Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

BTHK bình đẳng giới vấn đề bình đẳng giới giữa các thành viên trong gia đình trong lao động và tham gia vào thị trường lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.98 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
NỘI DUNG...............................................................................................................2
I.

Khái quát chung.............................................................................................2
1. Một số khái niệm........................................................................................2
a. Khái niệm bình đẳng giới........................................................................2
b. Khái niệm bình đẳng giới trong gia đình................................................2
2. Cơ sở lý luận...............................................................................................3

II.

Nội dung và thực trạng bình đẳng giới giữa các thành viên trong gia

đình trong lao động và tham gia vào thị trường lao động,................................5
1. Bình đẳng giới giữa các thành viên trong gia đình trong lao động........5
2. Bình đẳng giới trong khi tham gia vào thị trường lao động...................7
III.

Một số nguyên nhân.................................................................................11

IV. Một số kiến nghị và giải pháp cải thiện bình đẳng giới giữa các thành
viên trong gia đình trong lao động và tham gia vào thị trường lao động......12
KẾT LUẬN.............................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………. 14

1


MỞ ĐẦU


Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đời sống
nhân dân không ngừng được cải thiện. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của
các thành viên trong gia đình càng nặng nề thêm. Người phụ nữ ngày càng đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong gia đình nhưng xã hội và mỗi người chúng ta hầu hết
đều chưa nhận thức đúng và rõ ràng về vai trò của người phụ nữ, trong nhiều gia
đình vẫn còn tồn tại sự bất bình đẳng trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về việc phân
công lao động giữa các thành viên trong gia đình và tham gia vào thị trường lao
động ở nước ta hiện nay. Để tìm hiểu và làm rõ hơn về vấn đề này, em xin đi sâu
vào phân tích đề tài: “Vấn đề bình đẳng giới giữa các thành viên trong gia đình
trong lao động và tham gia vào thị trường lao động”.
NỘI DUNG
I.

Khái quát chung
1. Một số khái niệm

a. Khái niệm bình đẳng giới
Theo tài liệu, Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc
điểm giống nhau và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới, nam và nữ có vị thế bình
đẳng và đều được tôn trọng như nhau. Nam và nữ cùng có điều kiện bình đẳng để
phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng
để tham gia đóng góp và thụ hưởng các nguồn lực, lợi ích của sự phát triển; được
hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hương thành quả bình đẳng.
Dưới góc độ Luật Bình đẳng giới, theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật
Bình đẳng giới năm 2006: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang
nhau được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình trong sự phát triển
của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau thành quả của sự phát triển”.
b. Khái niệm bình đẳng giới trong gia đình
Bình đẳng giới trong gia đình là việc vợ và chồng, con trai và con gái, các
thành viên nam và nữ trong gia đình có vị trí, vai trò ngang nhau, quyền được tạo

2


điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của gia đình như
nhau, quyền được thụ hưởng về thành quả phát triển của gia đình và xã hội ngang
nhau, quyền được tham gia quyết định các vấn đề của bản thân và của gia đình.
2. Cơ sở lý luận
Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo và thực hiện bình đẳng giới, nhiều văn
bản chính sách đã được ban hành như: Nghị quyết số 152-NQ/TW ngày 10/01/1967
“Về một số vấn đề về tổ chúc công tác phụ vận”, trong đó nhấn mạnh một số nhiệm
vụ như “phân bố, sử dụng hợp lý sức lao động phụ nữ trong nông nghiệp, hướng
dẫn thực hiện quyết định của chính phủ về sử dụng lao động phụ nữ trong công
nghiệp”; “Tăng cường việc tổ chức đời sống, bảo vệ sức khỏe cho phụ nữ và trẻ
em”. Nghị quyết số 153-NQ/TW ngày 10/01/1967 về “Công tác cán bộ nữ”; Chỉ
thị số 44-CT/TW ngày 07/6/1984 “Về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán
bộ nữ”; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 về “Đổi mới và tăng cường
công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thị số 36-CT/TW ngày
29/9/1993 về “một số vấn đề về công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”; Nghị
quyết 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước”… Một trong những văn bản
quan trọng không thể không nhắc đến, đó là Hiến pháp năm 1992 đã quy định:
“Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chnhs trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội và gia đình; Nghiêm cấm hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm
nhân phẩm phụ nữ” (Điều 63). Trong thời gian qua, hàng loạt các văn bản pháp
luật của Nhà nước đã được ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội
và thực hiện bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân
và Gia đình, Pháp lệnh Dân số… và không thể không nhắc đến là Luật Phòng
chống bạo lực gia đình và Luật Bình đẳng giới.
Tại Điều 24 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “Phụ nữ có quyền bình
đẳng với nam giới trong mọi lĩnh vực hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa trong

gia đình và ngoài xã hội”. Đặc biệt chính sách, pháp luật lao động đối với lao động
nữ luôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết của Bộ Chính trị
3


Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 12 tháng 7 năm 1993 đã
khẳng định “Bồi dưỡng lực lượng phụ nữ phát huy sức mạnh và chăm lo sự phát
triển mọi mặt của phụ nữ là nhiệm vụ thường xuyên, rất quan trọng của Đảng ta
trong mọi thời kỳ cách mạng”. Trong lĩnh vực lao động – việc làm Nghị quyết chỉ
rõ “Một trong những công tác lớn quan trọng của Đảng ta hiện nay là giải quyết
việc làm, chăm lo đời sống, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe và
quyền lợi của phụ nữ”.
Luật Bình đẳng giới (Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực thi
hành từ 1/7/2007) quy định về Bình đẳng giới trên tám lĩnh vực: chính trị, kinh tế,
lao động - việc làm, văn hóa - thông tin, y tế, giáo dục - đào tạo, thể dục thể thao…
Bình đẳng giới trong gia đình được Luật Bình đẳng giới quy định tại Điều 18:
“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác
liên quan đến hôn nhân và gia đình.
2. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung,
bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các
nguồn lực trong gia đình.
3. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và
sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm
sóc con ốm theo quy định của pháp luật.
4. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như
nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
5. Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc
gia đình”.
Theo Luật hôn nhân và Gia đình tại Điều 19 quy định: “Vợ, chồng bình đẳng
với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”.

Và Điều 13 Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động, quy định:
“1. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử
bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội,
điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.

4


2. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ
các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh.
3. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:
a) Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;
b) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;
c) Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao
động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc
với các chất độc hại.”
Xuất phát từ đặc điểm của phụ nữ ngoài việc thực hện những nghĩa vụ lao
động còn phải đảm nhận thiên chức làm mẹ, Bộ Luật Lao động đã dành một
chương riêng – Chương X đối với lao động nữ nhằm đảm bảo các quyền làm việc
của phụ nữ được bình đẳng về mọi mặt với nam giới. Tùy theo trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước theo tùng thời kì phát triển; khả năng ứng dụng khoa
học công nghệ; tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam và chủ trương
đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng, các văn bản quy phạm
pháp luật đã thể hiện rõ những nội dung chủ yếu về tuyển dụng, sa thải và chấm dứt
hợp đồng lao động đối với lao động nữ; về các chính sách đào tạo; về tiền lương và
tiền công;…
Theo quy định như trên của pháp luật thì các thành viên trong gia đình bình
đẳng với nhau trong lao động và tham gia vào thị trường lao động.
II.


Nội dung và thực trạng bình đẳng giới giữa các thành viên trong gia
đình trong lao động và tham gia vào thị trường lao động,

1. Bình đẳng giới giữa các thành viên trong gia đình trong lao động
Việt Nam là một nước chịu ảnh hưởng lâu đời bởi tư tưởng Nho giáo và
Khổng giáo về vai trò của nam giới và nữ giới trong gia đình, là cản trở lớn đối với
việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình. Những quan niệm và phong tục, tập
quán thể hiện định kiến giới đã ăn sâu trong tiềm thức mỗi cá nhân và truyền từ thế
hệ này qua thế hệ khá như: “Nam ngoại, nữ nội”, “chồng chúa, vợ tôi”, “tam tòng,
5


tứ đức”, “nhất nam viết hữu, thập nữ việt vô”. Những quan niệm và tập tục mang
tính định kiến giới trong gia đình đã dẫn đến thái độ và hành vi thiếu văn hóa, xâm
phạm đến quyền con người của phụ nữ như: Chồng coi thường vợ, không chia sẻ
công việc gia đình, không quan tâm chăm sóc sức khỏe vợ và con gái, hành hạ,
ngược đãi vợ, con…
Phân công lao động theo giới trong gia đình ở Việt Nam hiện nay vẫn mang
đậm nét truyền thống: Người vợ làm các công việc như nấu ăn, đi chợ, giặt giũ
quần áo, chăm sóc con, chăm sóc người già hoặc người ốm. Số liệu điều tra của các
công trình nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phụ nữ làm các công việc này là rất cao.
Nghiên cứu của Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em Hà Nội năm 2002 cho
thấy phần lớn các gia đình Hà Nội, người vợ vẫn là người đảm nhận chính các công
việc nội trợ như nấu cơm là 69,5%, mua thực phẩm 81,7%, giặt quần áo 58,1%, lau
nhà cửa 52,8%. Tỷ lệ người chồng làm những việc này tương ứng là 3,8% nấu
cơm, 2,9% mua thực phẩm, 6,5% giặt quần áo và 7,2% lau nhà cửa (Lê Ngọc Văn –
Khoa học về phụ nữ số 5/2005). Đồng thời, phân công lao động theo giới còn được
thể hiện qua lao động của người chồng thường tập chung nhiều hơn vào những
công việc trực tiếp tạo thu nhập bằng tiền. Từ đó cho thấy việc phân công lao động
theo giới đã dẫn đến kết quả là nam giới có thu nhập bằng tiền chiếm tỷ lệ cao hơn

so với phụ nữ. Tuy nhiên, xu hướng chia sẻ công việc gia đình ở gia đình thành phố
hiện nay ngày càng tăng lên. Vi dụ: Ở Hà Nội, người chồng cùng làm việc nhà là:
22,25% nấu ăn; 13,3% đi chợ; 32,6% giặt quần áo; 31,3% lau dọn nhà cửa; chăm
sóc con cái 74,85%; dạy chon 83,4%. Đây là biến đổi tích cực xuất phát từ thay đổi
về nhận thức và trình độ văn hóa của các cặp vợ chồng, thay đổi vai trò kinh tế của
phụ nữ trong gia đình.
Hoạt động nội trợ trở thành vấn đề quan tâm khi đặt gia đình trong khung
cảnh biến đổi xã hội, sự biến đổi chức năng của gia đình trong mối qun hệ với các
thiết chế xã hội khác và trong vấn đề bình đẳng giới. Nghiên cứu xã hội học về
6


phân công lao động theo giới cho thấy sự bất bình đẳng giới trong phân công lao
động gia đình, trong đó phụ nữ luôn làm nhiều công việc gia đình với nhiều thời
gian hơn nam giới, trong khi họ vẫn có thể làm việc ngoài thị trường lao động
ngang bằng với nam giới. Khi phụ nữ đã được tham gia tích cực vào nền kinh tế tạo
thu nhập thì vẫn không làm cho công việc gia đình và chăm sóc người thân (con
nhỏ, người già yếu, người đau ốm) giảm đi. Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ
nữ năm 2005 cho biết, trong khi phụ nữ và nam giới làm việc với số giờ ngang
nhau trong công sở, nhà máy, xí nghiệp, đồng ruộng, trang trại… thì phụ nữ sử
dụng thời gian hàng ngày cho công việc gia đình nhiều hơn 2,5 lần so với nam giới
(ở thành thị) và 2,3 lần (ở nông thôn).
Thời gian làm việc của phụ nữ thường dài hơn nam giới: Mặc dù pháp luật
quy định trong gia đình, vợ chồng đều bình đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau
bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung, cùng chia sẻ mọi công việc cũng như chăm
lo con cái, cha mẹ… nhưng trên thực tế, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình,
có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng. Còn các
công việc nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình thường được coi là “thiên
chức” của phụ nữ. Tính chất bảo thủ của sự phân công lao động truyền thống theo
giới ở các mức độ khác nhau vẫn còn được bảo lưu trong một bộ phận gia đình Việt

Nam đã làm hạn chế các cơ hội học hành của trẻ em gái, cản trở phụ nữ tham gia
vào các hoạt động xã hội và có địa vị, thu nhập bình đẳng như nam giới. Các kết
quả thống kê cho thấy, trung bình thời gian làm việc một ngày của phụ nữ là 13 giờ,
trong khi của nam giới là khoảng 9 giờ. Sự chênh lệch này chủ yếu do phụ nữ còn
đảm nhiệm chính công việc nội trợ, chăm sóc con cái… ngoài vai trò sản xuất và
công tác như nam giới.
Bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình trong lao động còn thể hện ở
việc bình đẳng giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong cộng việc thực hiện các công
việc trong gia đình. Điều này có nghĩa là giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia
7


đình bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các công việc của gia đình. Các thành
viên khác trong gia đình phân công đồng đều các công việc phù hợp với lứa tuổi
cho trẻ em trai và trẻ em gái như nhau. Điều 18 Luật Bình đẳng giới quy định thành
viên nam và nữ có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình. Do vậy, con trai, con gái
đều có trách nhiệm trong các công việc gia đình tùy theo điều kiện sức khỏe, thời
gian và khả năng của mỗi người.
2. Bình đẳng giới trong khi tham gia vào thị trường lao động.
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế ở
mức cao (83% so với nam giới 85%). Phụ nữ đóng vai trò ngày càng quan trọng
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân; tham gia ngày càng nhiều hơn trong khu vực
phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành và lĩnh vực kinh tế có yêu cầu kỹ thuật, công
nghệ cao. Theo Điều tra lao động – việc làm ngày 1/8/2007 của Tổng cục thống kê,
tỷ lệ lao động nữ đã chiếm 46% trong số người làm công ăn lương từ các lĩnh vực
sản xuất – kinh doanh; số chủ cơ sở sản xuất – kinh doanh là nữ chiếm 41,12% tỷ
lệ lao động nữ làm kinh tế hộ gia đình chếm 49,42%. Mặc dù các số liệu thống kê
cũng chỉ ra có một tỷ lệ lớn lao động nữ còn làm các công việc giản đơn (53,64%)
nhưng tỷ lệ phụ nữ đang tham gia vào các lĩnh vực vốn được coi là “truyền thống”
(công việc kỹ thuật, quản lý) của nam giới cũng đang dần tăng lên. Tỷ lệ lao động

nữ từ 15 tuổi trở lên làm công việc khai khoáng chỉ chiếm 31,1% trong khi đó nam
giới chiếm 68,9%; tham gia hoạt động khoa học và công nghệ thì nữ chiếm 34% và
nam chiếm 66%; quản lý nhà nước về an ninh, quốc phòng, bảo đảm xã hội thì nữ
chiếm 24,7% và nam chiếm 75%. Tuy vậy, có một số công việc vốn được coi là
“truyền thống” của phụ nữ thì tỷ lệ nữ tham gia vẫn còn rất cao. Chẳng hạn, tỷ lệ
lao động tử 15 tuổi trở lên làm việc trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng chiếm
71,6%, trong khi nam giới chỉ chiếm 28,4%; giáo dục đào tạo nữ chiếm 69,2% và
nam chiếm 30,8%; y tế và cứu trợ xã hội, nữ chiếm 59,6%, nam chiếm 40,4%.
Nhìn chung, phân bố cơ cấu nam, nữ trong các ngành nghề cho thấy, nam
giới vẫn thường chiếm tỷ lệ cao hơn ở những nhóm việc như công nhân, lãnh đạo,
dịch vụ cá nhân, công việc chuyên môn kỹ thuật và lực lượng vũ trang. Phụ nữ
8


thường chiếm tỷ lệ cao ở một số nhóm nghề khác như nông nghiệp, buôn bán nhỏ,
nhân viên văn phòng.
Vị thế việc làm của lao động nữ cũng co sự thay đổi tích cực. Trong 10 năm
từ năm 1997 đến năm 2007, nhóm lao động làm công ăn lương tăng rất mạnh trong
cơ cấu phân bố lao động, từ 18,6% (1997) lên tới 30% (2007) trong đó lao động
nam chiếm 59,8% và lao động nữ hiếm 40,2% (2007). Nếu so sánh với năm 2005
thì có sự thay đổi rõ rệt. Năm 2005, tỷ trọng lao động làm công ăn lương chiếm
25,6%, trong đó lao động nam chiếm 78,7% và lao động nữ chiếm 21,3%. Tỷ trọng
lao động nữ trong số người làm công ăn lương tăng mạnh (19%), thể hiện sự thay
đổi theo hướng giảm sự bất bình đẳng giới về việc làm có thu nhập ổn định giữa
nam và nữ. Đây là một chỉ số quan trọng để đánh giá tình hình bình đẳng giới của
Việt Nam có nhiều tiến bộ.
Theo đánh giá của Tổng cục thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của lao động khu vực
thành thị cũng có xu hướng giảm nhẹ, từ 4,82% năm 2006, xuống cong 4,64% năm
2007, ước tính năm 2008 là 4,65%, tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ
ở khu vực thành thị là 5,25%; 5,10% và 5,10%. Nhìn chung, kết quả này đều thực

hiện đạt chỉ tiêu phấn đấu đề ra trong Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ
Việt Nam.
Theo “Báo cáo phát triển con người, 2011” của UNDP, trình độ học vấn của
phụ nữ Việt Nam (từ 25 tuổi trở lên) đã hoàn thành chương trình giáo dục cấp 2 trở
lên là 24,7% so với 28% là của nam giới. Như vậy, mức độ chênh lệch giữa nam và
nữ về giáo dục ở nước ta không nhiều. Theo kết quả chủ yếu của Điều tra Dân số
-KHHGĐ 1/4/2011 của Tổng cục Thống kê (TCTK) thì tỷ lệ biết chữ của nam giới
là 96,2% và của nữ giới là 92,2% (từ 15 tuổi trở lên). Trang Wikipedia dẫn nguồn
tử website Quốc hội thì tại Việt Nam, cứ 100 cử nhân có 36 nữ, 100 thạc sĩ có 34
nữ, 100 tiến sĩ có 24 nữ. Để tôn vinh các nhà khoa học nữ, 25 năm qua, giải thưởng
Kovalevskaia đã trở thành một giải uy tín lớn trong giới khoa học Việt Nam được
trao cho hàng chục cá nhân, tập thể. Từ năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã quyết
9


dịnh thành lập quỹ “Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam” nhằm khuyến khích và tôn vinh
phụ nữ Việt Nam trong các lĩnh vực.
Khi phụ nữ có học vấn, học vấn cao sẽ mở ra các cơ hội cho họ về việc làm,
thu nhập, cơ hội tiếp cận về y tế, kế hoạch hóa gia đình hay tham gia lĩnh vực chính
trị. Chính vì thế, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lại. Mở cánh cửa giáo dục
là mở ra các cơ hội mới.
Theo UNDP, tỷ lệ nữ tham gia lao động của Việt Nam là 68% và nam giới là
76%. Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009 của TCTK thì tỷ lệ nữ tham
gia lao động là 46,6% trong tổng số lao động. Như vậy, tỷ lệ nữ Việt Nam tham gia
lao động gần bằng nam giới. Đáng chú ý là báo cáo “Bình đẳng giới và Phát triển”
(Gender equality and Development) của World bank được công bố mới đây thì tỷ lệ
phụ nữ (30%) tham gia lao động trong lĩnh vực dịch vụ lại cao hoen nam giới
(26%). Có trên 20% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam do phụ nữ làm chủ, chủ yếu
thuộc về khu thương mại, dịch vụ, sản xuất, chế biến nông sản, thủy sản. Nhiều tấm
gương phụ nữ trẻ làm kinh tế giỏi không những chỉ làm giàu cho bản than mà còn

đóng góp được nhiều cho xã hội. Theo UNDP thì tại Việt Nam nếu nam giới kiếm
được 1$ thì nữ giới sẽ kiếm được 0,69$ (số liệu năm 2007). Điều này khác xa so
với nhiều nước trên thế giới. Khi phụ nữ có việc làm, họ sẽ có thu nhập và mang
đến sự tự chủ về kinh tế, sự chia sẻ.
Đến nay tỷ lệ lao động nữ trong tổng số lao động mới được giải quyết việc
làm đã tăng lên và có khả năng vượt chỉ tiêu kế hoạch. Theo Điều tra lao động –
việc làm ngày 1/8/2007 của Tổng cục Thống kê năm 2005, lao động nữ chiếm
khoảng 21,14 triệu người trong tổng số lao động của nền kinh tế quốc dân (48,6%
so với 43,45 triệu lao động), đến 8/2007 đã tăng lên khoảng 22,77 triệu người
(49,4% so với tổng số trên 46,11 triệu lao động).
Chênh lệch lao động sau 2 năm 2006 – 2007 tương ứng với số lao động được
giải quyết việc làm mới là 2,76 triệu người (trong đó, lao động nam là 1,08 triệu

10


người và lao động nữ là trên 1,67 triệu người), bình quân mỗi năm giải quyết việc
làm cho trên 1,33 triệu người, trong đó, lao động nữ là 835 nghìn người.
Tuy vậy nhưng vẫn có những hạn chế sau:
Thứ nhất, mặc dù chưa có số liệu thống kê chính thức, phụ nữ cũng tham gia
rất nhiều vào lực lượng lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức, ước tính
khoảng 70% đến 80%. Tuy nhiên, điều kiện lao động, thu nhập và an sinh xã hội
(bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế) đối với lao động nữ làm việc trong khu vực này
còn rất nhiều hạn chế.
Thứ hai, nhiều quy định của pháp luật lao động chưa đượ các doanh nghiệp
nghiêm túc thực hiện, thậm chí một số doanh nghiệp còn trốn tránh thực hiện bởi
họ nhìn nhận những quy định ưu tiên, ưu đãi đối với lao dộng nữ là những gánh
nặng tài chính hoặc đem lại rủi roc ho họ vì vậy những quy định ưu tiên đối với lao
động nữ có thể trở thành bất cập.
Thứ ba, còn khoảng cách giữa quy định của chính sách pháp luật và thực tiễn

thực hiện nên lao động nữ không thực sự thụ hưởng, cụ thể theo các quy định về
giảm thuế cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ thì các khoản chi cho
lao động nữ được coi là các khoản chi hợp lý được trừ để tính thu nhập chịu thế
theo quy ddnhj của pháp luật không mang tính bắt buộc. Vì vậy, nếu doanh nghiệp
chi thêm cho lao động nữ thì doanh nghiệp phải thực hiện các thủ tục phức tạp để
đề nghị được xét giảm thuế. Do vậy, các doanh nghiệp thường chọn cách không chi
thêm cho lao động nữ. Mặt khác, các khoản chi phí thực hiện chính sách ưu đãi
phải hạch toán vào giá thành sản phẩm dẫn đến hiểu quả sản xuất kinh doanh thấp
khiến doanh nghiệp né tránh thực hiện các quy định ưu đãi đối với lao động nữ.
Trong khu vực nông thôn, lao động nữ chưa được điều chỉnh bởi hệ thống chính
sách pháp luật này, mặc dù họ chiếm đa số lực lượng lao động ở đây. Một sự bất
bình đẳng mới phát sinh ngay giữa các nhóm lao động nữ trong lực lượng lao động.
III.

Một số nguyên nhân

11


Hoàn cảnh kinh tế - xã hội của đất nước còn có nhiều khó khăn đã hạn chế
các điều kiện đầu tư cho công tác bình đẳng giới, các chính sách thúc đấy bình
đẳng giới.
Tư tưởng gia trưởng, trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại trong một bộ phận
nhân dân, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi; mặt khác nhận thức về vấn đề
bình đẳng giới tuy đã có chuyển biến nhưng chưa cao, do vậy, việc thực hiện bình
đẳng giới trong gia đình và ngoài xã hội còn có những hạn chế. Nhận thức của các
cấp, các ngành còn nhiều bất cập; chưa tích cực, chủ động triển khai thực hiện Luật
Bình đẳng giới và còn có tư tưởng coi công tác bình đẳng giới là của phụ nữ và cho
phụ nữ nên nhiều hoạt động thực hiện còn mang tính hình thức.
Một số quy định trong các lĩnh vực có liên quan đến bình đẳng giới còn chưa

phù hợp đã dẫn tới những hạn chế điều kiện và cơ hội tham gia bình đẳng của phụ
nữ như vấn đề tuổi nghỉ hưu; tuổi đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm… của cán
bộ, công chức nữ. Thiếu chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực bình đẳng giới; một
số chính sách khuyến khích sử dụng lao động nữ không được thi hành như chính
sách khuyến khích đối với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ban hành
đã lâu nhưng chậm và khó thực hiện, do vậy không tạo động lực cho các doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ và nâng cao các điều kiện bảo hộ lao động, chế
độ đãi ngộ đối với lao động nữ.
Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật, cũng như các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội chưa được
quan tâm đúng mức nên việc xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật đảm bảo
lồng ghép bình đẳng giới cũng còn lúng túng và có hạn chế nhất định.
IV. Một số kiến nghị và giải pháp cải thiện bình đẳng giới giữa các thành
viên trong gia đình trong lao động và tham gia vào thị trường lao động.
Cần có tổng kết, đánh giá việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ các văn
bản quy phạm pháp luật trên các lĩnh vực không phù hợp với các nguyên tắc bình
đẳng giới theo quy định tại Điều 6 của Luật Bình đẳng giới.
12


Tiếp tục tiến hành lồng ghép giới, đánh giá tác động giới trong các chính
sách, chương trình, đề án về an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, đào tạo nghề…
nhằm đảm bảo bình đẳng giới trong quá trình tổ chức thực hiện.
Tăng cường việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về giới, phân tích
giới, lồng ghép giới cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới ở
trung ương và địa phương.
Nghiên cứu xây dựng các chính sách hỗ trợ việc điều hòa các trách nhiệm
của nam, nữ trong tham gia chia sẻ công việc gia đình và làm kinh tế, trao cho
người cha cơ hội phát huy vai trò chăm sóc gia đình và con cái, giảm bớt gánh nặng
công việc gia đình không trả công của phụ nữ do phải kết hợp các hoạt động kinh tế

và chăm sóc gia đình, trẻ em.
Khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ của mình đối với
lao động nữ, đồng thời tạo cơ hội cho người sử dụng lao động có thể cạnh tranh
trong điều kiện Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia nhiều hơn vào thị trường lao động, đặc biệt
thị trường lao động chính thức hơn là đưa ra những ưu tiên, ưu đãi mà có thể trở
thành những rào cản đối với họ.
KẾT LUẬN
Mục tiêu bình đẳng giới nói chung vừa là vấn đề quyền con người vừa là một
yêu cầu cơ bản cho sự phát triền công bằng và hiệu quả. Vì vậy việc nghiên cứu về
tình trạng bất bình đẳng giới có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong việc hướng tới
bình đẳng trong xã hội mà còn góp phần tìm kiếm các biện pháp để nâng cao hiệu
quả và hiệu lực của tăng trưởng kinh tế xã hội. Cần xóa bỏ sự phân biệt đối xử về
giới giữa các thành viên trong gia đình Bình đẳng giới là nhiệm vụ khó khăn đòi
hỏi sự quan tâm và hỗ trợ từ các cơ quan tổ chức, các cấp, các ngành và sự nỗ lực
của chính cá nhân trong gia đình.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập bài giảng Luật Bình đẳng giới – Trường Đại học Luật Hà Nội
2. Luật Bình đẳng giới năm 2006
3. />4. />
14



×