong tố tụng dân sự của Việt Nam giai đoạn hiện nay là vô cùng cần thiết.
Đó là cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về nghĩa vụ chứng
minh, góp phần tạo ra những cơ chế, biện pháp thiết thực, hữu hiệu để các chủ
thể có nghĩa vụ chứng minh có thể phát huy được hết khả năng tích cực của
mình, đảm bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được tiến hành khách
quan, công bằng và hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại Học Luật Hà Nội, nxb
Tư pháp, năm 2005;
2.Bộ luật tố tụng dân sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2004;
3.Nguyễn Công Bình. Các quy định về chứng minh trong TTDS. Tạp chí Luật
học. Đặc san/ 2005;
4. />5.Nghĩa vụ chứng minh trong TTDS, Trần Thị Kim Nhung, Khóa luận tốt
nghiệp, 1996;
i