Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.55 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM............................................................5
CHƯƠNG 2 CÁC CHỦ THỂ CÓ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH THEO PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH......................................22
CHƯƠNG 3 THỰC TIẾN THỰC HIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG
MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ...................................................................38

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật dù hoàn thiện đến đâu nếu không đảm bảo được tính khả thi trong
thực tế thì cũng không phát huy được hiệu quả. Để đảm bảo hiệu lực của pháp luật
ngoài yêu cầu về kỹ thuật xây dựng cũng như yêu cầu về nội dung trong việc ban
hành các văn bản pháp luật thì việc thực hiện và áp dụng pháp luật cũng đóng một
vai trò quan trọng. Trong đó phải kể đến việc nhanh chóng giải quyết các vụ án dân
sự một cách chính xác, đúng đường lối chính sách, đúng pháp luật là một yêu cầu
cấp thiết để bảo vệ quyền lợi của các đương sự, củng cố niềm tin của quần chúng
vào sự công minh của pháp luật, đồng thời giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật
cho người dân.
Trường Đại học Luật Hà Nội

1


Để giải quyết nhanh chóng, đúng đắn vụ án dân sự thì một trong những yếu
tố quan trọng cần phải quán triệt là Tòa án nhân dân phải thực hiện tốt việc xác
minh, đánh giá chứng cứ và những người tham gia tố tụng phải thực hiện tốt nghĩa
vụ chứng minh của mình.
Các quyền lợi ích hợp pháp của công dân khi bị vi phạm hay tranh chấp thì


họ có quyền khởi kiện (hoặc được tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung) để yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích đó cho họ. Nhưng “quyền của công dân không
tách rời với nghĩa vụ của công dân” (Hiến pháp năm 1992). Cho nên, khi yêu cầu
khởi kiện đặt ra thì gắn liền với nó là nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu đó là đúng đắn.
Trong thực tế hiện nay, do chưa nắm vững và chưa thực hiện tốt nghĩa vụ
chứng minh của các chủ thể tham gia tố tụng dân sự dẫn đến việc giải quyết vụ án
dân sự chưa nhanh chóng, chính xác, còn dây dưa kéo dài, nhiều khi gây ra những
bất đồng trong nội bộ nhân dân.
Xuất phát từ những lý do trên, em xin mạnh dạn chọn đề tài “Nghĩa vụ
chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” cho Khóa luận tốt nghiệp
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu các quy định
của Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nghĩa vụ chứng minh cũng như thực tiễn
thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể trong quá trình giải quyết các vụ
việc dân sự, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
về nghĩa vụ chứng minh hiện nay.
Để đạt được mục đích đó, Khóa luận đặt ra 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
Trường Đại học Luật Hà Nội

2


- Làm rõ một số vấn đề lý luận về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân
sự Việt Nam.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nghĩa
vụ chứng minh để làm rõ và có nhận thức đúng đắn về nghĩa vụ phải thực
hiện trong tố tụng của các chủ thể có nghĩa vụ, mà đặc biệt là các đương
sự.

- Nghiên cứu thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về nghĩa vụ
chứng minh trong tố tụng dân sự, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật dựa trên các cơ sở lý luận vững chắc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng được nghiên cứu: là các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh theo
quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: với phạm vi của một Khóa luận tốt nghiệp và với yêu
cầu của đề tài nghiên cứu là: nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam, vì vậy tác giả nghiên cứu chuyên sâu về các chủ thể có nghĩa vụ chứng
minh trong tố tụng dân sự trong phạm vi các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành. Nhằm làm nổi bật các chủ thể nào có nghĩa vụ chứng minh và
họ chứng minh bằng cách nào.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận về Nhà nước và pháp luật
của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp được sử dụng trong Khóa luận là phương pháp nghiên cứu
khoa học chuyên ngành được sử dụng như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh,
chứng minh, tổng hợp.
5. Tình hình nghiên cứu
Trường Đại học Luật Hà Nội

3


Nghĩa vụ chứng minh là một quy định rất cụ thể và rõ ràng, có phạm vi
không rộng, chỉ tập trung vào các chủ thể có nghĩa vụ. Cho đến nay đã có một số
công trình nghiên cứu liên quan đến nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự ở
những khía cạnh khác nhau như: “Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự”
(Trần Anh Tuấn, luận văn tốt nghiệp năm 1992); “ Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự” (Phan Hữu Thư, Tạp chỉ Dân chủ và

Pháp luật, số 9/1998); “ Xác định vị trí tố tụng của đương sự và đánh giá chứng cứ
trong vụ án dân sự” (LS. Nguyễn Thế Giai, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
9/2000)…
Ở những khía cạnh khác nhau, việc nghiên cứu lý luận về nghĩa vụ chứng
minh trong pháp luật tố tụng dân sự đã được một số tác giả đề cập đến, tuy nhiên
mới chỉ dừng lại ở những mảng vấn đề chung chung, chưa tiếp cận sâu vào chủ thể
có nghĩa vụ chứng minh và chủ yếu khai thác nghiên cứu theo quy định của Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần
nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và đảm bảo được tính logic về
nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành.

Trường Đại học Luật Hà Nội

4


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm chứng minh trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản Giáo dục thì: “Chứng minh là
dùng lý lẽ, suy luận, bằng cứ để chỉ rõ điều gì đó đúng hay không đúng”[1, tr.178].
Còn theo Từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản Đà Nẵng giải thích: “Chứng minh là
làm cho thấy rõ có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ”[2, tr.192]. Vậy nhìn
chung chứng minh được hiểu là việc làm rõ một điều gì đó là có thật, là đúng.
Trong tố tụng dân sự, khi một vụ án dân sự cụ thể phát sinh thì mục đích đặt
ra là phải giải quyết đúng đắn vụ án đó. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toàn án
nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và những người tham gia tố tụng phải thực hiện
Trường Đại học Luật Hà Nội


5


nhiều hoạt động tố tụng nhằm giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự đó. Một trong
những hoạt động quan trọng mang tính chất quyết định đến việc giải quyết đúng
đắn, khách quan vụ án là hoạt động chứng minh. Nếu như hiểu chứng minh trong
đời sống thường ngày như chứng minh trong một cuộc tranh luận để bảo vệ ý kiến
của một cá nhân hay một nhóm người, chứng minh khi phát biểu trong một diễn
đàn… thì trong tố tụng dân sự, chứng minh cũng là một dạng hoạt động không
giống hoàn toàn như một hoạt động trong đời thường, mà là hoạt động tố tụng, cụ
thể là hoạt động sử dụng chứng cứ với mục đích khôi phục lại trước Tòa án sự thật
khách quan của vụ việc dân sự đã xảy ra với những nét chính xác và tỷ mỉ nhất có
thể có, qua đó Tòa án có thể khẳng định có hay không có các sự kiện, tình tiết
khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của các bên đương sự
trong vụ việc dân sự.
Chứng minh là hoạt động chi phối kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Bản
chất của hoạt động chứng minh của các chủ thể tố tụng không chỉ thể hiện ở chỗ
xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự mà còn thể hiện ở chỗ phải làm
cho mọi người thấy rõ là có thật, là đúng với thực tế. Do đó, các phương thức mà
các chủ thể sử dụng để chứng minh rất đa dạng. Nhưng để thực hiện được mục
đích, nhiệm vụ của chứng minh, các chủ thể chứng minh bao giờ cũng phải chỉ ra
được tất cả các căn cứ pháp lý và thực tiễn liên quan đến vụ việc dân sự.
Chứng minh trong tố tụng dân sự có ý nghĩa xác định rõ các sự kiện, tình tiết
của vụ việc dân sự, đảm bảo việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Chứng minh
là biện pháp duy nhất để tìm ra sự thật khách quan của vụ việc. Thông qua hoạt
động chứng minh, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và các chủ thể khác thấy rõ các
tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được giải quyết. Đối với các đương sự, chứng
minh là vấn đề rất quan trọng để các đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
họ, trên cơ sở đó thuyết phục Tòa án bảo vệ các quyền và lợi ích đó. Trước Tòa án,

Trường Đại học Luật Hà Nội

6


nếu đương sự không chứng minh được thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ
không được Tòa án bảo vệ. Trên thực tế, Tòa án có thể sai lầm trong việc xác định,
đánh giá chứng cứ, Tòa án không làm sáng tỏ được các tình tiết của vụ việc dân sự
và điều đó dẫn đến việc giải quyết không đúng với sự thật, đương sự không được
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Chứng minh không chỉ có ý nghĩa đối với việc
giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự của Tòa án, mà còn có ý nghĩa bảo đảm cho
đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong quá trình tham gia
vụ án, các chủ thể bằng những hành vi tố tụng cụ thể để chứng minh cho sự thật
khách quan của vụ án. Sự thật khách quan đó là một chân lý cần được xác định.
Các chủ thể tham gia hoạt động chứng minh với địa vị tố tụng khác nhau nên thực
hiện các hành vi khác nhau trong phạm vi quyền và nghĩa vụ mà pháp luật tố tụng
cho phép. Quá trình chứng minh được chia ra làm các giai đoạn: cung cấp chứng
cứ, nghiên cứu chứng cứ và đánh giá chứng cứ. Các giai đoạn này có quan hệ mật
thiết với nhau, giai đoạn trước tạo tiền đề cho giai đoạn sau, tổng hợp thành một thể
thống nhất trong hoạt động chứng minh của các chủ thể.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa về chứng minh trong tố tụng dân
sự như sau: “Chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ
thể tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng
cứ để xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự”.
1.1.2. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
Để hiểu được đầy đủ và chính xác về nghĩa vụ chứng minh thì vấn đề trước
tiên là phải nhận thức sâu sắc về hai từ “ nghĩa vụ”. Theo từ điển tiếng Việt, “nghĩa
vụ là việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với
người khác”[1, tr.299]. Như vậy, dù muốn hay không muốn thì người có nghĩa vụ
vẫn phải thực hiện một việc làm nhất định thuộc phạm vi nghĩa vụ của mình. Hay

nói cách khác việc thực hiện nghĩa vụ nằm ngoài ý chí chủ quan của chủ thể. Trong
Trường Đại học Luật Hà Nội
7


cuộc sống hàng ngày, mỗi người với mỗi vị trí, vai trò khác nhau trong xã hội lại
đảm nhận một nghĩa vụ khác nhau trong những mối quan hệ khác nhau. Đối với
các quan hệ trong dân sự thì vấn đề nghĩa vụ lại càng được đặt ra nhiều hơn đối với
mỗi chủ thể tham gia. Nghĩa vụ là một tiểu phần quan trọng của Luật dân sự. Việc
định nghĩa về nghĩa vụ tưởng chừng đơn giản, nhưng thực tế lại có nhiều rắc rối
riêng trong pháp luật Việt Nam. Tuy nghĩa vụ có lẽ được hiểu không khác nhau về
mặt nội dung nhưng nó lại được định nghĩa đôi khi khác nhau không chỉ về ngôn từ
mà cả từ xuất phát điểm. Việc làm rõ định nghĩa về nghĩa vụ có ích cho việc hiểu
rõ hơn các nguồn gốc của nghĩa vụ (hay căn cứ phát sinh nghĩa vụ). Trong Bộ luật
dân sự 2005 định nghĩa: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ
thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao
quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực
hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi
chung là bên có quyền)” (Điều 280). Định nghĩa này đã nhắc tới các bên trong
quan hệ nghĩa vụ và liệt kê các “đối tượng” của nghĩa vụ. Từ định nghĩa về nghĩa
vụ dân sự như trên ta thấy xuất phát từ bản chất của nghĩa vụ dân sự là quyền yêu
cầu, cho thấy nghĩa vụ dân sự có các đặc điểm quan trọng sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý. Đặc điểm này nói lên sự cưỡng
chế thi hành của pháp luật đối với nghĩa vụ và phân biệt nó với nghĩa vụ tự nhiên.
Nó bao gồm hai thành tố là: được pháp luật công nhận và có giá trị cưỡng bức thi
hành.
Thứ hai, nghĩa vụ là một quan hệ đối nhân (quyền đối nhân). Có nghĩa là
quyền của trái chủ chỉ được thi hành đối với người thụ trái chứ không được thi
hành trên bất kỳ tài sản nào, có nghĩa là trái chủ chỉ có thể yêu cầu người thụ trái
thực hiện nghĩa vụ.


Trường Đại học Luật Hà Nội

8


Như vậy, nghĩa vụ trong dân sự trước hết được hiểu là một nghĩa vụ pháp lý,
nó được đặt ra đối với một bên chủ thể nhất định nhằm thực hiện những công việc
nhất định đối với bên chủ thể có quyền. Trong dân sự, nghĩa vụ được nhắc đến đối
với bên có nghĩa vụ trong các giao dịch dân sự. Về bản chất, thì nghĩa vụ trong dân
sự không khác gì so với nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, nó đều là nghĩa vụ phải thực
hiện một công việc nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu của bên có quyền. Bởi vậy,
nghĩa vụ chứng minh trong hoạt động tố tụng dân sự cũng không nằm ngoài cách
hiểu đó. Có khác chăng chỉ là nghĩa vụ trong dân sự là nghĩa vụ của bên có nghĩa
vụ với bên có quyền trong một giao dịch dân sự mà họ thỏa thuận với nhau; còn
nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là nghĩa vụ của một cá nhân, hay cơ
quan tổ chức phải làm một công việc nhất định (công việc chứng minh) trước cơ
quan tố tụng nhằm chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ pháp luật, có
xảy ra trên thực tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nói cách
khác, nếu như quyền chứng minh là khả năng của các chủ thể chứng minh bằng
hành vi tố tụng của mình tham gia vào hoạt động chứng minh và việc thực hiện
quyền chứng minh do các chủ thể chứng minh quyết định, thì nghĩa vụ chứng minh
bao gồm những hành vi tố tụng nhất định trong hoạt động chứng minh mà các chủ
thể chứng minh bắt buộc phải tiến hành hoặc không được tiến hành theo quy định
của pháp luật. Trong trường hợp nghĩa vụ chứng minh bị vi phạm, chủ thể vi phạm
phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi.
1.2. Đặc điểm của nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
1.2.1. Đặc điểm về chủ thể
Vụ án dân sự giải quyết các quan hệ pháp luật nội dung có vi phạm hay tranh
chấp trong nội bộ nhân dân. Do đó, trong vụ án dân sự, các đương sự có quyền tự

định đoạt (Điều 5 BLTTDS). Gắn liền với quyền tự định đoạt đó là nghĩa vụ chứng
minh của đương sự. Quyền tự định đoạt và nghĩa vụ chứng minh của đương sự là
Trường Đại học Luật Hà Nội

9


điểm cơ bản để phân biệt họ với bị can, bị cáo trong vụ án hình sự. Trong vụ án dân
sự, trước hết đương sự phải đưa ra những bằng chứng chứng minh những quyền lợi
của mình.Trong trường hợp cơ quan, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, họ
có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh yêu cầu khởi kiện của họ là đúng đắn
và có căn cứ; người đại diện cho đương sự nếu có yêu cầu cũng có nghĩa vụ chứng
minh cho yêu cầu đó; người bảo vệ quyền lợi cho đương sự tuy không tự đề ra yêu
cầu những có nghĩa vụ phải chứng minh cho yêu cầu của đương sự. Đó là nghĩa vụ
chứng minh của các đương sự và nếu họ không chứng minh được thì sẽ không bảo
vệ được quyền lợi của mình.
Từ những điều phân tích ở trên cho thấy nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng
dân sự thuộc về chủ thể có yêu cầu trong vụ án dân sự, chủ thể nào có yêu cầu thì
phải có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và đúng với thực
tế khách quan. Nếu không thực hiện được nghĩa vụ đó, tức là chủ thể đã tự mình
tước đi cơ hội được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích cho mình và phải tự mình
gánh chịu rủi ro. Điều này khác hoàn toàn với chủ thể có nghĩa vụ chứng minh
trong hoạt động tố tụng hình sự. Đối với tố tụng hình sự, nghĩa vụ chứng minh
thuộc về cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết vụ án hình sự đó. Vụ án hình
sự giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và kẻ tội phạm. Khi một người thực hiện
một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự quy định thì sẽ phát sinh một
quan hệ pháp luật giữa họ với Nhà nước. Về mặt pháp lý, các quan hệ xã hội phát
sinh do việc thực hiện một tội phạm được coi là những quan hệ pháp luật hình sự.
Trong quan hệ pháp luật hình sự, có hai chủ thể với những vị trí pháp lý khác nhau:
Thứ nhất, Nhà nước là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự với tư cách là

người bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của toàn xã hội . Nhà nước có quyền truy tố,
xét xử kẻ phạm tội, buộc kẻ phạm tội phải chịu những hình phạt nhất định tương
xứng với tính chất mức độ của tội phạm mà họ đã gây ra. Mặt khác, với tư cách là
Trường Đại học Luật Hà Nội

10


người duy trì công lý, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các quyền lợi hợp pháp
của kẻ phạm tội. Trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm quyền chủ thể
của Nhà nước trong quan hệ pháp luật hình sự do các cơ quan đại diện của nó thực
hiện. Đó là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Thứ hai, người phạm tội - người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
Luật hình sự coi là tội phạm có trách nhiệm chấp hành các biện pháp cưỡng chế mà
Nhà nước áp dụng đối với mình và mặt khác họ cũng có quyền yêu cầu Nhà nước
đảm bảo các quyền lợi hợp pháp của mình.
Như vậy, khi một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi
tội phạm thì trách nhiệm của họ là trách nhiệm trước Nhà nước chứ không phải là
trách nhiệm trước bên kia. Do đó, bị can, bị cáo trong vụ án hình sự không có
quyền tự định đoạt mà việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thuộc về cơ quan tiến
hành tố tụng. Nhà nước muốn khẳng định một hành vi nào đó là tội phạm và chủ
thể thực hiện hành vi đó là có tội thì Nhà nước phải chứng minh, trách nhiệm
chứng minh tội phạm của bị can, bị cáo thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng: cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Bị can, bị cáo có quyền chứng minh mình vô
tội.
Từ những phân tích ở trên, có thể khẳng định chủ thể có nghĩa vụ chứng
minh trong tố tụng dân sự không thuộc về cơ quan Nhà nước, mà thuộc về các chủ
thể tham gia tố tụng (gồm có đương sự, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự; cơ
quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác).
Còn trong tố tụng hình sự, nghĩa vụ chứng minh không thuộc về bị can, bị cáo mà

thuộc về phía cơ quan tiến hành tố tụng. Giải thích cho đặc điểm này, cũng như giải
thích cho sự khác biệt trên ta có thể đi từ bản chất của hành vi trong tố tụng:

Trường Đại học Luật Hà Nội

11


Trong tố tụng dân sự, các tranh chấp, yêu cầu chủ yếu phát sinh từ các quan
hệ dân sự giữa các chủ thể có địa vị pháp lý bình đẳng với nhau. Chính tính chất
bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự và quyền tự
định đoạt của các chủ thể này đã tạo nên sự khác biệt cơ bản của nghĩa vụ chứng
minh trong tố tụng dân sự và tố tụng hình sự. Trong tố tụng dân sự, đương sự có
quyền tự định đoạt, tức là đương sự sẽ tự quyết định về quyền, lợi ích của mình và
lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích đó. Quan hệ dân sự là
quan hệ riêng tư của các bên, do các bên tự quyết định, tự giải quyết là chủ yếu và
chỉ khi các bên không tự giải quyết được thì họ cũng tự quyết định có yêu cầu Nhà
nước hỗ trợ hay không. Hơn nữa, các bên đương sự là chủ thể của quan hệ pháp
luật tranh chấp hoặc là người đưa ra yêu cầu, họ là người hiểu rõ vụ việc của mình
nhất, biết rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tranh chấp. Họ thường biết rõ các tài
liệu, chứng cứ liên quan đến vụ việc của mình có những gì và đang ở đâu. Bên
cạnh đó, khi khởi kiện cũng như khi đưa ra yêu cầu phản tố, bao giờ đương sự cũng
là người đứng ở thế chủ động, tự nguyện đưa ra những lý lẽ để chứng minh, bênh
vực cho quyền lợi của mình. Do đó, khi các bên đã đưa việc tranh chấp của họ ra
tòa, thì Tòa án chỉ là người trọng tài giúp các bên giải quyết tranh chấp một cách
khách quan và đúng pháp luật chứ Tòa án không thể làm thay, chứng minh thay
cho đương sự với những yêu cầu của họ. Còn đối với hoạt động tố tụng hình sự thì
trước hết do tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến các khách thể
quan trọng được Luật hình sự bảo vệ bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế

và sở hữu xã hội chủ nghĩa, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do tài
sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội Chủ nghĩa (tính nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm); thứ hai, việc chứng minh tội phạm là rất khó khăn, phức tạp, bởi lẽ kẻ phạm
tội bao giờ cũng tìm cách xóa bỏ dấu vết, che dấu, tiêu ủy công cụ, phương tiện, lẩn
Trường Đại học Luật Hà Nội

12


tránh sự phát hiện của các cơ quan pháp luật. Mặt khác, bản án mà Tòa án tuyên có
ý nghĩa quyết định số phận chính trị, pháp lý của một con người, người bị kết án có
thể bị tước đi những quyền và lợi ích thiết thân như quyền tự do, quyền chính trị,
quyền sở hữu, thậm chí cả quyền sống của họ. Đồng thời một hành vi xảy ra trên
thực tế chưa thể khẳng định được có phải là hành vi phạm tội hay không, mà việc
khẳng định phải là một quá trình dựa trên những căn cứ vững chắc.
Xuất phát từ những lý do trên, để đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều bị xử lý
đúng pháp luật, không kết tội oan, thì việc chứng minh tội phạm phải là một quá
trình do những cơ quan chuyên trách đảm nhiệm với những nhiệm vụ - quyền hạn
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Tóm lại, trong vụ án dân sự nghĩa vụ chứng minh thuộc về những người
tham gia vụ án dân sự. Trong quá trình chứng minh trước hết những người tham gia
vụ án dân sự phải tự mình cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu hay phản
yêu cầu mà họ đưa ra. Tòa án nhân dân chỉ đứng ra với tư cách là cơ quan trung
gian, hòa giải. Tòa án không phải chứng minh thay cho yêu cầu của đương sự mà
trách nhiệm của Tòa án là xem xét chứng cứ mà những người tham gia vụ án dân
sự đã cung cấp và nếu cần thì tự mình thu thập thêm chứng cứ để làm sáng tỏ sự
thật khách quan của vụ án. Còn trong vụ án hình sự, nghĩa vụ chứng minh tội phạm
hoàn toàn thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng , bị can, bị cáo không có nghĩa vụ
chứng minh rằng mình vô tội.

1.2.2. Đặc điểm về đối tượng chứng minh
Đối tượng chứng minh là tổng hợp những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ
việc dân sự, và là cơ sở giải quyết vụ việc dân sự. Các quan hệ cần giải quyết trong
vụ việc dân sự rất đa dạng nên các tình tiết, sự kiện cần phải xác định trong các vụ
việc dân sự cụ thể rất phong phú. Do vậy, trong quá trình giải quyết, Tòa án phải
Trường Đại học Luật Hà Nội

13


xác định những tình tiết, sự kiện nào cần phải chứng minh. Để xác định được đối
tượng chứng minh của mỗi vụ việc dân sự, Tòa án phải dựa trên yêu cầu hay phản
đối yêu cầu của đương sự. Đương sự dựa vào tình tiết, sự kiện nào để có yêu cầu,
hay phản đối yêu cầu. Nói tóm lại, đối tượng chứng minh bao gồm những tình tiết,
sự kiện khẳng định của bên có yêu cầu và tình tiết, sự kiện có tính phủ định của bên
phản lại yêu cầu liên quan đến vụ việc dân sự cần xác định trong việc giải quyết vụ
việc dân sự.
Ngoài đối tượng chứng minh bao gồm các sự kiện phải chứng minh như đã
phân tích ở trên, BLTTDS quy định tại Điều 80 về những tình tiết sự kiện có tính rõ
ràng thì không phải chứng minh như: tình tiết, sự kiện mọi người đều biết; những
tình tiết sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền; những tình tiết, sự kiện được ghi trong văn bản được
công chứng, chứng thực hợp pháp. Đối với những tình tiết, sự kiện mọi người đều
biết thì không phải chứng minh. Tuy nhiên, tất cả các tình tiết, sự kiện không phải
chứng minh phải được Tòa án thừa nhận.
Để giải quyết được các vụ việc dân sự theo quy định taị Khoản 1, 2 Điều 79
BLTTDS, đương sự phải đưa ra các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là hợp
pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác phải chứng minh sự phản đối đó
là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ
lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của người khác phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện,
yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
1.3.

Ý nghĩa của việc quy định nghĩa vụ chứng minh trong pháp luật tố tụng

dân sự Việt Nam

Trường Đại học Luật Hà Nội

14


Thứ nhất, việc quy định nghĩa vụ chứng minh chỉ đích danh các chủ thể có
nghĩa vụ (đó là các đương sự gồm: nguyên đơn khởi kiện, bị đơn phản tố, người có
quyền và lợi ích liên quan; các cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác…), có ý nghĩa quyết định đến việc quyền lợi của
các chủ thể, quyền và lợi ích của họ có được đảm bảo hay không là phụ thuộc vào
chính sự nỗ lực thực hiện nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể đó. Khi các tranh
chấp dân sự xảy ra thì tính lợi ích trong đó được thể hiện rất rõ ràng, các đương sự
tham gia là nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích của mình. Chính yếu tố lợi ích này sẽ
là động lực hình thành và phát triển tính chủ động, nhanh chóng của đương sự
trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Do vậy, việc quy định nghĩa
vụ chứng minh thuộc về các chủ thể trên đã khai thác triệt để khả năng của các chủ
thể đó trong hoạt động chứng minh. Vì hơn ai hết, chính các đương sự là người
hiểu rõ nhất các vấn đề xảy ra xung quanh vụ án, các đương sự là người đã chứng
kiến, hoặc nắm giữ các chứng cứ quan trong góp phần làm sáng tỏ vụ việc. Mặt
khác, việc xác định nghĩa vụ chứng minh, tự mình cung cấp chứng cứ thuộc về các
đương sự nhằm mục đích để các đương sự cân nhắc, tính toán kỹ khi đưa ra các yêu
cầu và ràng buộc trách nhiệm của các bên khi đưa ra yêu cầu của mình, vì nếu đưa

ra yêu cầu mà không đưa ra được các chứng cứ để chứng minh thì các chủ thể đó sẽ
không bảo vệ được quyền lợi của mình, đồng thời cũng không thể ràng buộc Tòa
án trong việc giải quyết yêu cầu.
Thứ hai, chính từ việc khai thác triệt để khả năng của các chủ thể trong việc
cung cấp chứng cứ, mà quy định về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự còn
có ý nghĩa quyết định sự thành công trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Bởi nghĩa
vụ chứng minh của đương sự trước tiên bao gồm các nghĩa vụ cung cấp chứng cứ,
đây là hoạt động khởi nguồn quyết định tới các hoạt động khác. Theo đó, khi
đương sự đưa ra yêu cầu mà không có bất kỳ bằng chứng, lý lẽ nào chứng minh
Trường Đại học Luật Hà Nội

15


cho quyền lợi hợp pháp của mình thì Tòa án sẽ từ chối thụ lý vụ kiện và vì vậy
không làm phát sinh bất cứ một hoạt động tố tụng nào tiếp theo. Đây cũng chính là
đặc điểm đặc trưng nhất của tố tụng dân sự. Có thể khẳng định, sự thành công trong
việc giải quyết vụ việc dân sự trước hết phụ thuộc vào các chứng cứ, tài liệu mà các
đương sự cung cấp. Chứng cứ càng đầy đủ, chính xác thì vụ kiện càng được giải
quyết nhanh chóng, công bằng và hợp lý.
Thứ ba, việc quy định nghĩa vụ cụ thể có ý nghĩa tránh được sự đùn dẩy
trách nhiệm giữa cơ quan tiến hành tố tụng (cụ thể là những người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng) và người tham gia tố tụng.
Nếu như theo quy định tại các Pháp lệnh trước kia, như PLTTGQCVADS,
PLTTGQCVAKT, và PLTTGQCTCLD thì mỗi đương sự, tổ chức xã hội khởi kiện
vì lợi ích chung có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi
kiện của mình, phía đương sự đối lập cũng có thể đưa ra chứng cứ để yêu cầu lại
đối với đương sự bên kia và việc phản đối của mình đối với yêu cầu của đương sự
đối lập. Tùy theo trình độ, năng lực của mỗi đương sự mà họ có thể tự mình hoặc
nhờ luật sư hay thông qua người đại diện thu thập chứng cứ để chứng minh trước

Tòa án. Bên cạnh đó, Tòa án có quyền chủ động hoàn toàn trong việc thu thập
chứng cứ khi cần thiết. Có thể nhận thấy, theo các quy định về nghĩa vụ chứng
minh của các đương sự tại các Pháp lệnh trên thì nghĩa vụ chứng minh của đương
sự rất mờ nhạt. Ngược lại, sự hỗ trợ của Tòa án đối với nghĩa vụ chứng minh của
đương sự gần như tuyệt đối. Khi Tòa án xét thấy cần thiết thì Tòa án có quyền và
trách nhiệm thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc được
chính xác. Quy định này được ban hành trong điều kiện đất nước ta vừa thoát khỏi
nền kinh tế bao cấp, sự hiểu biết pháp luật của người dân còn thấp, sự ảnh hưởng
của truyền thống tố tụng xét hỏi còn rất lớn, chính những quy định này đã dẫn đến
hệ quả là Tòa án vừa “ điều tra”, vừa “xét xử”. Điều này dẫn đến tình trạng Tòa án
Trường Đại học Luật Hà Nội

16


làm thay đương sự và gây ra sự nghi ngại trong xã hội về tình trạng Tòa án vừa
“đá bóng” vừa “ thổi còi”[15, tr.10].
Hiện nay, pháp luật tố tụng dân sự đã có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn
về chủ thể có nghĩa vụ chứng minh, một mặt tạo ra tính tự chịu trách nhiệm từ phía
đương sự, mặt khác giảm công việc của Tòa án trong điều kiện các tranh chấp dân
sự, kinh doanh, thương mại, lao động gia tăng về số lượng và ngày càng phức tạp.
Như vậy, từ những quy định cụ thể về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng
dân sự như: chỉ ra các chủ thể nào có nghĩa vụ chứng minh, cách thức họ thực hiện
nghĩa vụ chứng minh…, đã mang lại những ý nghĩa vô cùng to lớn cho hoạt động
giải quyết nhanh chóng các vụ việc dân sự, giảm gánh nặng cho Tòa án, đồng thời
tạo điều kiện cho các bên đương sự thực hiện đúng nghĩa vụ mà họ phải làm để bảo
vệ cho quyền lợi của chính họ. Những quy định cụ thể ấy góp phần tránh được
những xung đột về nghĩa vụ giữa các chủ thể, hay nói cách khác là định hướng cho
các bên chủ thể cần phải chủ động làm những gì để bảo vệ cho chính họ.
1.4.


Sơ lược quá trình phát triển các quy định về nghĩa vụ chứng minh trong

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
Pháp luật là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng được hình thành trên
cơ sở hạ tầng xã hội tương ứng. Pháp luật luôn là công cụ hữu hiệu nhất để giai cấp
thống trị thực hiện quyền làm chủ của mình, định hướng và duy trì sự ổn định xã
hội. Vì vậy, qua từng thời kỳ lịch sử khác nhau với sự hình thành, tồn tại và suy
vong của nhiều chế độ chính trị, bản chất của Nhà nước là khác nhau nên các quy
định liên quan đến nghĩa vụ của người dân nói chung và nghĩa vụ chứng minh của
đương sự trong hoạt động tố tụng dân sự nói riêng cũng không giống nhau.
1.4.1. Giai đoạn trước năm 1945.
Trường Đại học Luật Hà Nội

17


Năm 1884, thực dân Pháp chính thức xâm lược nước ta, chấm dứt thời kỳ xã
hội Việt Nam “thuần” phong kiến chuyển sang chế độ thực dân nửa phong kiến.
Chế độ phong kiến qua đi nhưng vẫn để lại những dấu vết đậm nét về hoạt động lập
pháp với nhiều bộ luật khác nhau nhưng có quy mô và hoàn thiện nhất vào lúc bấy
giờ phải kể đến ba bộ luật lớn là Quốc Triều Hình Luật (nhà Lê thế kỷ XV), Quốc
Triều Khám Tụng Điều Lệ (thế kỷ XV – XVIII), Hoàng Việt Luật Lệ (luật Gia
Long). Do mang ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến nên các bộ luật này
mang tính chất hà khắc, vai trò của con người, của công dân, của đương sự không
được đề cao, thủ tục xét hỏi, thẩm vấn được quy định phổ biến, các chế tài áp dụng
mang tính chất hình sự. Vấn đề về nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể chứng
minh trong vụ kiện dân sự được quy định một cách tản mạn và không rõ rang, nó
chỉ được nhắc đến một cách rõ ràng trong việc chứng minh yêu cầu của mình bằng
cách cung cấp chứng cứ trong những vụ việc cụ thể, nếu khi yêu cầu giải quyết mà

đương sự không đưa ra được bằng chứng thì quan xét xử sẽ bác bỏ đơn kiện.
Bằng hai bản Thỏa ước ngày 5/6/1882 cắt đứt miền Nam bao gồm 6 tỉnh để
sáp nhập vào lãnh thổ pháp gọi là Nam Kỳ, Thỏa ước ngày 6/6/1884 biến miền Bắc
và miền Trung thành lãnh thổ bảo hộ của Pháp và đạo dụ năm 1898 của Hoàng đế
Đồng Khánh nhượng 3 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng thành đất
nhượng địa cho Pháp, Việt Nam chính thức bị thực dân Pháp đô hộ. Khi đến nước
ta chúng thiết lập một chế độ đô hộ hà khắc nhằm bóc lộ và vơ vét của cải đặc biệt
thông qua hai cuộc khai thác thuộc địa trên quy mô lớn. Nhằm phục vụ cho mưu đồ
của mình chúng thay đổi nước ta thành một nước thực dân nửa phong kiến. Việc
đầu tiên là ban hành các bộ luật nhằm ổn định tình hình trong nước, thiết lập sự đô
hộ. Liên quan đến hoạt động tố tụng dân sự, trong giai đoạn này chúng ban hành
một số bộ luật khác nhau như Bộ dân sự tố tụng Nam Kỳ năm 1910, Bộ dân sự tố
tụng Bắc kỳ năm 1917, Bắc kỳ pháp viện biên chế năm 1921, Bộ luật dân sự,
thương sự tố tụng bắc kỳ năm 1921, và Bộ Hộ sự và thương sự Trung Kỳ năm
Trường Đại học Luật Hà Nội

18


1942…. Các bộ luật này mang tư tưởng phong kiến và dựa trên khuôn mẫu của Bộ
luật dân sự Pháp 1807. Trong giai đoạn này, quyền con người, quyền công dân
không được để ý đến các quy định tố tụng chủ yếu là tạo điều kiện cho hoạt động
bóc lột của thực dân nên nghĩa vụ chứng minh của đương sự không được quan tâm
nhằm duy trì sự bất bình đẳng.
1.4.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Năm 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – nhà nước dân chủ đầu tiên
ở khu vực Đông Nam á được thành lập. Đánh dấu sự thay đổi toàn diện về mọi mặt
trong đời sống xã hội, trong lĩnh vực tư pháp, tố tụng.
Ngày 10/10/1945 Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL cho tạm thời
giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ mà không trái với bản chất của Nhà nước

cách mạng. Tuy nhiên, Sắc lệnh trên chỉ đề cập đến việc cho áp dụng các quy phạm
pháp luật nội dung của chế độ cũ mà không không đề cập đến việc có cho tiếp tục
áp dụng các quy định về hoạt động tố tụng hay không. Tiếp theo đó, Nhà nước ban
hành nhiều quy định khác nhau liên quan đến hoạt động tố tụng dân sự ở nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa
án và các ngạch Thẩm phán, Sắc lệnh 15/SL ngày 17/4/1946 quy định về thẩm
quyền của Tòa án các cấp, Sắc lệnh 112/SL ngày 28/6/1946 bổ xung Sắc lệnh số
15, Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Sắc
lệnh 159/SL ngày 7/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn … các quy định về nghĩa vụ
chứng minh của đương sự được quy định khá nhiều thể hiện sự quan tâm của Nhà
nước và vai trò của nhân dân ngày càng được chú trọng.
Tại Thông tư số 06 – TATC ngày 25/2/1974 hướng dẫn điều tra trong tố tụng
dân sự quy định “Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, và người dự sự) có quyền đề
xuất những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mình …trong điều
kiện hiện nay, trình độ hiểu biết pháp luật và trình độ văn hóa của đại đa số các
đương sự còn thấp, các đơn kiện và lời trình bày của họ không rõ ràng và đầy đủ,
Trường Đại học Luật Hà Nội

19


cho nên các tòa án phải tích cực giúp đỡ cho các đương sự hiểu rõ những quyền
lợi hợp pháp của họ để họ có thể đề xuất được những yêu cầu và giúp cho họ biết
đề xuất những chứng cứ để chứng minh”. Quy định này đã đưa đương sự về vị trí
trung tâm của hoạt động tố tụng, Tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn yêu cầu,
giúp đỡ đương sự hiểu biết pháp luật và có thể đưa ra được những yêu cầu chính
đáng cũng như hỗ trợ họ thu thập chứng cứ để chứng minh.
Trong bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thông
tư số 96 – NC/PL ngày 8/2/1977 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Để bảo
vệ quyền lợi của mình các đương sự có nhiệm vụ đề xuất chứng cứ nhưng tòa án

nhân dân không được phép chỉ dựa vào lời khai của đương sự và những giấy tờ mà
họ xuất trình làm căn cứ cho việc xét xử mà phải dùng mọi biện pháp cần thiết để
làm sáng tỏ sự thật”. Mặc dù đương sự có quyền đề xuất những chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu của mình nhưng Tòa án với vị trí của cơ quan xét xử không được
thiên vị bất cứ bên nào mà phải xem xét một cách toàn diện cũng như tìm mọi biện
pháp để có thể làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án bảo vệ quyền lợi của các
bên.
1.4.3. Giai đoạn từ 1990 đến 2004
Năm 1989 được đánh dấu bằng sự ra đời của PLTTGQCVADS, tiếp theo đó
là PLTTGQCVAKT năm 1994 và PLTTGQCTCLĐ năm 1996. Đây là ba Pháp
lệnh tiền thân của BLTTDS hiện nay, nó đã bước đầu khắc phục được tính chất tản
mạn của các quy phạm pháp luật, chu trình tự giải quyết vụ việc về những văn bản
thống nhất và có giá trị cao. Tuy nhiên, ba Pháp lệnh này lại mang tính chất chung
chung định hướng, các quy định còn chưa thực sự rõ ràng, vẫn chưa thể thống nhất
các vụ việc đân sự về một trình tự thủ tục chung gây khó khăn cho đương sự và tòa
án. Về nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong các vụ việc dân sự được quy định
trong ba Pháp lệnh này còn chưa nhiều và thiếu đi cơ chế bảo đảm do vẫn tồn tại
Trường Đại học Luật Hà Nội

20


thủ tục điều tra giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án, hay nói cách khác, trong giai
đoạn này, vai trò chứng minh vẫn chủ yếu thuộc về Tòa án.
Nghĩa vụ chứng minh của đương sự đã được quy định thành một nguyên tắc
cụ thể“Đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền
lợi của mình” (Điều 3 PLTTGQCVAKT) nguyên tắc này đã tạo cơ sở quan trọng
để đương sự chủ động thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình. Các quyền và
nghĩa vụ liên quan đến hoạt động chứng minh của đương sự đã được cụ thể hóa tại
Điều 20, theo đó đương sự có quyền thu thập chứng cứ, có quyền cung cấp những

chứng cứ đó cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, có quyền
được biết về các tài liệu, chứng của của đương sự khác cũng như được sao chép các
tài liệu đó. Đồng thời là quyền thì đây cũng là nghĩa vụ của đương sự.
Nói tóm lại, vấn đề chứng minh trong giai đoạn từ 1989 đến trước khi
BLTTDS 2004 có hiệu lực còn có nhiều hạn chế do sự nhận thức chưa đúng đắn
trên cơ sở của một nền kinh tế, xã hội kém phát triển, các giao lưu dân sự còn đơn
giản, tranh chấp diễn ra không nhiều với độ phức tạp không cao. Với những hạn
chế chung về chứng minh, ba Pháp lệnh không đề cao vai trò chứng minh của
đương sự cũng như không tạo điều kiện để đương sự có thể thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ chứng minh của mình.
Chỉ từ khi BLTTDS 2004 ra đời thì nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân
sự mới thực sự đưa quy định một cách rõ ràng nhất, đảm bảo được quá trình xét xử
các vụ án dân sự được diễn ra nhanh chóng, bảo vệ được quyền và lợi ích chính
đáng của các bên.

Trường Đại học Luật Hà Nội

21


CHƯƠNG 2
CÁC CHỦ THỂ CÓ NGHĨA VỤ CHỨNG MINH THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Trong quá trình chứng minh, các chủ thể tham gia vào hoạt động chứng minh
với những vị trí tố tụng khác nhau. Hành vi tố tụng của mỗi chủ thể được quy định
bởi vị trí tố tụng của họ, vì vậy chủ thể chứng minh thực hiện những hành vi tố
tụng của mình trong phạm vi quyền và nghĩa vụ mà pháp luật tố tụng dân sự cho
phép. Các chủ thể chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm: các đương sự
(nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan), người đại diện của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; các cơ quan, tổ

chức khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích của người khác, người làm chứng,
người giám định…và Tòa án. Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia tố tụng
theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát cũng trở thành chủ thể
chứng minh. Tuy nhiên, không phải chủ thể chứng minh nào cũng đều có nghĩa vụ
chứng minh, mà chỉ có những chủ thể nhất định tùy thuộc vào vai trò, địa vị tố tụng
của họ nên có nghĩa vụ chứng minh. Theo các quy định của BLTTDS năm 2004,
sửa đổi bổ sung năm 2011, thì các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh đó là:
Các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
của mình. Khi nguyên đơn khởi kiện, có yêu cầu đối với bị đơn, bị đơn phản yêu
cầu hoặc có yêu cầu liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn; người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đều phải viện dẫn chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho yêu cầu
của mình là có cơ sở. Ngoài ra còn có những chủ thể có nghĩa vụ chứng minh được
Trường Đại học Luật Hà Nội

22


hình thành trên cơ sở nghĩa vụ chứng minh của đương sự như người đại diện, người
bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự. Tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích của
người khác, họ cũng phải có nghĩa vụ chứng minh cho các yêu cầu mà họ đề ra.
Các chủ thể khác như: Toà án nhân dân chỉ có trách nhiệm chứng minh trên
cơ sở các chứng cứ do đương sự, Viện kiểm sát, tổ chức xã hội cung cấp, do tự
mình thu thập có nhiệm vụ làm sáng tỏ mọi tình tiết trong vụ án để bản án do Tòa
án tuyên có căn cứ và hợp pháp.
Người làm chứng, người giám định là chủ thể chứng minh nhưng không có
nghĩa vụ chứng minh, bởi nghĩa vụ chứng minh gắn liền với việc đề ra yêu cầu
hoặc phản đối yêu cầu. Người làm chứng chỉ có nghĩa vụ khai trung thực tất cả
những gì mà mình biết được về vụ án, họ không cần biết những tình tiết ấy có ý
nghĩa gì đối với việc giải quyết vụ án. Và người giám định trên cơ sở kiến thức
chuyên môn cần thiết của mình về vấn đề cần giám định có nghĩa vụ đưa ra kết

luận trung thực về vấn đề đó. Kết luận giám định hoàn toàn dựa trên cơ sở khoa
học. Người giám định không cần biết kết luận của mình có ý nghĩa pháp lý gì đối
với việc giải quyết quan hệ pháp luật nội dung của Tòa án. Vì vây, người làm
chứng và người giám định không có nghĩa vụ chứng minh.
2.1.

Nghĩa vụ chứng minh của các đương sự là nguyên đơn yêu cầu và bị đơn

phản tố
Hoạt động xét xử các vụ án dân sự là hoạt động phát sinh trên cơ sở có sự
tranh chấp trong quan hệ pháp luật nội dung giữa các bên có lợi ích tư đối lập nhau
nhưng bình đẳng về địa vị pháp lý mà trong đó có một quy tắc chung cho cả hai
bên đương sự :“ Người nào đề ra một luận điểm cần có chứng cứ thì phải chứng
minh”[14, tr.20]. Theo quy tắc này, mỗi bên đương sự có nghĩa vụ phải chứng
minh những sự kiện, tình tiết mà mình đã viện dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và
Trường Đại học Luật Hà Nội

23


phản đối của mình, hay nói cách khác ai khẳng định một sự việc gì thì phải chứng
minh sự việc ấy. Quy định này xuất phát từ cơ sở khi yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền
lợi cho mình với tư cách là người trực tiếp tham gia vào các quan hệ pháp luật nội
dung có vi phạm hay tranh chấp, đương sự là người hiểu rõ nhất vì sao họ có yêu
cầu đó, họ biết được những tình tiết, sự kiện trong vụ việc, do đó có khả năng cung
cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Về mặt tâm lý, khi đưa ra yêu
cầu của mình bao giờ đương sự cũng là người đứng ở thế chủ động, tự nguyện đưa
ra những lý lẽ để chứng minh, bênh vực cho quyền lợi của mình. Sự thật là cơ sở
của yêu cầu và phản đối của các bên nên các bên sẽ quan tâm và tìm mọi cách để
khẳng định sự thật này. Có nghĩa là khi đưa ra yêu cầu khởi kiện thì nguyên đơn

phải chứng minh cho yêu cầu của mình đối với bị đơn, tức là phải có nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ, tham gia nghiên cứu chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận…để chứng
minh, bởi vì bị đơn được suy đoán là không có bất cứ trách nhiệm gì với nguyên
đơn cho đến khi trách nhiệm của bị đơn chưa được chứng minh. Cung cấp chứng
cứ chỉ là một trong các biện pháp chứng minh của đương sự.
Bên cạnh đó, trong tiến trình phát triển của hoạt động chứng minh, nghĩa vụ
chứng minh của các chủ thể chứng minh không bất biến mà trong điều kiện nhất
định, nó có thể di chuyển từ một bên đương sự này sang bên đương sự khác. Ví dụ:
khi đưa ra yêu cầu, nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh. Nhưng nếu bị đơn có yêu
cầu phản tố hay bị đơn muốn viện dẫn những sự kiện, tình tiết nhằm bác bỏ yêu cầu
cuả nguyên đơn thì nghĩa vụ chứng minh lại đặt ra đối với bên bị đơn.
Như vậy, có thể nhận thấy nghĩa vụ chứng minh của đương sự được đặt ra
phụ thuộc vào bên đương sự nào muốn viện dẫn sự kiện, tình tiết để làm cơ sở cho
những yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của mình. Yêu cầu của đương sự có thể hiểu
là việc họ đề nghị Tòa án thông qua việc xét xử trên cơ sở các quy định của pháp
luật để bảo đảm những quyền, lợi ích hợp pháp của họ đang bị xâm phạm hay tranh
Trường Đại học Luật Hà Nội

24


chấp ( ví dụ như yêu cầu về bồi thường thiệt hại, yêu cầu chia di sản thừa kế, yêu
cầu được quyền sử dụng đất…) và cũng có thể là yêu cầu về những lợi ích tinh thần
( như yêu cầu ly hôn, yêu cầu chấm dứt việc vi phạm quyền tác giả của mình, yêu
cầu xác nhận cha mẹ cho con…).
Đối với nguyên đơn, kể từ khi làm đơn khởi kiện, việc chứng minh yêu cầu
đối với nguyên đơn là nghĩa vụ, tức là nguyên đơn phải cung cấp chứng cứ và bằng
lý lẽ, lập luận của mình để làm sáng tỏ yêu cầu của mình là có căn cứ, có trong thực
tế, không phải bịa đặt và cần được đáp ứng. Nếu nguyên đơn đưa ra yêu cầu mà
không chứng minh được yêu cầu của mình là có căn cứ có trong thực tế hoặc đưa ra

những chứng cứ không có giá trị chứng minh, trong khi đó bị đơn lại đưa ra được
những chứng cứ có tính thuyết phục để phản đối yêu cầu của nguyên đơn thì yêu
cầu của nguyên đơn sẽ bị Tòa án bác bỏ.
Về phía bị đơn, họ là người bị kiện nên trước hết họ có quyền chứng minh
để bảo vệ quyền lợi của mình. Việc chứng minh sẽ trở thành nghĩa vụ đối với bị
đơn nếu:
+ Bị đơn có yêu cầu phản đối hoặc phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn,
bị đơn đưa ra yêu cầu liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn. Chẳng hạn như:
nguyên đơn kiện đòi tài sản cho thuê, bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố buộc nguyên
đơn phải trả cho mình những khoản tiền mà mình đã bỏ ra sửa chữa tài sản đó. Việc
giải quyết 2 yêu cầu có mối liên quan với nhau như trên làm cho việc giải quyết vụ
án được nhanh chóng, chính xác hơn. Như vậy đồng thời với yêu cầu phản tố,
người đưa ra yêu cầu phản tố phải cung cấp chứng cứ để chứng minh tính không có
căn cứ trong yêu cầu của nguyên đơn và tính có cơ sở của yêu cầu phản tố. Khi đó
nguyên đơn cũng có quyền phản đối lại yêu cầu của bị đơn đồng thời phải chứng
minh cho việc phản đối yêu cầu của mình;
Trường Đại học Luật Hà Nội

25


×