Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Đánh giá thực trạng pháp luật về giải quyết khiếu nại liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất giải pháp nâng cao hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.62 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Một số khái niệm pháp lý liên quan đến vấn đề khiếu nại về bồi

Trang
1
1

thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất.
1.Khái niệm khiếu nại
2. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
3. Các khiếu nại phổ biến về bồi thường, giải phóng mặt bằng

1
1
2

khi Nhà nước thu hồi đất thực tế hiện nay:
II. Thực trạng pháp luật giải quyết khiếu nại liên quan đến bồi

3

thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất:
1. Đánh giá nhược điểm, ưu điểm của pháp luật giải quyết

5

khiếu nại liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng.
2. Sự bất cập trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.


3. Sự thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức của một

5
7

số cán bộ, công chức; sự thiếu hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật
của người dân.
III. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về

7

giải quyết khiếu nại liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt
bằng khi Nhà nước thu hồi đất:
1. Quán triệt những nguyên tắc chung:
2. Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại liên quan đến bồi
thường, giải phóng mặt bằng:
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

8
8
8
11
12

MỞ ĐẦU
Trong thời buổi hội nhập và công nghiệp hóa hiện nay, để thực hiện chính
sách phát trển kinh tế - xã hội của đất nước, Nhà nước ta đã tiến hành thu hồi
đất, giải phóng mặt bằng phục vụ cho các dự án phát triển. Tuy nhiên vấn đề bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư cho những diện bị thu hồi đất ở nhiều địa phương



gặp không ít khó khăn, vướng mắc. Những năm gần đây, số vụ việc khiếu nại, tố
cáo liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất
luôn chiếm tỉ lệ cao, và ngày càng trở nên nóng bỏng. Trong khi đó, những quy
định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo liên quan đến thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư có nhiều chỗ bất cập, không thống nhất. Để tìm hiểu thêm về vấn
đề này, em xin được trình bày những vấn đề sau “Đánh giá thực trạng pháp
luật về giải quyết khiếu nại liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng
khi Nhà nước thu hồi đất? Nêu giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về giải quyết khiếu nại liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng
khi nhà nước thu hồi đất”

NỘI DUNG
I.

Một số khái niệm pháp lý liên quan đến vấn đề khiếu nại về

bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất.
1. Khái niệm khiếu nại.
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi
nhận tại điều 74 của Hiến pháp năm 1992. Dưới góc độ pháp lý, khiếu nại được
hiểu là: “việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục
do Luật khiếu nại, tố cáo quy định đề nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết
định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi
đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình” (Khoản 1
Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo).
2. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong đời sống hàng ngay, “bồi thường” là thuật ngữ được sử dụng trong

trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ phải có
trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Theo
từ điển Tiếng Việt thông dụng: bồi thường là đền bù những tổn hại gây ra.

1


Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường đặt ra khi một chủ thể
có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trong
lĩnh vực pháp luật đất đai thuật ngữ bồi thường (hay đền bù) khi Nhà nước thu
hồi đất được đặt ra từ rất sớm. Cho đến nay thuật ngữ “bồi thường” vẫn được sử
dụng trong quy định Luật Đất đai năm 2003, theo khoản 6 Điều 4: “bồi thường
khi nhà nước thu hồi đất là việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối
với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”.
Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
- Bồi thường là trách nhiệm của nhà nước nhằm bù đắp tổn thất về quyền
và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất do hành vi thu hồi đất của nhà nước
gây ra. Trách nhiệm này được quy định trong Luật đất đai;
- Bồi thường là hậu quả pháp lý trực tiếp do hành vi thu hồi đất của nhà
nước gây ra. Điều này có nghĩa là chỉ phát sinh sau khi có quyết định hành chính
về thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Bồi thường được thực hiện trong mối quan hệ song phương, giữa một bên
là nhà nước với bên kia là người chịu tổn hại về quyền và lợi ích hợp pháp do
hành vi thu hồi đất của nhà nước gây ra;
Căn cứ để xác định bồi thường là diện tích thực tế bị thu hồi; thiệt hại
thực tế về tài sản, cây cối, hoa màu trên đất và khung giá đất do Nhà nước quy
định tại thời điểm thu hồi đất; Người sử dụng đất khi bị nhà nước thu hồi đất
muốn được bồi thường về đất phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy
định; Người bị nhà nước thu hồi đất không chỉ được bồi thường về đất mà còn
được bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất và được hưởng các chính sách hỗ

trợ tái định cư của nhà nước nhằm nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất.
3. Các khiếu nại phổ biến về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà
nước thu hồi đất thực tế hiện nay:
a) Khiếu nại về quyết định thu hồi đất
Khiếu nại về quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
là việc các cá nhân, cơ quan, tổ chức này đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xem xét lại quyết định thu hồi đất khi có căn cứ cho rằng quyết định này

2


xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của mình. Khiếu nại về quyết định thu
hồi đất được quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 162 Nghị định 181/2004/NĐ-CP
ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành Luật Đất đai. Theo đó, trên thực tế,
khiếu nại về quyết định thu hồi đất cũng xảy ra khá nhiều. Thường thì người bị
thu hồi đất sẽ khiếu nại với những quyết định thu hồi đất không phù hợp với
thực tế, gây thiệt hại lớn cho đối tượng bị thu hồi. Ví dụ như quyết định thu hồi
đất đối với một doanh nghiệp, thì dù có bồi thường và hỗ trợ bao nhiêu cũng khó
có thể bù đắp được thiệt hại cho doanh nghiệp đó, chưa kể còn lợi ích của những
người lao động thuộc doanh nghiệp.
b) Khiếu nại về diện tích đất bị thu hồi
Không ít trường hợp trong thực tế, người bị thu hồi đất khiếu nại vì cảm
thấy không thỏa đáng với diện tích đất bị thu hồi, thông thường là khiếu nại vì
diện tích đất bị thu hồi quá nhiều. Dạng khiếu nại này thường phổ biến ở các
khu vực bị thu hồi để làm đường, mờ rộng đường xuất phát từ lợi ích sau quy
hoạch. Nhiều hộ bị thu hồi đất khiếu nại với mong muốn giữ lại một phần đất,
dù rất nhỏ, hướng ra mặt đường để có cơ hội thực hiện nhiều hoạt động thương
mại khác. Đây cũng là nguyên nhân khiến những con đường mới mở xuất hiện
khá nhiều ngôi nhà “siêu mỏng, siêu lệch” như hiện nay. Dạng khiếu nại này
cũng có quan hệ mật thiết với khiếu nại về giá đất bồi thường. Người bị thu hồi

cũng thường khiếu nại về việc giá đất bồi thường không tương xứng với diện
tích đất bị thu hồi.
c) Khiếu nại về giá đất bồi thường
Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất có thể theo hai cách: bồi thường bằng
đất có cùng mục đích, hoặc bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm bị thu
hồi (bằng tiền). Trên thực tế, cách thức bồi thường bằng tiền thường được sử
dụng rộng rãi hơn. Vấn đề đặt ra là phải xác định mức tiền bồi thường sao cho
tương xứng với giá trị quyền sử dụng đất của người bị thu hồi đất tại thời điểm
bị thu hồi. Tuy nhiên, làm sao để vừa đảm bảo được lợi ích của Nhà nước, vừa
đảm bảo được quyền lợi chính đáng cho người bị thu hồi đất là một vấn đề hết
sức phức tạp. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp bị thu hồi đất ở nhưng tiền bồi
3


thường lại không đủ để mua nhà ở mới tại khu tái định cư; hoặc giá đất bồi
thường thấp hơn nhiều so với giá đất cùng loại trên thị trường, đặc biệt là đối với
đất nông nghiệp trong khu vực đô thị. Lợi ích bị ảnh hưởng, người bị thu hồi đất
vì vậy mà thường khiếu nại về vấn đề giá đất.
d) Khiếu nại về hỗ trợ cho người bị thu hồi đất
Hỗ trợ cho người bị thu hồi đất là hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định đời
sống, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề, ổn định sản xuất và đời sống tại khu tái
định cư… Khiếu nại ở dạng này thường tập trung vào mức chi phí chuyển đổi
nghề, mức hỗ trợ hàng tháng cho người bị thu hồi chưa ổn định được đời sống
và sản xuất… Đặc biệt, dạng khiếu nại này thường xảy ra tại các vùng bị thu hồi
đất nông nghiệp do đặc thù làm nông, việc chuyển đổi nghề cho các đối tượng bị
thu hồi là hết sức khó khăn. Để chuyển đổi nghề, người nông dân không đơn
thuần phải học nghề mới, mà thậm chí còn phải di chuyển sang những vùng,
miền khác đề tìm được công việc phù hợp. Chi phí đào tạo nghề cũng là một vấn
đề, khi mà mức hỗ trợ của Nhà nước chỉ đủ cho người lao động tham gia các
khóa đào tạo ngắn hạn với những ngành nghề đơn giản, khó có thể hình thành

một nghề để thay thế nghề nông vốn gắn liền lâu năm với họ. Nghề nghiệp
không ổn định, cuộc sống của người nông dân bị thu hồi đất vì thế gặp rất nhiều
khó khăn, do vậy, việc hỗ trợ của Nhà nước thường bị khiếu nại.
e) Khiếu nại về chất lượng nhà ở tái định cư
Vấn đề chất lượng nhà ở tái định cư cũng là một vấn đề khiến nhiều người
dân bị thu hồi đất cảm thấy bức xúc và tiến hành khiếu nại. Khiếu nại về vấn đề
này thường là vì các khu tái định cư chưa gắn liền với cơ sở hạ tầng như trường
học, công sở, bệnh viện, khu vui chơi giải trí…; hoặc chất lượng cơ sở vật chất
xuống cấp sau một thời gian ngắn sử dụng của một số khu tái định cư… Chưa
kể, nhiều khu tái định cư, người bị thu hồi đất phải trả khá nhiều chi phí để được
ở nhưng chất lượng lại không được đáp ứng. Nhiều người thu hồi đất đã phải “hi
sinh” mảnh đất của mình, thậm chí là những mảnh đất rất đắt giá theo thời giá
thị trường, nhưng nơi ở mới mà họ nhận được không tương xứng, do vậy, họ
thường khiếu nại để đòi lại quyền lợi chính đáng của mình.
4


II.

Thực trạng pháp luật giải quyết khiếu nại liên quan đến bồi

thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất:
1. Đánh giá nhược điểm, ưu điểm của pháp luật giải quyết khiếu nại liên
quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng:
Hệ thống pháp luật đất đai trong thời gian dài đã né tránh việc giải quyết
một số vấn đề liên quan đến đất đai, dẫn tới tồn đọng số vụ việc cần giải quyết
và gây ra sự vận dụng khác nhau giữa các địa phương khi giải quyết những vấn
đề giống nhau. Việc ban hành theo từng giai đoạn lịch sử, phát triển của đất
nước nên thiếu đồng bộ và còn chồng chéo, thiếu công bằng.
* Về cơ chế thu hồi đất và cách xác định giá đất chưa hợp lý: Luật đất đai

2003 cho phép áp dụng hai cơ chế: một là, Nhà nước thu hồi đất; hai là, tự thỏa
thuận giữa nhà đầu tư và người sử dụng đất. Điều này tạo ra sự chênh lệch lớn
về giá đất khi thu hồi, từ đó đã tạo ra sự bất bình đẳng trong việc bồi thường cho
người sử dụng đất. Luật đất đai 2003 quy định nguyên tắc xác định giá đất sát
với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện
bình thường (khoản 1, Điều 56) và không có bất cứ một văn bản pháp luật nào
hướng dẫn cụ thể về việc thi hành quy định này. Trên thực tế, giá đất để tính bồi
thường luôn thấp hơn rất nhiều so với giá đất trên thị trường nên người bị thu
hồi đất phần nào thấy không thỏa đáng và dẫn đến khiếu kiện về đất đai.
* Về cơ quan có thẩm quyền quyết định giá đất và thẩm quyền thu hồi đất
là chưa hợp lý. Khoản 3 Điều 56 Luật đất đai 2003 quy định UBND cấp tỉnh có
thẩm quyền xây dựng giá đất cụ thể tại địa phương, tuy nhiên việc duy trì cơ chế
một cơ quan nhà nước vừa có thẩm quyền thu hồi đất vừa có thẩm quyền quyết
định về giá đất sẽ luôn chứa đựng nguy cơ tham nhũng cao. Điều 44 Luật đất đai
2003 đã phân cấp thẩm quyền thu hồi đất cho UBND cấp tỉnh, cấp huyện khiến
nhiều dự án thu hồi có diện tích lớn nhưng thực hiện thiếu cân nhắc, tính toán,
thiếu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan cấp trên đã tác động không nhỏ đến một
bộ phận người nông dân.

5


- Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại liên quan đến bồi thường, giải
phóng mặt bằng còn có tính chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, còn nhiều điểm có xung
đột trong toàn hệ thống pháp luật nước ta. Riêng quy định về trình tự, thủ tục
giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai cũng có nhiều điểm khác nhau giữa
pháp luật về đất đai và pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Về việc thực hiện bồi
thường, giải phóng mặt bằng, có sự khác nhau giữa Luật Xây dựng và Luật Đất
đai. Về tính hợp luật của các loại hợp đồng, giấy tờ chuyển quyền sử dụng đất
trước ngày Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực thi hành, có sự khác nhau giữa

pháp luật về đất đai và pháp luật về dân sự. Tình trạng pháp luật như vậy đã dẫn
đến cách hiểu khác nhau trong áp dụng pháp luật của các cơ quan hành chính
cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Cơ chế chuyển phần lớn việc giải quyết khiếu nại về địa phương có ưu
điểm là tăng cường trách nhiệm giải quyết của cấp có thẩm quyền quản lý đất
đai nhưng lại có nhược điểm là không đáp ứng được nguyện vọng của người có
đơn khiếu nại là muốn được cấp có thẩm quyền ở Trung ương ra quyết định cuối
cùng để bảo đảm tính khách quan. Đây cũng chính là nguyên nhân gây nên tình
trạng khiếu kiện vượt cấp lên Trung ương ngày càng tăng.
- Cơ chế chuyển toàn bộ vụ việc tranh chấp đất đai có giấy tờ sang toà án
nhân dân, khuyến khích chuyển khiếu nại về quyết định hành chính, hành vi
hành chính sang khởi kiện lên toà án hành chính có ưu điểm là nâng cao hiệu lực
của Nhà nước pháp quyền nhưng lại bất cập ngay với thực tế giải quyết của toà
án nhân dân do trình độ chưa cao, thiếu nhân lực và toà án nhân dân chưa thực
sự độc lập với cơ quan hành chính cùng cấp.
- Luật Khiếu nại, tố cáo là luật chung và quy định trình tự, thủ tục giải
quyết khiếu nại các quyết định hành chính và hành vi hành chính cho tất cả các
lĩnh vực thuộc quản lý hành chính. Tuy nhiên, theo Luật Đất đai năm 2003, các
khiếu nại về quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai
được giải quyết theo một cơ chế riêng, không theo trình tự được quy định trong
Luật Khiếu nại, tố cáo. Điều này có vẻ như nghịch lý, song đây là một thực tế
bất cập hiện nay
6


2. Sự bất cập trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Quy hoạch thu hồi đất nông nghiệp để giao cho các nông trường, lâm
trường, các dự án đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng hạ tầng trong
nhiều trường hợp chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng, tính khả thi thấp dẫn tới tình
trạng thu hồi đất nhưng không sử dụng, sử dụng không có hiệu quả trong khi

nông dân thiếu đất hoặc không còn đất sản xuất, đời sống khó khăn.
Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền không chấp hành đúng các quy định của
Nhà nước về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư như ra
thông báo giải phóng mặt bằng mà không có quyết định thu hồi đất, không thông
báo trước về kế hoạch, phương án thu hồi đất cho người có đất bị thu hồi, cưỡng
chế giải phóng mặt bằng trong khi chưa bố trí nơi tái định cư…
3. Sự thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức của một số cán bộ,
công chức; sự thiếu hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
Một số cán bộ vì lợi ích kinh tế, tranh thủ trong thời gian đương chức đã
cố tình vi phạm chính sách pháp luật đất đai để trục lợi, đã lợi dụng chức quyền
để thu hồi đất bất hợp pháp, chia chác đất đai. UBND các cấp chưa chăm lo
nhiều đến công tác tiếp dân, công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của
công dân. Từ đây làm cho dân không tin vào bộ máy hành chính ở địa phương,
không tin vào quyết định hành chính của địa phương, luôn mong muốn có sự
phán quyết của Trung ương.
Nhận thức một bộ phận người sử dụng đất còn hạn chế, chưa am hiểu
pháp luật do công tác truyên truyền giáo dục đất đai chưa rộng hoặc một bộ
phận người dân bị lợi dụng vì mục đích xấu. Nhiều trường hợp người dân mặc
dù hiểu rõ các quy định của pháp luật, song cố tình không chấp hành những
quyết định đã giải quyết đúng pháp luật; một số trường hợp người dân bị kích
động hoặc lợi dụng việc khiếu kiện để kích động khiếu nại đông người, gây sức
ép đối với cơ quan Nhà nước nhưng việc xử lý không nghiêm.

7


III.

Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về


giải quyết khiếu nại liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt
bằng khi Nhà nước thu hồi đất:
1. Quán triệt những nguyên tắc chung:
Khi giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai nói chung và giải
quyết khiếu nại liên quan đến bồi thường, giải phóng mặt bằng nói riêng phải
quán triệt các nguyên tắc sau:
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý; Nhà
nước chỉ giao quyền sử dụng cho công dân; Nhà nước có quyền thu hồi đất và
người sử dụng đất được đền bù theo quy định của pháp luật.
- Trong quá trình Cách mạng, theo tình hình cụ thể mà Đảng và Nhà nước
có các chủ trương, chính sách đất đai phù hợp. Vì vậy giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo phải căn cứ vào thời điểm phát sinh của vụ việc và chính sách
tương ứng của thời kỳ đó.
- Giải quyết các khiếu nại, tranh chấp đất đai trên cơ sở tôn trọng quá trình
sử dụng ổn định của các chủ sử dụng đất, không giũ rối, kiên quyết bảo vệ thành
quả Cách mạng và lợi ích của người sử dụng đất, đồng thời phải tôn trọng quy
hoạch sử dụng đất của chính quyền địa phương.
- Khi giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai nếu phát sinh
những vấn đề về kinh tế, lợi ích vật chất... cần phải đảm bảo lợi ích Nhà nước và
quan tâm thích đáng lợi ích của người sử dụng đất .
2. Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại liên quan đến bồi thường, giải
phóng mặt bằng:
a. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường hỗ trợ tái định cư
Thứ nhất, cần có một đạo luật riêng quy định về bồi thường hỗ trợ va tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Trong đạo luật này có nguyên tắc, cơ chế xác
định bồi thường đối với đất, đối với tài sản gắn liền với đất, nguyên tắc hỗ trợ,
thực hiện tái định cư. Đặc biệt, trong đạo luật này có xác định rõ quy trình bồi
thường, hỗ trợ, tái định. Trong đó, các quyền được biết thông tin về đất bị thu
hồi, quyền được góp ý kiến, quyền được xem khu tái định cư, quyền khiếu nại,
8



khiếu kiện, thậm chí quyền được tham gia vào công tác định giá đất công bằng,
đúng với thực tế cũng sẽ được ghi nhận. Việc quy định này được đặt chung trong
luật đất đai như hiện nay sẽ không đảm bảo được tính rõ ràng, cụ thể, trong khi
đó đây là một vấn đề được cả xã hội quan tâm và có nhiều tranh chấp trong thời
gian qua.
Thứ hai, vấn đề giá đất cần sát với giá thị trường hơn. Cần có cơ chế kiểm
tra, giám sát mức độ xác thực và ban hành bảng giá đất. Tòa hành chính với tư
cách là bên thứ ba giải quyết các khiếu kiện về thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và
tái định cư cần được giao thẩm quyền xem xét lại tính hợp lý của bảng giá đất
mà UBND các tỉnh, thành phố ban hành. Đồng thời, pháp luật nước ta cần có cơ
chế cụ thể để các doanh nghiệp định giá thực sự vào cuộc.
Thứ ba, cần có những quy định cụ thể việc bồi thường các thiệt hại vô
hình như: hỗ trợ chuyển đổi việc làm hoặc tạo việc làm… Đảm bảo cho người bị
thu hồi đất chắc chắn có việc làm sau khi đào tạo để họ ổn định cuộc sống. Có
những thiệt hại vô hình trong thực tế đã bị bỏ sót bởi vì cơ quan có thẩm quyền
không thể giải quyết được tuy có căn cứ thực tế nhưng thiếu cơ sở pháp lý.
Thứ tư, vấn đề hoàn thiện các quy định về hỗ trợ theo hướng tập trung,
thống nhất và hiệu quả. Hiện nay, trong rất nhiều các dự án, chủ thể bồi thường
có xu hướng dùng chính sách hỗ trợ để “điều tiết” mức bồi thường để cho các dự
án không quá chênh lệch nhau cũng như làm sao để tổng số tiền mà người dân
nhận có thể giúp họ tái lập được cuộc sống. Tuy nhiên, cũng chính những quy
định quá mở sẽ tạo những kẽ hở vì đôi khi nó tuỳ thuộc quá nhiều vào ý chí của
chủ quan của chính quyền địa phương và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường khi
tham mưu cho UBND cấp tỉnh. Trước điều kiện đó, việc thực hiện hỗ trợ cần
phải có những hướng dẫn cụ thể từ phía các cơ quan trung ương để có sự thống
nhất trong quá trình áp dụng, bảo đảm công bằng giữa các hộ dân trong cùng
một dự án và giữa các dự án với nhau.
Thứ năm, vấn đề thực tiễn hóa các nguyên tắc về tái định cư. Cần có

những quy định cụ thể về việc lập và thực hiện khu tái định cư (TĐC) một cách
chi tiết. Một là, khái niệm về “khu TĐC bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ” phải được
9


hướng dẫn chi tiết như: điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật: đường sá, điện, nước…
và điều kiện cơ sở hạ tầng xã hội: trường học, trạm xá, công viên, nhà sinh hoạt
văn hóa… Thứ hai, nguyên tắc lập và thực hiện các dự án TĐC bắt buộc phải
tiến hành trước khi thu hồi đất kèm với những hướng dẫn chi tiết cụ thể cùng với
các chế tài thực hiện. Thứ ba, cần có những quy định chi tiết về việc phối hợp
giữa chính quyền địa phương và nhà đầu tư trong việc huy động nguồn vốn
trong các dự án “Nhà nước và chủ đầu tư cùng làm” mà một phần diện tích để
lại cho chủ đầu tư kinh doanh khai thác.
b. Nâng cao công tác quản lý Nhà nước
Cần có các chỉ đạo chi tiết hơn nữa để các đơn vị nghiêm túc thực hiện
quy định về tiếp công dân định kỳ; tiếp công dân đột xuất đối với các vụ phức
tạp, đông người; chỉ đạo giải quyết kịp thời các vụ khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền, nhất là các vụ đông người. Sẽ tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ đối
với các cơ quan hành chính nhà nước; quan tâm tổ chức thực hiện các quyết
định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật, các quyết định xử lý tố cáo…
đồng thời xử lý nghiêm các cán bộ thực hiện các hoạt động bồi thường hỗ trợ tái
định cư trái pháp luật.
c. Nâng cao kiến thức của đội ngũ cán bộ công chức và nhận thức của
người dân
Vấn đề cấp thiết là cần phải đẩy lùi nạn tham nhũng. Hiện nay hiểu biết
của các cán bộ, công chức còn chưa cao, cộng thêm việc một số người không
chịu nghiên cứu nên áp dụng pháp luật sai. Cần mở các lớp đào tạo cán bộ tại
địa phương để nâng cao trình độ cho cán bộ và cử cán bộ đi đào tạo để phục vụ
cho địa phương. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác truyên truyền giáo dục
pháp luật về đất đai và tuyên truyền chấp hành những quy định pháp luật về đất

đai cho toàn thể quần chúng.

KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên chúng ta có thể thấy rõ vấn đề về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất còn nhiều hạn chế vướng mắc đã dẫn
đến việc khiếu nại, tố cáo liên quan đến vấn đề này xảy ra ngày càng nhiều, và
10


công tác giải quyết khiếu nại tố cáo cũng gặp nhiều khó khăn. Thiết nghĩ phải
cần cố gắng hơn nữa trong việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật để góp phần cho
việc áp dụng các quy định của pháp luật rõ ràng cũng như đảm bảo lợi ích của
người dân. Việc thu hồi đất phục vụ cho mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng và mục đích phát triển kinh tế vì lợi ích chung của
đất nước là một nhu cầu không thể thiếu. Bên cạnh đó việc thu hồi đất sẽ ảnh
hưởng đến lợi ích của người dân nên Nhà nước cần phải hết sức quan tâm và có
những quyết định thu hồi đất đúng đắn, hợp lý để số vụ việc khiếu nại, tố cáo về
vấn đề này thuyên giảm hơn một cách đáng kể.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật đất đai, 2011,
Nxb.CAND.
2. Tìm hiểu các quy định về giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực
thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, khóa luận tốt nghiệp, Lê Thị
Phương, Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Quang Tuyến, Hà Nội - 2010.
3. Hỏi đáp pháp luật đất đai về bồi thường và hỗ trợ tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất, Nguyễn Thị Mai, Trần Minh Sơn, Nxb. Tư pháp, 2005.

4. Nghị định số 197/2004/ NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
5. Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 quy định bổ sung về
quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

12



×