Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Phân tích tác động của luật quốc tế đối với quá trình hoàn thiện các quy định của hệ thống pháp luật việt nam trong một lĩnh vực cụ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.68 KB, 8 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giữa luật quốc tế và luật quốc gia có mối quan hệ biện chứng. Nếu như luật quốc
gia có ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến sự hình thành và phát triển của luật
quốc tế thì ngược lại luật quốc tế cũng có tác động tích cực nhằm phát triển và hoàn
thiện luật quốc gia.
Việt Nam là một chủ thể độc lập của luật quốc tế nên cũng không nằm ngoài quy
luật này. Trong bối cảnh của công cuộc cải cách, mở cửa tại Việt Nam, điều ước quốc tế
trở thành công cụ pháp lý chủ yếu, điều chỉnh hiệu quả quan hệ hợp tác quốc tế toàn diện
của Việt Nam với các quốc gia và tổ chức quốc tế. Ta có thể nhận thấy, trong lý luận
cũng như thực tiễn, Luật quốc tế đã có những tác động tích cực đối với quá trình hoàn
thiện pháp luật Việt nam trong nhiều lĩnh vực như dân sự, hình sự, thương mại, lao
động…Tuy nhiên, một vấn đề đang được Đảng, Nhà nước cũng như dư luận xã hội hết
sức quan tâm đó là vấn đề về quyền trẻ em. Chính vì lẽ đó, em quyết định chọn đề tài:
“Phân tích tác động của Luật quốc tế đối với quá trình hoàn thiện các quy định của hệ
thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực quyền trẻ em” làm đề tài bài viết. Vì thời gian
cũng như tầm hiểu biết có hạn nên không thể tránh được những thiếu sót, rất mong quý
thầy, cô đóng góp để bài viết được hoàn thiện hơn.

II. NỘI DUNG CHI TIẾT
1. Hệ thống pháp luật quốc tế về quyền trẻ em.
1.1. Quyền trẻ em đã được ghi nhận từ rất sớm.
Quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng ngày nay trở thành vấn đề
quan tâm của cộng đồng quốc tế. Trẻ em ở tất cả các nước trên thế giới vẫn còn sống
trong những điều kiện khó khăn và chúng cần được quan tâm đặc biệt. Do đó, sự hợp tác
quốc tế đối với việc cải thiện điều kiện của trẻ em ở mọi nước, đặc biệt là các nước đang
phát triển là yêu cầu bức thiết. Cộng đồng quốc tế mà trung tâm là Liên hợp quốc đã có
nhiều nỗ lực trong việc xây dựng các văn bản pháp lí quốc tế nhằm xác lập các quyền cơ
bản của trẻ em cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm của các quốc gia đối với trẻ em.
Từ năm 1924, khái niệm “quyền trẻ em” đã chính thức được đề cập trong luật
pháp quốc tế, khi Tuyên ngôn Giơ-ne-vơ về quyền trẻ em được Hội Quốc liên thông qua.
Năm 1948, Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn về quyền trẻ em đầu tiên


của mình, gồm 7 điểm, được xây dựng dựa trên tuyên bố 1924: "bằng Tuyên ngôn về
quyền trẻ em này... nam giới, phụ nữ của mọi quốc gia, thừa nhận rằng nhân loại phải
1


dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất, tuyên bố công nhận đó là trách nhiệm của họ
phải đáp ứng nghĩa vụ này với sự tôn trọng đầy đủ". Một đề nghị đã được chấp thuận
gần như ngay lập tức là dự thảo một bản Tuyên ngôn chi tiết hơn. Mười năm sau, Tuyên
ngôn về quyền trẻ em 1959 được thông qua, giữ lại phần nào ngôn ngữ của văn bản
trước và bổ xung chi tiết thêm. Tuyên ngôn về năm 1959 khẳng định: "Loài người có
trách nhiệm trao cho trẻ em điều tốt đẹp nhất". Điều 24 Công ước về các quyền chính trị
- dân sự năm 1966 (Việt Nam gia nhập năm 1982) nêu rõ: "Mọi trẻ em… đều có quyền
được hưởng sự bảo hộ của gia đình, xã hội và nhà nước". Điều 10 Công ước trên quy
định: "Thanh thiếu niên cần được bảo vệ và không bị bóc lột về kinh tế - xã hội, cấm bóc
lột lao động trẻ em".

1.2. Sự ra đời của công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989.
Với sự nỗ lực của các quốc gia, Công ước quốc tế về quyền trẻ em đã được thông
qua và ký kết ngày 20/11/1989 (còn gọi là Công ước Quyền trẻ em năm 1989) và có hiệu
lực từ ngày 2/9/1990, hiện nay đã có 197 quốc gia thành viên tham gia. Công ước để ngỏ
cho các quốc gia tham gia ký kết, phê chuẩn và gia nhập. Ngoài lời nói đầu, nội dung
của Công ước gồm 3 phần với 54 điều khoản, bao quát được tất cả những khía cạnh liên
quan đến quyền trẻ em và xác định rõ nghĩa vụ của các quốc gia trong việc đảm bảo
quyền của trẻ em, mối quan hệ giữa trẻ em và quyền con người nói chung.
Lần đầu tiên, vấn đề “trẻ em” được xác định, làm cơ sở cho việc thúc đẩy và bảo
vệ các quyền trẻ em trên thực tế. Một tập hợp các quyền trẻ em trên tất cả các lĩnh vực
(mà rất nhiều quyền chưa hề được đề cập ở các văn kiện trước đó) đã được Công ước ghi
nhận, bảo đảm cho trẻ em được bảo vệ, chăm sóc một cách có hiệu quả; được phát triển
toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức và xã hội. Không chỉ đề cập đến trẻ
em nói chung, Công ước còn đề cập đến việc bảo vệ quyền của những nhóm trẻ em đặc

biệt (tàn tật, lang thang cơ nhỡ, bị ảnh hưởng của xung đột vũ trang...); đồng thời, xác
định những biện pháp nhằm xóa bỏ những nguy cơ đang đe dọa nghiêm trọng cuộc sống
của nhiều trẻ em như bị lạm dụng tình dục, bóc lột sức lao động, ảnh hưởng của chất ma
túy và bị buộc phải tham gia vào các cuộc xung đột vũ trang... Cùng với các điều đó,
Công ước còn xác lập một cơ chế quốc tế để giám sát việc thực hiện các quyền trẻ em
trên thế giới, tạo điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển đầy đủ.
Với nội dung trên, Công ước được coi là văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và toàn
diện nhất về quyền trẻ em trong thời điểm hiện nay. Tuy vậy, để hỗ trợ cho Công ước
này, năm 2000, LHQ còn thông qua hai Nghị định thư bổ sung, đề cập đến việc cấm sử
2


dụng trẻ em trong các cuộc xung đột vũ trang và việc cấm buôn bán, bóc lột mại dâm trẻ
em và cấm văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em.
Từ đầu thế kỷ XX đến nay đã có hơn 80 văn kiện quốc tế liên quan đến quyền trẻ
em được ban hành. Đây là thành quả sau gần một thế kỷ đấu tranh liên tục của nhân loại
nhằm cải thiện vị thế và cuộc sống trẻ em.

2. Tác động của các công ước quốc tế về quyền trẻ em đối với việc
hoàn thành các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam.
2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền trẻ em.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến thế hệ trẻ, đặc biệt là lứa tuổi thiếu niên,
nhi đồng. Trong di chúc của người có viết: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai
của đất nước”. Vì vậy "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là điều rất quan trọng
và cần thiết”.
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn có quan điểm và chính sách nhất quán về quyền
trẻ em. Theo đó, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được coi là một trong
những nhiệm vụ chính trị trọng tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến
địa phương, là một vấn đề ưu tiên trong mọi chính sách và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Ngay từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 đã

ghi nhận sự bảo đảm quyền trẻ em, đó là: “Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng”
(Điều 14), và “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa
phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được
Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình nhà nước”
(Điều 15). Quan điểm nhất quán về chăm lo và bảo đảm quyền trẻ em được thể hiện
xuyên suốt trong các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).

2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền trẻ em.
Có thể nhận thấy, vấn đề quyền trẻ em đã được Đảng, Nhà nước đặt ra từ rất sớm,
thế nhưng trước thời kỳ đổi mới do gặp nhiều khó khăn trong kinh tế, chính trị cũng như
việc chưa tham gia đầy đủ các hoạt động quốc tế nên vấn đề này vẫn chưa được quan
tâm đúng mức. Từ ngày thực hiện đường lối đổi mới(1986), đặc biệt là từ khi tham gia
vào Công ước quyền trẻ em năm 1989, Việt nam đã tích cực, chủ động xây dựng, bổ
sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của trẻ em – thế hệ tương
lai của đất nước.

3


Ngày 26/1/1990, Việt Nam ký Công ước về quyền trẻ em và ngày 20/2/1990 phê
chuẩn Công ước đó. Việt Nam trở thành nước châu Á đầu tiên và là nước thứ hai trên thế
giới phê chuẩn Công ước. Tháng 9-1990, Việt Nam đã tham gia Hội nghị thượng định
thế giới vì trẻ em và tháng 3/1991 đã ký Tuyên bố thế giới về sự sống còn, bảo vệ và
phát triển trẻ em.
Thực hiên cam kết, sau khi phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em, Việt Nam đã gia
nhập hoặc phê chuẩn nhiều Công ước và Nghị định thư về quyền con người như: Nghị
định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước quốc tế Quyền trẻ em về buôn bán trẻ
em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định thư về buôn bán
người bổ sung Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; phê chuẩn công
ước số 182 của ILO về cấm và hành động để xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi

tệ cũng như một số văn kiện pháp lý quốc tế khác về quyền con người....
Sau khi tham gia ký kết các điều ước quốc tế về quyền con người nói chung và
quyền trẻ em nói riêng, đặc biệt là Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc năm
1989 và hai Nghị định thư bổ sung năm 2000, Nhà nước Việt Nam đã tích cực nội luật
hóa các quy định của hệ thống pháp luật quốc tế về quyền trẻ em vào trong hệ thống
pháp luật quốc gia, đồng thời đẩy mạnh triển khai, thực thi chính sách bảo đảm quyền trẻ
em. Hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước Việt Nam liên quan đến việc thực
thi quyền trẻ em, về cơ bản, phù hợp với các điều khoản của Công ước về quyền trẻ em
của Liên hợp quốc.
Nhà nước đã nhanh chóng ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan
trực tiếp đến việc bảo về quyền lợi trẻ em như: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 1991 (nay là Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004), Luật phổ cập giáo
dục tiểu học năm 1991. Đồng thơi, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định cụ thể về
quyền trẻ em trong các văn bản pháp luật khác như: Bộ luật Lao động năm 1994, Bộ luật
Dân sự năm 1995, 2005, Luật Giáo dục năm 1998, Luật Quốc tịch năm 1998, Bộ luật
Hình sự năm 1999, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và các văn bản dưới luật khác
để hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, Nhà nước còn tổ chức triển khai và thực hiện nhiều
chương trình hành động quốc gia vì trẻ em trên các lĩnh vực giáo dục, y tế và dinh
dưỡng.
Hệ thống pháp luật ở nước ta liên quan đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em có thể thấy qua các văn bản pháp luật như:

* Hiến pháp năm 1992
4


Đây là bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới, đánh dấu một mốc quan trọng trong
việc xác định một cách rõ ràng, toàn diện các quyền cơ bản của công dân, thừa nhận vấn
đề quyền con người, trong đó có quyền trẻ em.
Hiến pháp 1992 đã thể hiện có tính nguyên tắc sự cam kết của Nhà nước Việt

Nam trong thực thi Công ước của LHQ về quyền trẻ em, là cơ sở quan trọng để hình
thành hệ thống pháp luật trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Cụ thể như:
quyền được sống, tồn tại, được chăm sóc, nuôi dưỡng (Điều 40, 63); quyền được giáo
dục (Điều 35); trẻ em thiệt thòi, trẻ em tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa cũng
được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện giúp (Điều 59, Điều 67).

* Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004
Được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực từ ngày 01/01/2005 (thay
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991). Theo Luật, trẻ em là công dân
dưới 16 tuổi, mọi trẻ em không phân biệt đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, đó là
trách nhiệm của gia đình, nhà trường, các cơ quan nhà nước và công dân, các quyền của
trẻ em phải được tôn trọng và thực hiện, mọi hành vi xâm hại trẻ em đều bị nghiêm trị.
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã quy định 10 nhóm hành vi bị nghiêm cấm
liên quan đến bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em như: Cha mẹ bỏ rơi con; dụ dỗ lôi
kéo trẻ em đi lang thang; lợi dụng trẻ em lang thang để trục lợi; dụ dỗ, lừa dối, ép buộc
trẻ em mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý; lôi kéo trẻ em đánh
bạc; bán, cho trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá, chất kích thích khác có hại cho sức
khoẻ; dụ dỗ, lừa dối, dẫn dắt, chứa chấp, ép buộc trẻ em hoạt động mại dâm; xâm hại
tình dục trẻ em; Lợi dụng, dụ dỗ, ép buộc trẻ em mua bán, sử dụng văn hoá phẩm độc
hại; Lạm dụng lao động trẻ em. Luật năm 2004 đã bổ sung đầy đủ hơn các quyền và bổn
phận của trẻ em, theo đó, trẻ em là công dân nên trẻ em có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
của công dân theo quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước Quốc tế về quyền trẻ
em. Luật đã quy định trẻ em có 10 quyền cơ bản là: quyền được khai sinh và có quốc
tịch; quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; quyền được sống chung với cha mẹ; quyền
được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự; quyền được chăm
sóc sức khoẻ; quyền được học tập; quyền vui chơi giải trí, hoạt động văn hoá, văn nghệ,
thể dục, thể thao, du lịch; quyền được phát triển năng khiếu; quyền có tài sản; quyền
được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.
* Bộ Luật hình sự năm 1999 và các vấn đề liên quan đến trẻ em
Về chính sách hình sự áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội đã xác

định: Người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội. Người từ
5


đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng
do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm về mọi tội phạm. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho
xã hội. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu
phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình
tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục. Khi xét xử nếu
thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì
Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp như: giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
đưa vào trường giáo dưỡng. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người
chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành niên
phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm
tội tương ứng. Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở
độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi. Phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không
quá ½ mức tiền phạt mà điều luật quy định. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với
người chưa thành niên phạm tội. Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội
khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Ngược lại, pháp luật hình sự nước ta rất nghiêm khắc đối với với hành vi phạm tội
xâm hại đến trẻ em và các quyền trẻ em. Nhìn chung, các tội phạm xâm hại đến trẻ em
trong Bộ luật Hình sự phần lớn đều thuộc loại tội có tình tiết tăng nặng. Cụ thể một số
tội danh như : Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp
(Điều 252): Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256), Tội hiếp dâm trẻ em (Điều
112)…

* Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần xây dựng, củng cố gia đình Việt Nam

XHCN, giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc; Luật còn là
công cụ để xác định mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là nghĩa vụ
của cha mẹ đối với con như: cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi nấng, giáo dục con
cái; cha mẹ không được hành hạ con cái, không được đối xử tàn tệ với con nuôi, con
riêng; nghiêm cấm việc vứt bỏ hoặc giết hại trẻ em mới đẻ và người gây ra việc ấy phải
chịu trách nhiệm hình sự. Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi dưỡng, giáo dục con,
chăm lo việc học tập và sự phát triển lành mạnh của con về thể chất, trí tuệ, đạo đức; cha
mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con; cha mẹ phải làm gương tốt cho con về
mọi mặt, phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con;
6


cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con đã thành niên mà không có khả năng lao động để tự
nuôi mình; các con có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong gia đình; con có nghĩa vụ
kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo của cha mẹ.

* Bộ Luật Dân sự 2005
Quy định nhiều nội dung liên quan đến các quyền của trẻ em, trong đó có các
quyền về nhân thân, quyền về tài sản như: Trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp
luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 20); Cá nhân khi sinh ra có quyền
được khai sinh (Điều 29); cá nhân có quyền có quốc tịch. Việc công nhận, thay đổi, nhập
quốc tịch, thôi quốc tịch Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật về quốc
tịch (Điều 45)…
* Bộ Luật Lao động liên quan đến trẻ em
Bộ Luật Lao động năm 1994, qua các lần sửa đổi, bổ sung một số điều vào các
năm 2002-2006-2007 quy định nhiều nội dung liên quan đến lao động trẻ em như: Người
lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao
động. Nơi có sử dụng người lao động chưa thành niên phải lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy

đủ họ tên, ngày sinh, công việc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ
và xuất trình khi thanh tra viên lao động yêu cầu. Nghiêm cấm lạm dụng sức lao động
của người chưa thành niên (Điều 119); cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc,
trừ một số nghề và công việc do Bộ LĐTB&XH quy định (Điều 120); cấm sử dụng
người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp
xúc với các chất độc hại (Điều 121)…

III. KẾT LUẬN
Vấn đề bảo vệ quyền trẻ em đã được Nhà nước ta đặt ra từ rất sớm, nhưng thực sự
chỉ được quan tâm một cách đặc biệt từ sau khi Việt Nam tham gia Công ước quốc tế về
quyền trẻ em năm 1989. Thông qua về việc ký kết, thông qua Công ước, dưới sự tác
động của Công ước, Việt Nam – với tư cách là một chủ thể của Luật quốc tế đã có những
hành động cụ thể, từng bước hoàn thiện các quy định của hệ thống pháp luật nhằm mục
đích bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Trẻ em là niềm hy vọng của đất nước, bảo vệ trẻ
em chính là bảo vệ tương lai tươi sáng của đất nước.

7


8



×