Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Những điểm mới về tranh chấp lao động tập thể về lợi ích và giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích trong BLLĐ 2012 so với luật sửa đổi, bổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.14 KB, 10 trang )

Câu 1: những điểm mới về tranh chấp lao động tập thể về lợi ích và giải quyết
tranh chấp lao động tập thể về lợi ích trong BLLĐ 2012 so với Luật sửa đổi,
bổ sung BLLĐ năm 2006
1. Bảng: so sánh Bộ luật lao đông năm 2012 so với luật sửa đổi, bổ sung năm
BLLĐ năm2006 về thẩm quyền giải quyết, thời hiệu yêu cầu giải quyết, trình tự thủ
tục giải quyết tranh chấp lao động về lợi ích
Luật sửa đổi, bổ sung BLLĐ Bộ luật lao động năm 2012
năm 2006
Thẩm
quyề
n giải
quyết

Điều 169. Cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền giải quyết tranh
chấp lao động tập thể về lợi ích
bao gồm:

Điều 203 khoản 2: Cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp lao động tập thể
về lợi ích bao gồm:
a) Hoà giải viên lao động;

1. Hội đồng hoà giải lao động
cơ sở hoặc hoà giải viên lao
động;

Thời

2. Hội đồng trọng tài lao động


Điều 171a Thời hiệu yêu cầu

hiệu

giải quyết tranh chấp lao động

yêu

tập thể là một năm, kể từ ngày

cầu

xảy ra hành vi mà mỗi bên

giải

tranh chấp cho rằng quyền và

quyế

lợi ích của mình bị vi phạm

b) Hội đồng trọng tài lao động


Trình
tự

Điều 165a


Điều 204. Trình tự giải quyết
tranh chấp lao động tập thể tại cơ

thủ

Hội đồng hoà giải lao động cơ sở

tục

sở hoặc hoà giải viên lao động 1. Trình tự hoà giải tranh chấp lao
tiến hành hoà giải tranh chấp động tập thể được thực hiện theo

giải

quyết lao động cá nhân theo quy định
quy định tại Điều 201 của Bộ luật
sau đây:
này. Biên bản hòa giải phải nêu rõ
1. Thời hạn hoà giải là không

loại tranh chấp lao động tập thể.

quá ba ngày làm việc, kể từ 2. Trong trường hợp hoà giải
ngày nhận được đơn yêu cầu không thành hoặc một trong hai
hoà giải;

bên không thực hiện các thỏa
thuận trong biên bản hòa giải

2. Tại phiên họp hoà giải phải thành thì thực hiện theo quy định

có mặt hai bên tranh chấp. Các sau đây:
bên tranh chấp có thể cử đại
diện được uỷ quyền của họ
tham gia phiên họp hoà giải.

b) Đối với tranh chấp lao động tập
thể về lợi ích các bên có quyền
yêu cầu Hội đồng trọng tài lao

Hội đồng hoà giải lao động cơ động giải quyết.
sở hoặc hoà giải viên lao động 3. Trong trường hợp hết thời hạn
đưa ra phương án hoà giải để giải quyết theo quy định tại khoản
hai bên xem xét.
Trường hợp hai bên chấp nhận
phương án hoà giải thì Hội
đồng hoà giải lao động cơ sở
hoặc hoà giải viên lao động lập

2 Điều 201 của Bộ luật này mà
hoà giải viên lao động không tiến
hành hoà giải thì các bên có quyền
gửi đơn yêu cầu Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện giải quyết.
Trong thời hạn 02 ngày làm việc,


biên bản hoà giải thành, có chữ
ký của hai bên tranh chấp, của
Chủ tịch và Thư ký Hội đồng
hoà giải lao động cơ sở hoặc

hoà giải viên lao động. Hai bên
có nghĩa vụ chấp hành các thoả

kể từ khi nhận được yêu cầu giải
quyết tranh chấp lao động tập thể
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện có trách nhiệm xác định
loại tranh chấp về quyền hoặc lợi
ích.

thuận ghi trong biên bản hoà Trường hợp là tranh chấp lao động
tập thể về lợi ích thì hướng dẫn
giải thành.
ngay các bên yêu cầu giải quyết
Trường hợp hai bên không chấp tranh chấp theo quy định tại điểm
nhận phương án hoà giải hoặc b khoản 2 Điều này.
một bên tranh chấp đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai
mà vẫn vắng mặt không có lý
do chính đáng thì Hội đồng hoà
giải lao động cơ sở hoặc hoà
giải viên lao động lập biên bản
hoà giải không thành có chữ ký
của bên tranh chấp có mặt, của
Chủ tịch và Thư ký Hội đồng

Điều 206. Giải quyết tranh chấp
lao động tập thể về lợi ích của
Hội đồng trọng tài lao động
1. Trong thời hạn 07 ngày làm

việc, kể từ ngày nhận được đơn
yêu cầu giải quyết, Hội đồng trọng
tài lao động phải kết thúc việc hòa
giải.

hoà giải lao động cơ sở hoặc 2. Tại phiên họp của Hội đồng
trọng tài lao động phải có đại diện
hoà giải viên lao động.
của hai bên tranh chấp. Trường
Bản sao biên bản hoà giải thành hợp cần thiết, Hội đồng trọng tài
hoặc hoà giải không thành phải lao động mời đại diện cơ quan, tổ
được gửi cho hai bên tranh chấp chức, cá nhân có liên quan tham
trong thời hạn một ngày làm dự phiên họp.


việc, kể từ ngày lập biên bản;

Hội đồng trọng tài lao động có
trách nhiệm hỗ trợ các bên tự

3. Trường hợp hoà giải không thương lượng, trường hợp hai bên
thành hoặc hết thời hạn giải không thương lượng được thì Hội
quyết theo quy định tại khoản 1 đồng trọng tài lao động đưa ra
Điều này mà Hội đồng hoà giải phương án để hai bên xem xét.
lao động cơ sở hoặc hoà giải Trong trường hợp hai bên tự thỏa
viên lao động không tiến hành thuận được hoặc chấp nhận
hoà giải thì mỗi bên tranh chấp phương án hòa giải thì Hội đồng
có quyền yêu cầu Toà án nhân trọng tài lao động lập biên bản hoà
dân giải quyết.
giải thành đồng thời ra quyết định

Điều 170

công nhận sự thỏa thuận của các
bên.

1. Việc lựa chọn Hội đồng hoà Trường hợp hai bên không thỏa
giải lao động cơ sở hoặc hoà thuận được hoặc một bên tranh
giải viên lao động giải quyết chấp đã được triệu tập hợp lệ đến
tranh chấp lao động tập thể do lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
tập thể lao động và người sử không có lý do chính đáng thì Hội
dụng lao động quyết định.
Trình tự hoà giải tranh chấp lao

đồng trọng tài lao động lập biên
bản hoà giải không thành.

động tập thể được thực hiện Biên bản có chữ ký của các bên có
theo quy định tại khoản 1 và mặt, của Chủ tịch và Thư ký Hội
khoản 2 Điều 165a của Bộ luật đồng trọng tài lao động.
này.
Trường hợp hoà giải không

Bản sao biên bản hoà giải thành
hoặc hoà giải không thành phải
được gửi cho hai bên tranh chấp


thành thì trong biên bản phải
nêu rõ loại tranh chấp lao động
tập thể.


trong thời hạn 01 ngày làm việc,
kể từ ngày lập biên bản.
3. Sau thời hạn 05 ngày, kể từ
ngày Hội đồng trọng tài lao động

2. Trong trường hợp hoà giải lập biên bản hòa giải thành mà
không thành hoặc hết thời hạn một trong các bên không thực hiện
giải quyết theo quy định tại thỏa thuận đã đạt được thì tập thể
khoản 1 Điều 165a của Bộ luật lao động có quyền tiến hành các
này mà Hội đồng hoà giải lao thủ tục để đình công.
động cơ sở hoặc hoà giải viên
Trong trường hợp Hội đồng trọng
lao động không tiến hành hoà
tài lao động lập biên bản hòa giải
giải thì mỗi bên tranh chấp có
không thành thì sau thời hạn 03
quyền yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban
ngày, tập thể lao động có quyền
nhân dân cấp huyện giải quyết
tiến hành các thủ tục để đình công.
đối với trường hợp tranh chấp
lao động tập thể về quyền hoặc
yêu cầu Hội đồng trọng tài lao
động giải quyết đối với tranh
chấp lao động tập thể về lợi ích.


2. Những điểm mới về tranh chấp lao động tập thể về lợi ích trong BLLĐ 2012
so với Luật sửa đổi, bổ sung BLLĐ năm 2006

2.1 Điểm mới Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Nhìn chung, về cơ quan giải quyết tranh chấp tập thể về lợi ích, so với Luật
sửa đổi, bổ sung BLLĐ năm 2006 thì Bộ luật lao động 2012 không có nhiều thay
đổi ngoài việc bỏ hội đồng hòa giải cơ sở.
Việc bỏ cơ chế giải quyết tranh chấp lao động bằng Hội đồng hòa giải cơ sở
có thể được xem là phù hợp với thực tế. Điều này xuất phát từ thực tế vai trò của
hội đồng hòa giải cơ sở trong việc giải quyết tranh chấp lao động là không cao,
hoạt động không hiệu quả. Có thể thấy, hoạt động của Hội đồng hòa giải cơ sở
không đạt được ý nghĩa và mục đích như mong đợi xuất phát từ những hạn chế của
bản thân thiết chế này. Cụ thể: Tính trung lập của Hội đồng hòa giải cơ sở khó đảm
bảo; Tính chuyên nghiệp, uy tín chỉ ở mức độ nhất định
2.2 Điểm mới Về thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp.
Ta thấy bộ luật lao đông năm 2012 không có quy định về giải quyết tranh chấp
lao dộng tập thể về lợi ích. Còn Luật sửa đổi, bổ sung BLLĐ năm 2006 có quy
định rõ về thời hiệu này tại Điều 171a “Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp
lao động tập thể là một năm, kể từ ngày xảy ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho
rằng quyền và lợi ích của mình bị vi phạm”
2.3 Những điểm mới về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp
Đối chiếu các quy định của Luật sửa đổi bổ sung BLLĐ năm 2006 so với các
quy định của BLLĐ 2012, chúng ta thấy nhìn chung trình tự, thủ tục giải quyết
tranh chấp lao động tập thể về lợi ích được tiến hành theo trình tự, thủ tục chung
đó là: hòa giải viên lao động -> hội đồng trọng tài lao động-> đình công. Tuy


nhiên, so với Luật sửa đổi bổ sung BLLĐ năm 2006 thì BLLĐ 2012 có một số
điểm mới sau đây:
Thứ nhất: Về thời hạn hòa giải viên lao động và Hội đồng trọng tài lao động
tiến hành giải quyết tranh chấp.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 204 và khoản 2 Điều 201 BLLĐ 2012 thì:
“Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu hòa giải, hòa giải

viên lao đông phải kết thúc việc hòa giải”. Như vậy, thời hạn để hòa giải viên lao
động tiến hành hòa giải tranh chấp lao động theo quy định của BLLĐ 2012 được
kéo dài hơn so với Luật sửa đổi bổ sung BLLĐ năm 2006. Ngoài ra, luật lao động
2012 có quy định cụ thể hơn về thời hạn, đó là trong thời hạn pháp luật quy định
thì hòa giải viên lao động “phải kết thúc hòa giải”.
Điều này cũng được quy định đối với thời hạn giải quyết tranh chấp lao động
của Hội đồng trọng tài lao động. Việc BLLĐ 2012 quy định cụ thể như vậy giúp
cho việc giải quyết của hòa giải viên lao động hay của Hội đồng trọng tài lao động
được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, hạn chế thiệt hại cho các bên trong thời
gian xảy ra tranh chấp. Đây là quy định tiến bộ, rõ ràng hơn và cũng góp phần góp
phần khắc phục một số nhược điểm của luật sủa đổi, bổ sung BLLĐ năm 2006.
Thứ hai: Thành phần tham gia phiên họp giải quyết tranh chấp lao động tập
thể về lợi ích của Hội đồng trọng tài lao động.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 206 Việc BLLĐ 2012 quy định như vậy là
phù hợp với bản chất của hòa giải và trọng tài là các phương thức giải quyết tranh
chấp lựa chọn, thể hiện ý chí tự nguyện của các bên. :
“Tại phiên họp của Hội đồng trọng tài lao động phải có đại diện của hai bên
tranh chấp. Trường hợp cần thiết, Hội đồng trọng tài lao động mời đại diện cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham dự phiên họp”.


Theo quy định trên thì điểm mới của BLLĐ 2012 so với Luật sửa đổi bổ sung
BLLĐ năm 2006 đó là “đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham dự
phiên họp” thay vì “đại diện công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở và đại diện
cơ quan, tổ chức hữu quan tham dự phiên họp” như quy định của Luật sửa đổi bổ
sung BLLĐ năm 2006.
Thứ ba: Vai trò, thẩm quyền của Hòa giải viên lao động; Hội đồng trọng tài
lao động trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Theo Luật sửa đổi bổ sung BLLĐ năm 2006 thì Hòa giải viên lao động; Hội
đồng trọng tài lao động đưa ra phương án để hai bên tranh chấp xem xét. Tuy

nhiên, theo BLLĐ 2012 thì Hòa giải viên lao động; Hội đồng trọng tài lao động
hướng dẫn, hỗ trợ các bên thương lượng. Nếu các bên thương lượng được thì sẽ lập
biên bản hòa giải thành; Hòa giải viên lao động chỉ đưa ra phương án hòa giải cho
hai bên xem xét trong trường hợp hòa giải viên đã hướng dẫn các bên tự thương
lượng, mà các bên không thỏa thuận được. Với quy định của Luật sửa đổi bổ sung
BLLĐ năm 2006 thì thủ tục hòa giải và trọng tài lao động được sử dụng đều mang
tính chất bắt buộc trong quy trình giải quyết tranh chấp lao động khi các bên tranh
chấp không được đưa ra ý kiến, không được tự thương lượng, thỏa thuận với nhau
mà chỉ có một phương án lựa chọn là chấp nhận phương án mà Hòa giải viên lao
động hay Hội đồng trọng tài lao động đưa ra. Việc BLLĐ 2012 quy định Hòa giải
viên lao động; Hội đồng trọng tài trước hết là hướng dẫn, hỗ trợ cho các bên
thương lượng và chỉ đưa ra phương án cho các bên xem xét nếu các bên không tự
thương lượng, thỏa thuận được phản ánh đúng với bản chất của hòa giải và trọng
tài là các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn, thể hiện ý chí tự do thỏa
thuận, tự nguyện của các bên.


Thứ tư: BLLĐ 2012 quy định Hội đồng trọng tài lao động sau khi lập biên
bản hòa giải thành có quyền ra quyết định công nhận sự thỏa thuận trong trường
hợp hòa giải thành.
Nếu Luật sửa đổi bổ sung BLLĐ năm 2006 quy định Hội đồng trọng tài lao
động chỉ có quyền lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành thì BLLĐ 2012
quy định thêm thẩm quyền của Hội đồng trọng tài lao động, cụ thể: Hội đồng trọng
tài lao động sau khi lập biên bản hòa giải thành có quyền ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận trong trường hợp hòa giải thành. Đây là quy định mới, tiến bộ của
BLLĐ 2012, phản ánh đúng bản chất của trọng tài được xem là phương thức giải
quyết tranh chấp mang tính tài phán, trọng tài được ra quyết định giải quyết tranh
chấp.
Thứ năm: BLLĐ2012 quy định rõ thời hạn tập thể lao động tiến hành thủ tục
đình công.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 206 BLLĐ 2012:
“Sau thời hạn 05 ngày, kể từ ngày Hội đồng trọng tài lao động lập biên bản
hòa giải thành mà một trong các bên không thực hiện thỏa thuận đã đạt được thì
tập thể lao động có quyền tiến hành các thủ tục để đình công.
Trong trường hợp Hội đồng trọng tài lao động lập biên bản hòa giải không
thành thì sau thời hạn 30 ngày, tập thể lao động có quyền tiến hành các thủ tục để
đình công”
Theo Luật sửa đổi bổ sung BLLĐ năm 2006 thì trường hợp Hội đồng lao
động hòa giải không thành hoặc hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật
mà Hội đồng trọng tài không tiến hành hòa giải thì tập thể lao động có quyền tiến
hành các thủ tục đình công. Việc BLLĐ 2012 quy định cụ thể thời hạn tập thể lao
động có quyền tiến hành các thủ tục đình công trong hai trường hợp hòa giải thành


và hòa giải không thành đã khắc phục được hạn chế của pháp luật lao động hiện
hành. BLLĐ 2012 quy định một khoảng thời gian hợp lý để các bên thực hiện thỏa
thuận trong trường hợp hòa giải thành; trong trường hợp hòa giải không thành thì
người lao động có thời gian chuẩn bị cho việc tiến hành các thủ tục để đình công.



×