Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Pháp luật về sử dụng lao động trẻ em thực trạng sử dụng lao động tại việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.55 KB, 15 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nền kinh tế và xã hội phát triển nhanh trong thập kỷ qua, lao động trẻ em
đã và đang là một vấn đề gây nhiều tranh cãi ở Việt Nam. Trong xã hội vẫn tồn
tại quan điểm phổ biến rằng lao động có tác động tích cực đối với trẻ em nên
vấn đề này ít được quan tâm ở cấp cộng đồng và hộ gia đình. Nghèo đói, sự gia
tăng dân số nhanh ở các thành phố lớn, công nghiệp hóa, đô thị hóa, gia tăng tự
do thương mại, thái độ của gia đình đối với giáo dục, chất lượng giáo dục kém
và vấn đề di cư đến các đô thị phát triển là những nhân tố góp phần làm gia tăng
lao động trẻ em. Cũng như bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới, pháp luật Việt
Nam cũng đã có nhiều quy định nhằm điều chỉnh vấn đề này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I- THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM
1. Khai niêm Lao đông trẻ em
Pháp luật quốc tế không đưa ra một khái niệm thống nhất về lao động trẻ
em. Tuy nhiên, theo khái niệm trẻ em được quy định trong Công ước quốc tế về
quyền trẻ em năm 1989 và Điều 2 Công ước số 182 về loại bỏ những hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất 1999 , có thể hiểu “Lao đông trẻ em là ngươi lao
đông chưa đủ 18 tuôi trừ trương hơp luât phap ap dung vơi trẻ em đó quy đinh
tuôi thành niên sơm hơn”
Bộ luật lao động Việt Nam không đưa ra định nghia về lao động trẻ em mà
chỉ có khái niệm về lao động chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 119
BLLĐ “Lao đông chưa thành niên là ngươi lao đông dươi 18 tuôi”. Quy định
này tiếp tục được ghi nhận tại Điều 163 Dự thảo BLLĐ. Theo đó thì người “lao
động chưa thành niên” là người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, trong đó có một
nhóm người từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi tham gia lao động cũng sẽ gọi là người
“lao động chưa thành niên”.
Trong khi đó, Điều 1 Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 lại quy
định: “ Trẻ em quy đinh trong luât này là công dân Viêt Nam dươi 16 tuôi”.
Dựa trên tinh thần của hai điều luật trên, ta có thể hiểu “lao động trẻ em” là
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH


Trang1


những người dưới 16 tuổi, trong đó có một nhóm người từ 15 tuổi đến dưới 16
tuổi tham gia lao động cũng sẽ được gọi là “lao động trẻ em”.
Theo quy định tại Điều 161BLLD 2012, “lao đông chưa thành niên là
ngươi lao đông dươi 18 tuôi”. Tuy nhiên, trong các quy định tiếp theo về lao
động chưa thành niên, Bộ luật này có những quy định mang tính phân loại lao
động chưa thành niên, ví dụ nhóm người lao động chưa thành niên trong độ tuổi
dưới 13, từ 13 đến dưới 15 và từ 15 đến dưới 18. Đây là điểm mới của BLLD
2012 so với các quy định trong Bộ luật trước đây.
2. Quy định về viêc làm
Xuất phát từ tính chất đặc thù của đối tượng lao động là trẻ em, Tổ chức lao
động quốc tế đã thông qua Công ước số 182 về loại bỏ những hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất và thông qua Khuyến nghị số 190 về loại bỏ những hình thức
lao động trẻ em tồi tệ nhất. Tại điểm d Điều 3 Công ước số 182 đã quy định một
trong những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất là trẻ em phải làm những công
việc có khả năng làm hại đến sức khỏe, sự an toàn hay đạo đức của trẻ em, do
bản chất của công việc hay do hoàn cảnh, điều kiện tiến hành công việc
Việt Nam phê chuẩn Công ước số 182 vào năm 2000. Theo quy định tại
Điều 120, 121 BLLĐ quy định người lao động chưa thành niên bị cấm làm
những công việc nặng nhọc hoặc tiếp xúc với các chất độc hại hoặc chỗ làm
việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách, thể lực và trí lực của trẻ em theo
danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành. Bên
cạnh đó tại Điều 9 Nghị định 71/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Bảo vệ Chăm sóc
và giáo dục trẻ em cũng cấm “Lạm dung lao đông trẻ em, sử dung trẻ em làm
công viêc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc vơi chất đôc hại, làm những công
viêc khac trai vơi quy đinh của phap luât về lao đông”.
Về nguyên tắc, pháp luật Việt Nam cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào
làm việc. Tuy nhiên, pháp luật cũng cho phép nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào

làm việc, học nghề hoặc tập nghề đối với một số nghề, công việc nhất định với
những điều kiện:
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang2


- Đó là những nghề, công việc nhẹ nhàng; hoặc công việc đòi hỏi đặc trưng
riêng, cần thiết và có thể sử dụng lao động nhỏ tuổi; hoặc trong những trường
hợp khác có mục đích đào tạo nghề, tập nghề cho các em
- Việc nhận và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý của cha mẹ
hoặc người đỡ đầu.
Theo đó trẻ em dưới 15 tuổi chỉ được làm những công việc như: diễn viên
múa, hát, xiếc, sân khấu; làm các nghề truyền thống; các nghề thủ công mỹ
nghệ; làm vận động viên năng khiếu theo quy định của pháp luật. Những công
việc này tạo điều kiện cho các em có thể phát triển năng khiếu của mình, góp
phần gìn giữ các giá trị truyền thống của dân tộc. Tới dự thảo BLLĐ đã quy định
cụ thể hơn về điều kiện để có thể cho phép sử dụng lao động trẻ em dưới 15
tuổi: a) Phải ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người đại diện theo
pháp luật;
b) Bố trí giờ làm việc không ảnh hưởng đến giờ học tại trường học của trẻ
em;
c) Bảo đảm điều kiện làm việc, an toàn lao động, vệ sinh lao động phù hợp
với lứa tuổi;
Quy định này của Luật lao động cũng không vi phạm Công ước số 138 của
ILO về tuổi tối thiểu được đi làm việc vì theo Điều 2 của Công ước thì “ phap
luât có thể cho phép sử dung lao đông của ngươi từ đủ 13 tuôi đến 15 tuôi trong
những công viêc nhẹ nhàng, không có khả năng tac hại đến sức khỏe hoặc sự
phat triển của cac em, không phương hại đến viêc học tâp...”.
Tuy nhiên, BLLD 2012 lại có những quy định khá mới, chi tiết hơn về việc

làm cho nhóm lao động chưa thành niên này. Theo đó, về nguyên tắc Không
được sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của
họ theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với
Bộ Y tế ban hành. Cụ thể, Điều 163 quy định không được sử dụng lao động trẻ
em trong các công việc và nơi làm việc sau:
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang3


1. Cấm sử dung ngươi chưa thành niên làm cac công viêc sau đây:
a) Mang, vac, nâng cac vât nặng vươt qua thể trạng của ngươi chưa thành
niên;
b) Sản xuất, sử dung hoặc vân chuyển hóa chất, khí gas, chất nô;
c) Bảo trì, bảo dưỡng thiết bi, may móc;
d) Pha dỡ cac công trình xây dựng;
đ) Nấu, thôi, đúc, can, dâp, hàn kim loại;
e) Lặn biển, đanh bắt ca xa bơ;
g) Công viêc khac gây tôn hại cho sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức của
ngươi chưa thành niên.
2. Cấm sử dung ngươi chưa thành niên làm viêc ở cac nơi sau đây:
a) Dươi nươc, dươi lòng đất, trong hang đông, trong đương hầm;
b) Công trương xây dựng;
c) Cơ sở giết mô gia súc;
d) Sòng bạc, quan bar, vũ trương, phòng hat karaoke, khach sạn, nhà nghỉ,
phòng tắm hơi, phòng xoa bóp;
đ) Nơi làm viêc khac gây tôn hại đến sức khoẻ, sự an toàn và đạo đức của
ngươi chưa thành niên.
3. Bô Lao đông - Thương binh và Xã hôi quy đinh danh muc tại điểm g

khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều này.
Bộ luật này còn có các quy định riêng đối với việc sử dụng lao động dưới
15 tuổi. Theo quy định này, được phép sử dụng nhóm lao động dưới 13 cho một
số công việc nhất định. Như vậy, BLLD 2012 đã quan tâm đến từng nhóm người
lao động chưa thành niên, có những quy định cụ thể nhằm bảo vệ lao động trẻ
em khỏi hành vi lạm dụng, cưỡng bức lao động.
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang4


BLLD 2012 còn yêu cầu người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động
chưa thành niên được học văn hóa. Quy định này là tiến bộ của BLLD 2012, thể
hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta trong việc bồi dưỡng, rèn luyện và
nâng cao dân trí cho thế hệ mầm non của đất nước.
3. Quy định về tiền lương và thu nhập
BLLD 2012 không có quy định mới về tiền lương và thu nhập cho nhóm
đối tượng người lao động chưa thành niên.
Vấn đề tiền lương được quy định trong Bộ luật lao động từ Điều 55 đến
Điều 67, được hướng dẫn trong các văn bản pháp luật như: Nghị định số
114/2002/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ
luật lao động về tiền lương; Nghị định số 33/2009/NĐ-CP ngày 06/04/2009 của
Chính phủ quy định mức lương tối thiểu chung. Trách nhiệm quan tâm đến vấn
đề tiền lương của người lao động chưa thành niên được giao cho người sử dụng
lao động theo quy định tại Điều 121 BLLĐ và được quy định như sau: “Ngươi
sử dung lao đông chỉ đươc sử dung ngươi lao đông chưa thành niên vào những
công viêc phù hơp vơi sức khỏe để đảm bảo sự phat triển thể lực, trí lực, nhân
cach và có trach nhiêm quan tâm chăm sóc ngươi lao đông chưa thành niên về
cac mặt lao đông, tiền lương, sức khỏe, học tâp trong qua trình lao đông”.
Ngoài ra, tại Điều 19 Nghị định số 114/2002/NĐ-CP có quy định: “Lao

động chưa thành niên quy định tại Điều 121 của Bộ luật lao động, nếu cùng làm
công việc như lao động thành niên, thì được trả lương như nhau”. Chúng ta đều
biết, có một thực tế là lao động chưa thành niên luôn khác lao động trưởng thành
về mọi phương diện, từ sức khỏe cho đến trình độ chuyên môn, năng suất lao
động và hiệu quả công việc. Do vậy, để có thể làm những công việc như lao
động thành niên là một việc rất khó đối với lao động chưa thành niên. Vậy việc
quy định trả công ngang bằng như trên thực chất không mang lại công bằng cho
đối tượng lao động là trẻ em.
4. Quy định về thời giờ làm viêc, thời giờ nghỉ ngơi

Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang5


Pháp luật lao động hiện hành quy định thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
trong Chương VII của BLLĐ. Theo đó, thời giờ làm việc của lao động trưởng
thành là không quá 8h trong một ngày hoặc 48h trong một tuần. Với đối tượng
lao động chưa thành niên, lao động trẻ em là người tàn tật, thời giờ làm việc
được quy định không được quá 7h một ngày hoặc 42h một tuần (Khoản 1 Điều
122 BLLĐ). Thời giờ nghỉ ngơi của lao động trẻ em được áp dụng theo quy định
chung cho người lao động tại Mục 2 Chương VII BLLĐ từ Điều 71 đến Điều 77
và các văn bản hướng dẫn. Quy định này chưa thực sự hợp lý vì còn khá cao và
chưa chú ý tới sự khác nhau giữa các lao động chưa thành niên ở các giai đoạn
phát triển khác nhau. Vì vậy, đến BLLD 2012, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi của
lao động chưa thành niên được quy định: “Thơi giơ làm viêc của ngươi lao đông
chưa thành niên từ đủ 15 tuôi đến dươi 18 tuôi không đươc qua 08 giơ trong 01
ngày và 40 giơ trong 01 tuần.
Thơi giơ làm viêc của ngươi dươi 15 tuôi không đươc qua 4 giơ trong 01
ngày và 20 giơ trong 01 tuần và không đươc sử dung làm thêm giơ, làm viêc vào

ban đêm.
3. Ngươi từ đủ 15 tuôi đến dươi 18 tuôi đươc làm thêm giơ, làm viêc vào ban
đêm trong môt số nghề và công viêc theo quy đinh của Bô Lao đông - Thương
binh và Xã hôi.”
Các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi trong BLLĐ có ý nghia
hết sức quan trọng đối với lao động trẻ em, góp phần tạo điều kiện cho lao động
trẻ em có thể phát triển toàn diện vể thể lực, trí lực, phục hồi và tái sản xuất sức
lao động, có thời gian chăm lo gia đình, học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn,
trình độ văn hóa và có thời gian tham gia các hoạt động xã hội.
5. Quy định về an toàn lao đông, vê sinh lao đông đối với lao đông trẻ em
Lao động trẻ em là lao động chưa phát triển đầy đủ về mặt thể lực, trí lực.
Do đó, Nhà nước cần có các quy định để đảm bảo sự phát triển bình thường cho
các em khi tham gia quan hệ lao động bằng việc quy định trách nhiệm của người
sử dụng lao động trong vấn đề an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với lao
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang6


động trẻ em.
Khoản 1 Điều 119 BLLĐ có quy định: “Nơi có sử dung ngươi lao đông
chưa thành niên phải lâp sô theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày sinh, công
viêc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khỏe đinh kỳ và xuất trình khi
thanh tra viên lao đông yêu cầu”. Điều 121 BLLĐ cũng quy định trách nhiệm
quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành niên về mặt sức khỏe thuộc về
người sử dụng lao động và đồng thời nghiêm cấm việc sử dụng người lao động
chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với
các chất độc hại hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của
họ theo Danh mục do Bé Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban
hành.

Đối với trẻ em dưới 15 tuổi khi tham gia quan hệ lao động, pháp luật lao
động quy định người sử dụng lao động phải có trách nhiệm: lập sổ theo dõi
riêng; Phải kiểm tra sức khỏe của các em trước khi tuyển dụng và tiến hành
kiểm tra sức khoẻ định kỳ, ít nhất 6 tháng 1 lần; Chịu trách nhiệm về sự an toàn
và sức khoẻ của trẻ em trong quá trình làm việc (Điều 1 Mục III Thông tư
21/1999/TT-BLĐTBXH).
Ngoài các quy định trên, Nhà nước còn quy định trách nhiệm cho tổ chức
công đoàn và thanh tra Nhà nước trong kiểm tra, quản lý việc bảo đảm an toàn lao
động, vệ sinh lao động cho người lao động, nhất là lao động trẻ em..
6. Quy định về kỷ luật lao đông, trach nhiêm vật chất với lao đông trẻ em
Theo quy định tại Điều 84 BLLĐ, trong trường hợp vi phạm kỷ luật lao
động, tùy theo mức độ phạm lỗi, người lao động chưa thành niên có thể bị xử lý
theo một trong những hình thức sau: khiển trách; kéo dài thời hạn nâng lương
không quá 6 tháng hoặc chuyển sang làm công việc khác có mức lương thấp hơn
trong thời hạn tối đa là 6 tháng hoặc cách chức và sa thải. Việc xử lý kỷ luật lao
động được quy định tại Chương VIII của BLLĐ và được cụ thể hóa tại Nghị
định số 41/CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về

Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang7


kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất, Nghị định số 33/2003/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 41/CP.
II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TẠI VIỆT NAM
1. Thực trạng
Ở VN cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, trẻ em phải tham gia
lao động kiếm sống sớm. Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội, trong năm 2011, cả nước có khoảng 30.000 trẻ em phải tham gia vào các

hình thức lao động.
Có thể thấy, ở Việt nam hiện nay, nhu cầu sử dụng lao động trẻ em ngày
càng lớn. Tuy nhiên, việc vi phạm quy định pháp luật trong sử dụng lao động trẻ
em ở Việt Nam vẫn còn rất phổ biến, thể hiện ở một số mặt như sau:
Vi phạm về kê khai thông tin: theo một khảo sát mới đây, Không ít trẻ em
dưới 15 tuổi đang phải làm các nghề: bưng bê, phục vụ, giúp việc gia đình.
Nhóm LĐ này thường không công khai danh tính mà núp dưới quan hệ “con
cháu trong nhà”.
Vi phạm quy định về độ tuổi lao động: Pháp luật lao động Việt Nam cũng
như ILO đều quy định “Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi”. Tuy nhiên,
theo khảo sát của Viện Khoa học lao động và xã hội thì lao động trẻ em thường
ở độ tuổi từ 10-14 tuổi, chiếm 72,6% tổng số trẻ em đang tham gia lao động
được khảo sát. Tiếp đến là nhóm tuổi từ 15-17 tuổi (chiếm 17%) và nhóm 6-9
tuổi (chiếm khoảng 10%)1. Như vậy, việc sử dụng lao động dưới 15 tuổi diễn ra
rất phổ biến.
Vi phạm quy định về việc làm và hợp đồng lao động: Khảo sát cũng cho
thấy lao động trẻ em đang làm việc chiếm tỷ trọng cao nhất trong linh vực nông
nghiệp, thương mại - dịch vụ và thấp nhất là trong linh vực công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp. Trẻ em lao động tập trung nhiều trong một số công việc điển
hình như đi biển ở Quảng Ninh, khai thác đá ở Hà Tinh, khai thác vàng ở Nghệ
An, chế biến cá bò ở Quảng Nam, khai thác mủ cao su ở Gia Lai, làm việc trong
các lò gạch ngói ở An Giang, làm việc nhiều giờ trong điều kiện làm việc tồi tàn
1

/>
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang8



tại các xưởng may tư nhân, sản xuất chế biến tư nhân tại Hà Nội, Tp.HCM. Có
thể thấy, đây là những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, có ảnh hưởng tiêu cực
đến sức khỏe, sự phát triển về thể lực và trí lực của trẻ em.
Khi tuyển dụng lao động trẻ em, chủ sử dụng lao động thường không ký kết
hợp đồng lao động. Nhiều trường hợp, đối với lao động dưới 15 tuổi chưa có
văn bản thể hiện sự đồng ý của cha mẹ hoặc người đỡ đầu.
Vi phạm quy định trong quá trình sử dụng lao động: Kết quả khảo sát gần
đây nhất do Sở LĐTB&XH Hà Nội thực hiện tại một số quận, huyện với khoảng
800 trường hợp trẻ em phải LĐ sớm cho thấy: trong số trẻ tham gia LĐ nặng
nhọc, độc hại, có gần 85% đang đi học (18,3% đang học tiểu học, 54,57% đang
học THCS, 27% đang học THPT). Có em bị bóc lột sức LĐ trong suốt thời gian
dài mà không ai hay biết, có nhiều bé gái rơi vào tình trạng bị cưỡng bức…
Thường xuyên phải LĐ trong môi trường không đảm bảo an toàn là công
nhân của nhiều xưởng sản xuất nhỏ, làng nghề. Tại Hà Nội, phần lớn trong tổng
số 272 làng nghề được công nhận tại 18 huyện, quận Hà Đông và thị xã Sơn Tây
chưa có nơi sản xuất riêng biệt, nhà xưởng tạm bợ, gần 2/3 làng nghề tiềm ẩn
nhiều nguy cơ gây cháy nổ2.


Về thời giờ làm việc: Thời gian làm việc bình quân theo ngày của

lao động trẻ em phổ biến ở mức từ 4-5 giờ. Nhóm lao động trẻ em làm thuê có
thời gian làm việc trong ngày nhiều nhất trong số lao động trẻ em với thời gian
làm việc trên 6 giờ/ ngày, thậm chí tại những cơ sở may, chế biến thực phẩm vào
mùa vụ sản xuất có thể làm việc tới 8-9 giờ hoặc 10-12 giờ/ ngày. Việc sử dụng
lao động này đã vi phạm quy định về thời giờ làm việc đối với lao động trẻ em.
Chủ sử dụng lao động thường xem việc tuyển dụng lao động trẻ em là sự
tận dụng nguồn nhân công rẻ mạt, nên mức lương áp dụng đối với lao động trẻ
em thường phổ biến từ 400- 800 nghìn đồng/tháng tùy theo tính chất loại việc.
Có thể nhận thấy, việc sử dụng lao động trẻ em trong các công việc nặng

nhọc, nguy hiểm, môi trường làm việc không được đảm bảo tốt, cùng với thời
2

/>
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang9


gian lao động kéo dài và mức lương thấp chính là biểu hiện của việc bóc lột lao
động trẻ em. Và hiện nay ngày càng xuất hiện thêm nhiều hình thức sử dụng lao
động trẻ em trá hình, nhiều cách bóc lột sức lao động trẻ em tinh vi. Có nhiều cơ
sở sản xuất sử dụng lao động trẻ em lập lờ danh nghia “lao động giúp đỡ gia
đình” để bóc lột sức lao động của trẻ. Trẻ em lao động tại các cơ sở này được
biện minh là con cái, họ hàng chứ không phải đối tượng lao động đi thuê...
2. Nguyên nhân
Thực trạng sử dụng lao động trẻ em như trên xuất phát từ một số nguyên
nhân sau:
Một là, các quy định của pháp luật về việc sử dụng lao động trẻ em chưa rõ
ràng, thống nhất và hợp lý. Ví dụ như cùng một nhóm đối tượng từ 15 tuổi cho
đến dưới 16 tuổi trong BLLĐ và Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em lại
được gọi khác nhau: “lao động trẻ em” và “lao động chưa thành niên”. Điều này
sẽ gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc áp dụng luật trên thực tế,
như đối với trường hợp người sử dụng lao động sử dụng nhóm đối tượng từ 15
tuổi đến dưới 16 tuổi làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với
chất độc hại thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng điểm b khoản 2 Điều 13 của
Nghị định số 47/2010/NĐ-CP để xử lý. Nhưng sau khi xử phạt xong, người sử
dụng lao động vẫn tiếp tục vi phạm thì khó xử lý tiếp theo Điều 228 BLHS
(người nào sử dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc
với các chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định gây hậu quả nghiêm

trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt
tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai
năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm…). Đó là do quy định trong Điều 228
chỉ áp dụng đối với hành vi vi phạm sử dụng lao đông trẻ em, nhưng với nhóm
từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi lại được hiểu là “lao động trẻ em” hoặc “lao động
chưa thành niên” nên sẽ dẫn đến việc lúng túng khi áp dụng Điều 228 của
BLHS.

Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang10


Quy định về mức xử lý vi phạm hành chính dành cho các hành vi vi phạm
pháp luật lao động về vấn đề lao động trẻ em còn quá thấp, chưa tạo ra tính răn
đe và giáo dục. Điều 13 Nghị định số 47/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành
chính trong linh vực lao động quy đinh: phạt tiền từ 300.000 đồng đến 3.000.000
đồng đối với tổ chức, cá nhân có một trong các hành vi: Không lâp sô theo dõi;
không kiểm tra sức khỏe đinh kỳ; lạm dung sức lao đông của ngươi lao đông
chưa thành niên quy đinh tại Điều 119 BLLĐ đã đươc sửa đôi bô sung; Sử dung
lao đông chưa thành niên và ngươi tàn tât làm viêc qua 7h môt ngày hoặc 42h
môt tuần quy đinh tại khoản 1 Điều 122 và khoản 4 Điều 125 BLLĐ đã sửa đôi,
bô sung. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với người sử
dụng lao động có hành vi: Sử dung lao đông chưa thành niên làm những công
viêc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc vơi cac chất đôc hại hoặc chỗ làm
viêc; công viêc ảnh hưởng xấu tơi nhân cach của ngươi lao đông chưa thành
niên theo danh muc do Bô Lao đông - Thương binh và Xã hôi và Bô Y tế ban
hành đươc quy đinh tại Điều 121 của Bô luât lao đông đã đươc sửa đôi, bô
sung.
Bộ Luật hình sự 1999 cũng có quy định về vấn đề này tại Điều 228, theo đó

người nào sử dụng trẻ em làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp
xúc với các chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định gây hậu quả
nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì
bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cải tạo không giam giữ đến
hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Thuộc một trong các trường hợp
sau: phạm tội nhiều lần, đối với nhiều trẻ em, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Ngoài ra, người
phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Từ những quy định trên, ta có thể thấy mức xử lý vi phạm hành chính dành
cho các hành vi vi phạm pháp luật lao động về vấn đề lao động trẻ em còn quá
thấp, chưa tạo ra tính răn đe và giáo dục cho những chủ sử dụng lao động có
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang11


hành vi vi phạm. Vì thế, trên thực tế có rất nhiều chủ sử dụng lao động bị xử
phạt hành chính nhưng sau đó vẫn tiếp tục vi phạm. Bởi lợi nhuận mà họ thu
được từ sức lao động của trẻ em lớn hơn mức xử phạt đó gấp nhiều lần.
Hai là, hoạt động thanh tra và thực thi pháp luật lao động chưa được tiến
hành một cách thống nhất, đồng bộ và mạnh mẽ, dẫn đến có những vi phạm các
điều khoản của pháp luật lao động về lao động người chưa thành niên chưa bị
phát hiện.
Ba là, thiếu cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thực thi pháp luật và các cơ
sở hỗ trợ trẻ em, để đảm bảo rằng trẻ em được cứu thoát khỏi tình trạng bóc lột
lao động, được bảo vệ và hỗ trợ để phục hồi và tái hòa nhập.
Bốn là, do ý thức pháp luật của chủ sử dụng lao động và lao động trẻ em
còn hạn chế. Về phía chủ sử dụng lao động vì lợi ích kinh tế và sự thiếu hiểu
biết các quy định của pháp luật về sử dụng lao động trẻ em, nên dẫn đến vi phạm
pháp luật. Về phía lao động trẻ em do cuộc sống khó khăn, điều kiện sống nghèo

nàn và nhận thức còn hạn chế, nên đã chấp nhận tham gia lao động với những
điều kiện lao động không được đảm bảo.
III. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Để hạn chế tình trạng lao động trẻ em, cùng với việc triển khai thực hiện
các hoạt động ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị
xâm hại và trẻ em phải lao động nặng nhọc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm
thì cần phối hợp đồng bộ các biện pháp sau:
Thứ nhất, việc xem xét bồi thường trách nhiệm vật chất đối với lao động trẻ
em là rất khó khăn do đa số các em đều chưa có tài sản riêng, vì nghèo khó nên
mới phải lao động, mức độ nhận thức, xử lý tình huống còn yếu. Vì vậy, để việc
xử lý kỷ luật và bồi thường trách nhiệm vật chất vừa đảm bảo chức năng giáo
dục người lao động, vừa đảm bảo quyền lợi chính đáng và sự phát triển bình
thường của các em sau này cũng cần có những quy định riêng về vấn đề này đối
với lao động trẻ em chứ không thể áp dụng những quy định chung như những
lao động thành niên. Vấn đề này chưa được giải quyết trong BLLD 2012.
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang12


Thứ hai, Nghị định số 47/2010/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính
trong linh vực lao động và Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 03/10/2006 quy
định về xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em chưa có quy định về chế
tài xử phạt đối với hành vi sử dụng người dưới 15 tuổi làm các công việc ngoài
danh mục cho phép cũng như mức xử lý vi phạm hành chính dành cho các hành
vi vi phạm pháp luật lao động về vấn đề lao động trẻ em còn quá thấp . Đây
cũng là một trong những tồn tại, hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ em và lao động
chưa thành niên phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm
không được ngăn chặn kịp thời. Vì vậy, trong thời gian tới cần nghiên cứu bổ
sung Nghị định 47/2010/NĐ-CP đối với hành vi sử dụng lao động trẻ em dưới

15 tuổi không nằm trong danh mục và nâng cao mức xử phạt quy định trong các
văn bản này để tăng tính răn đe và hạn chế hành vi vi phạm. Cụ thể, chúng ta
cần nhanh chóng thông qua Dự thảo Nghị định xử phạt hành chính trong linh
vực lao động, phê chuẩn quy định: Phạt từ 10-30 triệu đồng đối với hành vi
không lập sổ theo dõi sức khoẻ định kỳ, lạm dụng sức LĐ của người chưa thành
niên. Phạt từ 20-40 triệu đồng nếu không thực hiện quy định: tạo cơ hội để LĐ
chưa thành niên được học văn hoá. Người sử dụng LĐ còn phải có trách nhiệm
bố trí giờ làm việc không ảnh hưởng đến giờ học tại trường của các em. Mức
phạt tăng từ 50-75 triệu đồng nếu sử dụng LĐ là người chưa thành niên làm các
công việc và làm ở nơi làm việc bị pháp luật cấm như: mang, vác các vật nặng
vượt quá thể trọng; sản xuất, vận chuyển hoá chất, khí gas, chất nổ, làm việc
trong đường hầm, công trường xây dựng, cơ sở giết mổ gia súc, sòng bạc, vũ
trường… và những “công việc khác”, “những nơi làm việc khác” gây tổn hại
đến “sức khoẻ và đạo đức của người chưa thành niên”.
Thứ ba, tăng cường cơ chế kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật có
liên quan đến lao động trẻ em ở các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có sử dụng
lao động trẻ em, ngoài việc bồi dưỡng, đào tạo kiến thức cho thanh tra lao động,
Nhà nước cần huy động các bộ, ngành, các tổ chức xã hội và các tổ chức chính
trị - xã hội vào việc thực hiện cơ chế liên ngành về thanh tra lao động về lao
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang13


động trẻ em trong các khu vực không kết cấu, khu vực nông nghiệp, khu vực
việc làm tại nhà.
Thứ tư, giới thiệu một cơ chế phối hợp rõ ràng để đảm bảo những trẻ em
được đưa ra khỏi những công việc độc hại và bóc lột được hỗ trợ phục hồi và tái
hòa nhập. Đặc biệt là, song song với việc trẻ em rút khỏi các công việc không
phù hợp, cần phải có các biện pháp hỗ trợ cho cả trẻ em và gia đình các em, ví

dụ như dịch vụ y tế, tham vấn sâu, tiếp tục học văn hóa, học nghề, gia đình chăm
sóc thay thế, hỗ trợ nâng cao thu nhập cho gia đình để giảm sự phụ thuộc của gia
đình vào thu nhập mà trẻ kiếm được. Mạng lưới tư vấn hiện nay và các dịch vụ
hỗ trợ khác (mái ấm, nhà mở, cơ sở đào tạo việc làm, lớp học tình thương…)
cần được mở rộng để tư vấn và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em và người chưa
thành niên từng làm việc trong môi trường độc hại, nguy hiểm.
Thứ năm, hiện nay, sự chia sẻ của lực lượng liên ngành (thanh tra LĐ,
công an, chính quyền địa phương) là không đáng kể. Muốn thành lập đoàn thanh
tra liên ngành phải được cấp có thẩm quyền ra văn bản. Đoàn cũng chỉ thực thi
nhiệm vụ trong thời gian hạn định ở một số địa bàn nhất định mà thôi. Với
tương quan quá “lệch” như vậy, thì việc thanh tra LĐ bỏ lọt nhiều hành vi vi
phạm là điều không tránh khỏi. Các cơ quan chức năng cần phối hợp đẩy mạnh
hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục để mọi người thấy được tác hại của lao
động trẻ em và đấu tranh chống bóc lột lao động trẻ em; cần quan tâm cho các
hộ nghèo vay vốn và hướng dẫn họ phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống, sớm
thoát khỏi đói nghèo.
Thứ sáu, để văn bản luật đi vào cuộc sống thì cần xây dựng một lộ trình
nhằm khắc phục những bất cập đang hiện hữu. Đó là sự thiếu hụt lực lượng
thanh tra LĐ và yếu tố đảm bảo chế tài được thực thi. Vì theo ông Nguyễn Vi
Hùng – nguyên Chánh thanh tra Sở LĐTB&XH nhận định: đang có sự thiếu hụt
lớn về lực lượng thanh tra LĐ. Chỉ có cấp trung ương (Bộ LĐTB&XH) và thành
phố (Sở LĐTB&XH) mới có thanh tra viên LĐ. Họ được đào tạo, được Nhà
nước cấp thẻ, trao quyền và hoạt động theo Luật Thanh tra. Chỉ lực lượng này
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang14


mới được phép đến các cơ sở có sử dụng LĐ để thanh, kiểm tra 3. Hơn nữa, hiện
nay, thanh tra của Sở LĐTB&XH chỉ có hơn mười người. Lực lượng này đang

phải đảm đương khối lượng công việc quá lớn: thanh tra dạy nghề, học nghề;
thực hiện chính sách người có công; xoá đói giảm nghèo… chỉ tính riêng thanh
tra về linh vực LĐ, họ đã phải đối diện với “cả núi” việc.
Thứ bảy, nhà trường cũng như toàn xã hội cần quan tâm tạo mọi điều kiện
để trẻ em được đến trường học tập như: miễn giảm các khoản chi phí học tập
cho trẻ em nghèo, tổ chức phụ đạo giúp các em học yếu bồi đắp kiến thức để kịp
với bạn bè… cha mẹ cần quan tâm và tạo điều kiện cho con em học tập, vui
chơi, giải trí để phát triển thể chất và trí tuệ; giáo dục con cái lòng yêu lao động,
biết giá trị của lao động, giúp con cái hình thành nhân cách thông qua lao động
hàng ngày, không bắt con cái lao động quá sức nhằm mục đích kinh tế.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trong nền kinh tế thị trường, việc sản xuất gia tăng kéo theo nhu cầu về
thu nhập và nguồn lực lao động. Lao động trẻ em – dễ tìm kiếm, tiền công thấp
và dễ sai bảo, đó là những lý do khiến chủ sử dụng lao động lựa chọn lao động
trẻ em. Vì lao động trẻ em là đối tượng dễ bị lạm dụng do nhận thức và khả năng
phản kháng thấp nên pháp luật cần có những quy định phù hợp nhằm bảo vệ tối
đa cho nhóm lao động này. Hy vọng BLLD 2012 và dự thảo Nghị định xử phạt
hành chính trong linh vực lao động khi được thông qua sẽ làm tròn trọng trách
này.

3

/>
Bài tâp nhóm số 02 CN Luât lao đông- ASXH

Trang15




×