Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Quy định của pháp luật về ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác và thực tiễn thực h

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.53 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Cạnh tranh là một hiện tượng khách quan tồn tại gắn liền với nền kinh tế thị
trường. Môi trường cạnh tranh là môi trường mà ở đó các doanh nghiệp phải vận
động, đổi mới, cải tiến không chỉ về công nghệ, chủng loại mà cả kiểu dáng sản
phẩm, phương thức kinh doanh. Thực tế đã chứng minh, những doanh nghiệp có
ưu thế sẽ thắng trong cuộc đua cạnh tranh, uy tín và lợi nhuận thu được sẽ ở mức
tăng cao, còn các doanh nghiệp không đủ năng lực để cạnh tranh sẽ gặp nhiều
khó khăn và có nguy cơ phá sản. Nhằm đạt được mục đích lợi nhuận, doanh thu,
thị phần,… doanh nghiệp nào cũng mong muốn kiểm soát được giá cả và các
yếu tố khác của thị trường như cung cầu, số lượng đối thủ tham gia cạnh tranh –
tức mong muốn có được sức mạnh thị trường. Vì mục tiêu đó, không ít các
doanh nghiệp đã sử dụng các hành vi cạnh tranh không lành mạnh làm xâm
phạm tới lợi ích của doanh nghiệp khác, lợi ích của người tiêu dùng và lợi ích
của toàn xã hội. Trong nội dung bài tập này, xin được nghiên cứu về các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh : ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp
khác, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác và thực tiễn thực
hiện
I.

Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
Cạnh tranh không lành mạnh được hiểu là những hành vi đi ngược lại nguyên

tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh, xâm phạm lợi ích của các chủ
thể kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dung và lợi ích chung của xã hội.
Dưới góc độ pháp lý, có nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh không lành
mạnh. Theo điều 10 Bis công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp :
“Cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi cạnh tranh không trung thực, vi
phạm nguyên tắc cơ bản của đạo đức kinh doanh, được tiến hành trong quá
trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nhằm hưởng lợi bất hợp pháp từ thành quả
kinh doanh của người khác hoặc gièm pha đối thủ cạnh tranh, qua đó giành giật


khách hàng về phía mình …”. Tại định nghĩa này có thể thấy tiêu chí đánh giá
1


quan trọng nhất về tình lành mạnh của một hành vi cạnh tranh chính là “ các
thông lệ trung thực và thiện chí” không rõ ràng và ổn định, và ở mỗi quốc gia có
thể có những khác biệt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi
quốc gia đó.
Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam ra đời đã đưa ra khái niệm về cạnh tranh
không lành mạnh tại Khoản 4 điều 3 như sau : “ Hành vi cạnh tranh không lành
mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái
với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại đến lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác và của
người tiêu dùng”. Tại định nghĩa này của Luật Cạnh tranh 2004 ta thấy nó có sự
đồng nhất với quy định tại Điều 10 Bis công ước Paris khi chỉ quy định khá “
chung chung” về hành vi cạnh tranh không lành mạnh [3] . Tuy nhiên với sự ra
đời của Luật Cạnh tranh 2004 đã đánh dấu bước phát triển quan trọng trong việc
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật cho nền kinh tế
thị trường ở nước ta.
1. Ép buộc trong kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp,
trong đó có quyền tự do lựa chọn đối tác kinh doanh là quyền quan trọng được
pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Phát huy quyền này, các doanh nghiệp phát huy
những thế mạnh, những sáng tạo trong kinh doanh của mình. Trong quá trình
kinh doanh, tùy thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp mà họ có thể lựa chọn cho
mình những đối tác kinh doanh phù hợp nhất. Về nguyên tắc không ai được can
thiệp vào sự lựa chọn đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng ý
thức được điều này. Để đạt được mục đích trong kinh doanh, doanh nghiệp
không ngần ngại xâm phạm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp khác
nhằm gây ra những thiệt hại, sự bị động trong quá trình cạnh tranh. Bên cạnh đó,

khách hàng đôi khi cũng là đối tượng của những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, chi phối tới quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp khác. Vì mục tiêu
đạt được lợi thế cạnh tranh, chủ thể kinh doanh có thể sử dụng hành vi cạnh
2


tranh không lành mạnh thông qua việc dồn ép khách hàng vào tình thế bắt buộc
Luật Cạnh tranh 2004 ra đời cũng có những quy định nhằm chống lại những
hành vi này, Điều 42 quy định: " Cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng, đối
tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi cưỡng đe dọa hoặc cưỡng
ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó".
Theo quy định này, có hai hành vi ép buộc trong kinh doanh bị cấm:
-

Thứ nhất: đe dọa đối tác kinh doanh và khách hàng của doanh nghiệp là đối
thủ cạnh tranh. Dùng những công cụ, phương tiện tác động đến tâm lý lựa
chọn, sự lựa chọn đúng đắn của khách hàng vào doanh nghiệp. Làm cho họ
có cảm giác lo sợ, buộc phải thực hiện những hành vi ngoài ý muốn.

Hành vi đe dọa có thể là đe dọa về vật chất ( phổ biến hiện nay là các nhà sản
xuất lớn thường đe dọa cắt đứt quan hệ đại lý với một số cửa hang nhỏ bán hang
cho mình nếu như các cửa hang này cùng một thời điểm nhận đại lý bán các mặt
hàng cạnh tranh cho các nhà sản xuất khác); có thể là những đe dọa về tinh thần
như: trừng phạt về kinh tế, tiết lộ bí mật đời tư, cắt hợp đồng … Tuy nhiên, hành vi
đe dọa phải mang tính chất hiện hữu và có thể thực hiện ngay được, đồng thời nó
phải hướng vào một chủ thể xác định chứ không phải hành vi đe dọa mang tính
bâng quơ, hời hợt, ám chỉ.
-

Thứ hai, cướng ép đối tác kinh doanh và khách hàng của doanh nghiệp là đối

thủ cạnh tranh. Biểu hiện của hành vi này là việc sử dụng những lợi ích vật
chất, đưa ra điều kiện liên quan đến công việc, đưa ra những lời hứa hẹn hấp
dẫn… để đặt doanh nghiệp, đối tác cạnh tranh, khách hàng vào những tình
thế bị động, khiến họ không còn lựa chọn nào khác trong cách xử sự của
mình. Do đó không thể biểu hiện ý chí một cách đúng đắn được.[4]

Như vậy, hành vi ép buộc trong kinh doanh thực sự gây ra những tác động xấu
đối với môi trường cạnh tranh, gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh đồng thời gây ra
những ảnh hưởng xấu tới khách hàng. Thực chất hành vi này giống như một sự
“cấm vận kinh tế” đối với doanh nghiệp, nó gây cho doanh nghiệp những khó khăn
trong quá trình kinh doanh hợp pháp. Chính điều này sẽ kìm hãm sự hình thành một
3


môi trường kinh doanh thực sự văn hóa, lành mạnh. Để đảm bảo quyền tự do kinh
doanh của doanh nghiệp, quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, bước đầu pháp
luật đã có những điều chỉnh nhất định. Tuy nhiên những quy định này mới chỉ tiếp
cận ở mức độ khái quát nhất. Vì thế, để ngăn chặn những hành vi này cần có những
hướng dẫn cụ thể và những chế tài đủ mạnh để xử lý kịp thời những hành vi đó.
2. Dèm pha trong kinh doanh
Trong đời sống xã hội, hiện tượng vu khống, dèm pha, tung tin thất thiệt nhằm
mục đích vu khống, hạ thấp uy tín, danh dự của người khác là điều khá phổ biến.
Để bảo vệ danh dự, uy tín nhân phẩm của cá nhân , pháp luật đã có những quy định
nhằm xử lý những hành vi này bằng những chế tài dân sự, hành chính hay thậm chí
là hình sự.
Trong kinh doanh, việc ở trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt khến nhiều
doanh nghiệp sẵn sàng sử dụng những biện pháp dèm pha, nói xấu, hạ thấp uy tính
sản phẩm cạnh tranh hoặc chính đối thủ cạnh tranh như là một công cụ hữu hiệu để
giành được ưu thế trên thị trường. Hành vi này không những gây tổn hại đến lợi ích
của doanh nghiệp khác mà ở một khía cạnh nào đó, nó còn gây ra sự đánh giá sai

lệch từ phía nhận thức của người tiêu dung. Để ngăn chặn hành vi này, Điều 43 Luật
Cạnh tranh 2004 quy định : “ Cấm doanh nghiệp dèm pha doanh nghiệp khác bằng
hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra những thong tin không trung thực, gây ảnh
hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và những hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đó”
Hành vi này được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau từ đơn giản như
tung tin đồn thất thiệt cho đến việc sử dụng những phương tiện thông tin đại chúng,
thậm chí là mạng lưới thông tin toàn cầu Iternet. Có thể thực hiện một cách trực tiếp
đối với sản phẩm hoặc đối thủ cạnh tranh hay thực hiện gián tiếp với mục đích “ám
chỉ”. Đi sâu vào xem xét, ta thấy với hành vi dèm pha doanh nghiệp khác có thể
được biểu hiện dưới những hình thức sau đây:
2.1.1 . Đưa thông tin sai lệch về chất lượng sản phẩm
4


Đối với khách hàng, chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ là điều mà họ quan
tâm nhất. Chính vì thế mà doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để nâng cao chất lượng
hàng hóa, sản phẩm của mình để lôi kéo, thuyết phục khách hàng sử dụng. Chính
nguyên nhân này mà nhiều khi doanh nghiệp lại đánh vào tâm lý nghi ngờ của
người tiêu dùng đối với những sản phẩm của đối thủ cạnh tranh mà chất lượng của
họ đã được khẳng định, bằng cách đưa ra những thông tin sai lệch. Người tiêu dùng
thường không có khả năng kiểm chứng những thông tin đó nên nhiều khi chỉ cần có
thông tin xấu về sản phẩm thì họ sẽ ngần ngại hoặc thậm chí dừng việc sử dụng sản
phẩm đó. Bằng cách này, doanh nghiệp đã “nhen nhóm” sự nghi ngờ của khách
hàng trong việc sử dụng những hàng hóa, dịch vụ của đối thủ mình. Hành vi này có
thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy tín cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp,
việc khắc phục hậu quả của hành vi này cũng là điều vô cùng khó khan. Đây có thể
coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính cổ điển nhất và biểu hiện của
nó cũng khá phổ biến trong môi trường cạnh tranh.[3]
Ví dụ: Tháng 11/2007, công ty TNHH Trung Thông khiếu nại công ty gas

Petrolomex Đà Nẵng có hành vi gièm pha doanh nghiệp khác liên quan đến kinh
doanh ga.1
2.2. Thông tin sai lệch ảnh hưởng đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Hành vi này về bản chất là gây cho khách hàng những ấn tượng xấu về đối
thủ cạnh tranh. Thủ đoạn mà các doanh nghiệp dùng có thể đưa ra những thông tin
sai lệch về nhân thân, cuộc sống riêng tư của chủ doanh nghiệp, cách hành xử của
doanh nghiệp đối với người khác. Hay cũng có thể là những thông tin xấu nhằm vào
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Những thông tin này có thể gây cho đối tác
đang làm ăn, giao dịch với doanh nghiệp cảm thấy không yên tâm, từ đó dẫn đến
công việc kinh doanh ít nhiều gặp phải những bất lợi. Ví dụ như việc T. cho đăng
tải các bài viết có những đánh giá chủ quan, không có căn cứ, chỉ trích, cho rằng X.

1

/>
5


đã “qua cầu rút ván”, “kinh doanh thiếu văn hóa”, “thiếu đạo đức trong kinh
doanh”, “tàn nhẫn và thủ đoạn” và “không có chữ tín”, “không đáng tin cậy”... 2
Như vậy, hành vi dèm pha doanh nghiệp khác là hiện tượng khá phổ biến
trong nền kinh tế thị trường hiện nay khi mà yếu tố lợi nhuận đã khiến những doanh
nghiệp dùng những thủ đoạn mà pháp luật gọi là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh để hạ uy tín hay thậm chí là loại bỏ đối thủ cạnh tranh của mình. Hành vi này
không những gây ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp khác mà nó còn ảnh hưởng đến
quyền lợi của người tiêu dùng khi mà người tiêu dùng không thể có những đánh giá
đúng đắn về những thông tin đó, từ đấy không dám tiếp nhận những hàng hóa, dịch
vụ mà mình cho là phù hợp.
Tuy nhiên không phải bất kỳ thông tin nào gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp

khác đều bị cho là hành vi dèm pha doanh nghiệp. Nó cần đáp ứng những tiêu chí
sau:
-

Thứ nhất: hành vi này phải xuất phát từ đối thủ cạnh tranh và vì mục đích cạnh
tranh. Bởi lẽ, gốc rễ của hành vi dèm pha là nhằm hạ thấp uy tín của đối thủ
cạnh tranh, từ đó lôi kéo khách hàng về phía mình để thu lợi nhuận. Chính vì
thế, nếu hành vi trên không do đối thủ cạnh tranh thực hiện và không nhằm mục
đích cạnh tranh thì nó không chịu chế tài của pháp luật

-

Thứ hai: hành vi cạnh tranh này phải nhằm vào đối thủ cạnh tranh trong một thị
trường liên quan ( bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý
liên quan). Đối thủ cạnh tranh được xác định kể từ khi doanh nghiệp đó tham gia
vào thị trường.
Một điều cần lưu ý nữa là chúng ta cần phân biệt giữa hành vi dèm pha
doanh nghiệp với quyền tự do ngôn luận được pháp luật ghi nhận như một quyền
cơ bản của con người. những đánh giá, thông tin của đối thủ cạnh tranh có tính
chính xác cao có bị coi là “dèm pha doanh nghiệp khác” hay không? Điều này
pháp luật chưa làm rõ. Tuy nhiên trong đời sống xã hội, khái niệm của từ gièm
pha được sử dụng khi đưa ra những thong tin không chính xác nhằm bôi nhọ uy

2

/>
6


tín danh dự nhân phẩm cũng như ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Vậy nên

với những thông tin có tính chính xác của doanh nghiệp cạnh tranh đưa ra nhằm
hạ bệ đối thủ, theo quan điểm của tôi không bị coi là “gièm pha doanh nghiệp”
bởi tính chính xác của thông tin cũng như vì quyền lợi của người tiêu dung cần
được biết về những thông tin đó,
3. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, chủ thể kinh doanh có thể sử dụng bất kỳ
phương tiện cạnh tranh hợp pháp nào để đạt được lợi thế trong kinh doanh. Nhưng
để cạnh tranh trên thị trường, nhiều khi các doanh nghiệp sử dụng những thủ đoạn
tác động vào một công đoạn nầo đó của hoạt động kinh doanh nhằm làm cho hoạt
động của doanh nghiệp cạnh tranh lâm vào tình trạng rối loạn, đảo lộn gây ảnh
hưởng nghiêm trọng cho doanh nghiệp cả về kinh tế lẫn uy tín trên thị trường. Để
đảm bảo quyền kinh doanh của các chủ thể trên thị trường, điều 44 Luật Cạnh tranh
2004 quy định: “ Cấm doanh nghiệp gấy rối hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hay gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp đó.”.
Trong pháp luật của một số quốc gia ( như Hoa kỳ), 3 hành vi cạnh tranh không
lành mạnh đó là : ép buộc trong kinh doanh, dèm pha trong kinh doanh và gấy rối
hoạt động kinh doanh được gộp vào trong cùng một quy định. Tuy nhiên, với luật
Cạnh tranh của nước ta, do sự khác biệt về tính chất giữa ba hành vi này mà pháp
luật có sự tách bạch thành những hành vi khác nhau 3. Hành vi gây rối hoạt động
doanh nghiệp được biểu hiện dưới hai hình thức:
-

Thứ nhất là hành vi nhằm cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
khác. Hành vi này được thể hiện dưới những hình thức như tác động trực tiếp
tới nguồn nguyên liệu, cản trở việc tiêu thụ hàng hoá, ép giá … nó làm cho
doanh nghiệp gặp những khó khăn nhất định trong quá trình kinh doanh. Mặt
dù được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng các hành vi thuộc

3


Ép buộc trong kinh doanh sử dụng các thủ đoạn có tính chất côn đồ với khách hang, với đối tác kinh doanh của
doanh nghiệp khác; Dèm pha doanh nghiệp: Sử dụng thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác; Gây rối
doanh nghiệp: là sử dụng bất kỳ công cụ nào ngoài những thủ đoạn nói trên.

7


nhóm này đều có chung mục đích là tác động gây ra sự chậm trễ, những cản
trở trong quá trình kinh doanh, làm cho doanh nghiệp không thể tiến hành
hoạt động kinh doanh một cách bình thường được, từ đó ảnh hưởng đến lợi
ích kinh tế, uy tín, mất đi những lợi thế cạnh tranh.
-

Thứ hai, những hành vi làm gián đoạn hoạt động kinh doanh. Cũng giống
như những hành vi ở nhóm một, những hành vi ở nhóm này cũng làm cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không thể tiến hành một cách bình
thường được. Biểu hiện của hành vi này cũng rất phong phú và đa dạng,
nhưng nhìn chung chúng đều có chung mục đích đó là làm cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp bị “lệch đường ray” và phải “chững lại một
thời gian. Nó có thể là hành vi mua chuộc, dụ dỗ cán bộ công nhân kỹ thuật
và có trình độ cao của doanh nghiệp hay là hành vi kích động, xúi giục công
nhân bãi công, đình công làm cho hoạt động kinh doanh bị ngừng trệ. Việc
công nhân kỹ thuật có trình độ cao chuyển sang doanh nghiệp khác do có sự
mua chuộc, dụ dỗ thì đó bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Tương tự vậy, nếu như quyền đình công được là một trong những quyền cơ
bản của người lao động thì khi thực hiện quyền đó, người lao động bị ảnh
hưởng bởi sự kích động lôi kéo của doanh nghiệp khác, biến quyền đình công
này thành “vũ khí” nhằm mục đích cạnh tranh. Đây là hành vi rất nguy hiểm,
nó không chỉ gây cho doanh nghiệp những tổn thất nặng nề mà còn có thể

gây ảnh hưởng xấu tới môi trường kinh doanh chung, thậm chí nhiều khi còn
tác động đến cả một ngành nghề kinh doanh [5]
Ví dụ như vụ việc Bảo Kim bị “tố” cạnh tranh không lành mạnh với Công ty

cổ phần Giải pháp phần mềm Hòa Bình ( PeaceSoff) khi lôi kéo nhân viên để
thu thập và sử dụng thông tin, tài liệu, nguồn dữ liệu khách hàng… của
NganLuong.vn ( dịch vụ ví điện tử phiên bản 1.0 của PeaceSoff) sau đó tiến
hành tiếp xúc với một số khách hàng đang sử dụng NganLuong.vn và thuyết
phục họ chuyển sang dùng Bảo Kim, mặc dù giữa 2 công ty đã có những cam
8


kết không tuyển dụng nhân sự của nhau. 4 Hay như việc công ty GoodSoft. “dụ
dỗ, chèo kéo” nhân viên của công ty Hoàng Trung vào năm 2009 5
Nhìn chung, hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác có thể
gây ra những hậu quả rất nguy hiểm cho doanh nghiệp nói riêng và cho trật tự quản
lý kinh tế nói chung. Luật cạnh tranh 2004 đã bước đầu ghi nhận những hành vi này
và coi đó là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên chế định này bước đầu
cũng mới chỉ được tiếp cận ở khái niệm của hành vi mà chưa đưa ra được những
biểu hiện cụ thể mang tính điển hình. Vì thế trong tương lai, cần có những quy định
bổ sung, tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước trong việc xử lý những hành vi này
II . Thực tiễn pháp luật đối với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trên
1. Ưu điểm của Luật Cạnh tranh đối với việc quy định những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh:
-

Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh, với các quy phạm cấm đoán
được quy định trong Luật cạnh tranh 2004 đã lần đầu định danh đối với các

hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các quy định này về cơ bản đã phản
ánh thực tại khách quan về các dạng biểu hiện của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh đang diễn ra trên thực tế cần có sự điều chỉnh của pháp luật.

-

Sự ghi nhận về những hành vi bị coi là hành vi cạnh tranh không lạnh mạnh
và những chế tài áp dụng với hành vi này đã tạo ra một hành lang pháp lý
giúp các doanh nghiệp có căn cứ để bảo vệ quyền lợi của mình, ngăn ngừa
hành vi vi phạm. Từ đó tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giúp các chủ
thể đạt được mục đích của mình trong khuôn khổ pháp luật

2. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm đạt được, luật Cạnh tranh cùng với
những quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của nó cũng có
nhiều vấn đề bất cập:
4

/>5
/>
9


-

Các hành vi ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác về bản chất có thể xếp vào một
loại hành vi đó là hành vi “ gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
khác” như các tiếp cận của pháp luật Hoa Kỳ về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh bởi lẽ các hành vi đó đều có tác dụng và mục đích chung là gây
rối quan hệ hợp đồng tiềm năng và hiện hữu của đối thủ cạnh tranh. Thêm

vào đó, hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác quy
định tại Điều 44 Luật Cạnh tranh chưa rõ là có bao gồm các hành vi dụ dỗ,
xúi dục đối tác ( bao gồm bạn hàng, người làm công, kể cả nhà đầu tư) phá
vỡ hợp đồng mà pháp luật của một số nước đã cấm hay không? Đây cũng là
vấn đề cần làm rõ khi áp dụng trong thực tiễn.

-

Ngoài ra, với quy định: “ Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo
tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của luật này do Chính phủ quy định”
(Khoản 10 Điều 39 Luật Cạnh tranh) sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp
bị “chơi xấu” mà Chính Phủ chưa kịp quy định. Như thế sẽ làm mất tính
“luật tư” của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh 6. Trên thực tế,
theo định nghĩa tại khoản 4, Điều 3, Luật cạnh tranh, hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt
hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Theo cách tiếp cận này,
Điều 39, Luật Cạnh tranh đã liệt kê các hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
trong đó có đề cập tới việc rèm pha doanh nghiệp khác là hành vi trực tiếp
hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác, gây
ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đó. Mặc dù Luật đã có chế tài xử phạt nhưng những doanh
6

Đưa pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh vào cuộc sống , PGS.TS Nguyễn Như Phát, tạp chí

Luật học 6/2006, trang 29-35

10



nghiệp này vẫn ngang nhiên bằng nhiều hình thức tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp tới hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh nhưng họ vẫn
không bị ảnh hưởng gì.7
-

Ngoài ra căn cứ vào Mục 4 của Nghị định số 120/2005/NĐ - CP ngày
30/9/2005 thì với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: ép buộc
trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp và gây rối hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp khác thì mức phạt tiền còn nhẹ. Ví dụ như với hành vi ép
buộc trong kinh doanh, tại Khoản 1 Điều 32 của Nghị định có quy định : “1.
Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi ép buộc
khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe doạ
hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh
nghiệp đó”. Thiết nghĩ chế tài này còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Doanh
nghiệp có thể vì lợi ích lớn hơn mà bỏ qua những quy định này của pháp luật.
Hơn nữa việc quy định mức tiền cụ thể không đảm bảo áp dụng trong tình
hình hiện nay khi mà giá trị đồng tiền ngày càng sụt giảm.

3. Một số giải pháp
-

Thứ nhất : Pháp luật cần phải quy định rõ hơn, rộng hơn về những hành vi bị
coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Bởi lẽ, môi trường kinh doanh
của doanh nghiệp luôn biến chuyển từng ngày, từng giờ và những hành vi mà
các chủ thể kinh doanh “ dành” cho đối thủ cạnh tranh của mình thì muôn
hình vạn trạng. Vì thế để những hành vi đó không “lọt lưới” pháp luật cần có
những quy định tổng quát và những hướng dẫn cụ thể để nhận dạng đâu là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh.


-

Thứ hai: Để răn đe các doanh nghiệp không thực hiện những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh đòi hỏi pháp luật phải có một chế tài đủ mạnh. Viêc
ấn định mức tiền phạt cần phải thay đổi cho phù hợp.
7

/>
11


-

Thứ ba: Tăng cường và nâng cao hiểu biết pháp luật của doanh nghiệp. Thực
tế rằng tuy đã có hiệu lực được nhiều năm xong luật Cạnh tranh vẫn còn khá
lạ lẫm với nhiều doanh nghiệp. Việc không tìm hiểu về các quy định của
pháp luật để từ đó có những hành vi không đúng. Họ phải nhận thức được
rằng, trong hoạt động kinh doanh của mình, họ được làm tất cả mọi điều mà
pháp luật không cấm và phải biết những điều cấm đó là gì.
KẾT LUẬT
Nói tóm lại, để có được một môi trường cạnh tranh lành mạnh đòi hỏi
các chủ thể kinh doanh phải ý thức được hành vi của mình. Nâng cao hiểu
biết pháp luật cũng như ý thức pháp luật để giảm đi những hành vi cạnh tranh
không lành mạnh của mình. Việc này không chỉ bảo vệ doanh nghiệp mà nó
còn có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dung cũng như sự bình
ổn xã hội.

12



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Cạnh tranh 2004
2. Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
3. Đinh Đức Minh – Cạnh tranh không lành mạnh : thực trạnh và những đề xuất
trong việc xử lý và giải quyết tranh chấp ở Việt Nam – Khoá luận tốt nghiệp
2010
4. Nguyễn Văn Thành – Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định
của pháp luật Việt Nam – Khoá luận tốt nghiệp 2005
5. Vũ Thị Cẩm Tú – Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định
của pháp luật Việt Nam – Khoá luận tốt nghiệp 2007
6. NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 120/2005/NĐ-CP NGÀY 30 THÁNG 9
NĂM 2005 quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh
7. Thực trạng cạnh tranh không lành mạnh và điều chỉnh pháp luật đối với hành
vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam– Tạp chí Nhà nước và pháp luật
số 4/2002, tr 38-45,51
8. Đưa pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh vào cuộc sống , PGS.TS
Nguyễn Như Phát, tạp chí Luật học 6/2006, trang 29-35
9. Về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo luật cạnh tranh 2004/ Ths
.Nguyễn Thị Nhung// Tạp chí Tòa án. Tòa án nhân dân tối cao, số 21/2005,
tr20-22
10. />11. />%20dieu%20tra.pdf
12. />13. />14. />13


MỤC LUC

14




×