Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bình luận hoạt động công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ của ASEAN dưới các góc độ sau cơ sở lý luận (định nghĩa) cơ sở pháp lý thực tiễn triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.64 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về hoạt động cong nhận lẫn nhau trong

Trang
1
1

thương mại dịch vụ của ASEAN.
1. Định nghĩa của hoạt động công nhận lẫn nhau.
2. Vai trò của hoạt động công nhận lẫn nhau.
II. Những vấn đề pháp lý về hoạt động công nhận lẫn nhau trong

1
1
3

thương mại dịch vụ của ASEAN.
III. Thực tiễn triển khai hoạt động công nhận lẫn nhau trong thương

4

mại dịch vụ của ASEAN.
IV. Đánh giá hoạt động công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ

7

của ASEAN.
KẾT LUẬN


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

11
12
13


LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, hiện nay trong cơ cấu kinh tế thế giới nói chung cũng như cơ cấu
kinh tế của ASEAN thì ngành dịch vụ ngày càng chiếm vị trí trọng yếu và cũng là
mộ ttrong những yếu tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Nhận
thức được vai trò của thương mại dịch vụ đối với sự phát triển của ASEAN, các nhà
lãnh đạo ASEAN đã tiến hành những nỗ lực đầu tiên nhằm đảmbảo sự tự do của
thương mại dịch vụ trong khu vực bằng việc kí kết hiệp định khung ASEAN về
dịch vụ (AFAS) vào ngày 15/12/1995 trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN
lần 5 tại Băng Cốc, Thái Lan. Nhằm xóa bỏ phần lớn những rào cản dịch vụ giữa
các quốc gia ASEAN, mở rộng phạm vi và mức độ tự do hóa thương mại dịch vụ so
với các quy định của của GATS qua đó tăng cường mức độ cạnh tranh giữa các nhà
cung cấp dịch vụ trong khu vực. Một trong những biện pháp nhằm tạo thuận lợi cho
sự tự do hóa thương mại dịch vụ chính là sự công nhận lẫn nhau giữa các quốc gia
thành viên.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề, nhóm em xin chọn đề tài: “Bình
luận hoạt động công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ của ASEAN” để
hiểu rõ hơn về vai trò của hoạt động công nhận lẫn nhau cũng như thực tiễn triển
khai hoạt động công nhận lẫn nhau trong thương mại, dịch vụ.
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CÔNG NHẬN LẪN
NHAU TRONG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA ASEAN.
1. Định nghĩa của hoạt động công nhận lẫn nhau.
Cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Tùy thuộc vào

trình độ phát triển kinh tế của từng quốc gia,các quốc gia cũng sẽ có cách hiểu về
dịch vụ không giống nhau. Ngay cả Hiệp định GATS về thương mại dịch vụ của
WTO cũng không đưa ra khái niệm cụ thể về dịch vụ mà chỉ liệt kê 12 ngành lớn
1


và 155 phân ngành dịch vụ khác nhau nằm trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp định.
Xuất phát từ đặc trưng của dịch vụ có thể hiểu dịch vụ là các hoạt động của con
người được kết tinh thành các loại sản phẩm vô hình nhằm đáp ứng các nhu cầu của
con người. Như vậy, thương mại dịch vụ là khái niệm chỉ các hoạt động thương mại
trong lĩnh vực dịch vụ. Nhằm đảm bảo sự tự do của thương mại dịch vụ trong khu
vực,các nhà lãnh đạo ASEAN đã tiến hành kí kết Hiệp định khung ASEAN về dịch
vụ (AFAS) vào ngày 15/12/1995. AFAS đã trở thành cơ sở pháp lý nền tảng cho
việc thực hiện tự do hóa thương mại dịch vụ của ASEAN trong đó có quy định về
công nhận lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên ASEAN. Điều 5, Hiệp định khung
của ASEAN về dịch vụ quy định: “Mỗi quốc gia thành viên có thể công nhận trình
độ giáo dục hoặc kinh nghiệm nhận được,các yêu cầu đã được thỏa mãn,hoặc các
giấy chứng nhận hoặc giấy phép đã được cấp tại một quốc gia thành viên khác để
sử dụng cho mục đích cấp giấy phép hoặc giấy chứng nhận nhà cung cấp dịch vụ…
trên cơ sở một hiệp định hoặc thỏa thuận với quốc gia thành viên hoặc có thể đơn
phương công nhận”.
Có thể thấy, công nhận lẫn nhau được thực hiện theo cơ chế tự nguyện, tự
quyết và thỏa thuận. Mỗi quốc gia có quyền công nhận hoặc không công nhận trình
độ, học vấn, kinh nghiệm các yêu cầu được đáp ứng và giấy phép hoặc chứng chỉ
được cấp bởi các nước ASEAN khác tại nước mình căn cứ vào sự công nhận đó có
ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế, truyền thống,văn hóa, đạo đức của nước mình hay
không. Bởi vậy để được công nhận chứng chỉ nghề ngiệp và cấp giấy phép hành
nghề người nộp đơn phải tuân thủ những điều kiện nhất định. Khi đáp ứng được
các điều kiện này người nộp đơn sẽ được cấp giấy phép hành nghề và được tiến
hành cung cấp dịch vụ, đồng thời phải tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật của

quốc gia nơi người đó được cấp phép. Cơ chế tự nguyện, tự quyết và thỏa thuận
công nhận lẫn nhau đảm bảo được quyền tự quyết của quốc gia, bảo vệ được quyền
và lợi ích quốc gia, và thể hiện sự tôn trọng của các quốc gia với nhau, không có sự
2


ép buộc thành viên phải thoa nhận hoặc tham gia các hiệp định và thỏa thuận công
nhận lẫn nhau.
2. Vai trò của hoạt động công nhận lẫn nhau.
Hiệp định khung về thừa nhận lẫn nhau được kí kết trên cơ sở thừa nhận mục
tiêu của Hiệp đinh khung về dịch vụ giữa các nước ASEAN( AFAS), nó có vai trò
nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, tính đa dạng,khả năng sản xuất và cung
cấp dịch vụ trong và ngoài ASEAN, xóa bỏ các giới hạn về thương mại dịch vụ
giữa các nước ASEAN và tự do hóa thương mại dịch vụ bằng cách mở rộng phạm
vi tự do hóa vượt ra khỏi phạm vi các nước ASEAN theo Hiệp định chung về
thương mại dịch vụ (GATS) với mục đích công nhận một khu vực thương mại dịch
vụ tự do.
Với việc quy định lẫn nhau đã tạo ra cơ sở pháp lý nền tảng cho việc thực
hiện tự do hóa thương mại dịch vụ của ASEAN, thúc đẩy các nước kí kết nhằm
công nhận chứng chỉ của các nhà cung cấp dịch vụ, xóa bỏ hàng rào thương mại
dịch vụ của ASEAN. Nó tạo điều kiện cho các nhà cung cấp dịch vụ chuyên môn
nước ngoài tiếp cận và thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ tại thị trường của một
quốc gia khác. Qua đó không chỉ tạo điều kiện để các quốc gia có thể tiếp nhận, sử
dụng dịch vụ tốt hơn từ nhiều nhà cung cấp dịch vụ khác nhau, đa dạng hóa ngành
dịch vụ trong nước mà còn nâng cao tính cạnh tranh, thúc đẩy ngành dịch vụ phát
triển. Các thỏa thuận công nhận lẫn nhau được kí kết nhằm công nhận chứng chỉ
của các nhà cung cấp các dịch vụ nghề nghiệp đến từ các quốc gia thành viên
ASEAN. Công nhận lẫn nhau cùng với việc hạn chế và xóa bỏ các rào cản thương
mại dịch vụ là phương thức để thực hiện tự do hóa thương mại dịch vụ trong
ASEAN. Thông qua hoạt động công nhận lẫn nhau sẽ thưc đẩy tự do hóa thương

mại dịch vụ giữa các quốc gia thành viên ASEAN, tiến tới thành lập khu vực dịch
vụ ASEAN.
3


II. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CÔNG NHẬN LẪN
NHAU TRONG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA ASEAN.
Hiệp định về Hệ thống Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEFT) của
khu vực thượng mại Tự do ASEAN ký ngày 28 tháng Giêng năm 1992 đã đưa ra
các lĩnh vực hợp tác có giới hạn và không có giới hạn nhằm bổ sung và hỗ trợ cho
việc tự do hàng hoá thương mại bao gồm việc hài hoà các tiêu chuẩn, thừa nhận lẫn
nhau và các kết quả thử nghiệm và chứng nhận sản phẩm. Và mục C Điều 5 Hiệp
định này có quy định “Các quốc gia thành viên sẽ xem xét các biện pháp khác liên
quan đến các lĩnh vực hợp tác trong phạm vi biên giới và ngoài biên giới nhằm bổ
sung và hỗ trợ cho tự do hóa thương mại. Những biện pháp này bao gồm cả việc
thống nhất các tiêu chuẩn chung, công nhận kết quả kiểm chứng hàng hóa, xóa bỏ
các hàng rào đối với đầu tư nước ngoài, tham khảo ý kiến trong kinh tế vĩ mô, áp
dụng nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và khuyến khích phát triển thị
trường vốn”.
Tuyên bố của Cuộc gặp thượng đỉnh Bangkok năm 1995, những người
đứng đầu Chính phủ các quốc gia thuộc Hiệp hội ASEAN đã thông qua lịch trình
đẩy nhanh hơn việc hội nhập kinh tế, trong đó bao gồm việc thực hiện rõ ràng về
tiêu chuẩn và sự phù hợp, hoà hợp các tiêu chuẩn quốc tế và thực hiện các dự án
thúc đẩy các thoả thuận thừa nhận lẫn nhau (dưới đây gọi là MRA) nhằm thúc đẩy
mạnh hơn thương mại trong khu vực.
Hiệp định khung của ASEAN về dịch vụ (AFAS) được ký kết tại Băng Cốc
vào ngày 15/12/1995. Mục tiêu của Hiệp định là tăng cường hợp tác trong lĩnh vực
dịch vụ giữa các quốc gia thành viên nhằm nâng cao tính hiệu quả và cạnh tranh, đa
dạng hóa năng lực sản xuất, cung cấp và phân phối dịch vụ của các nhà cung cấp
trong và ngoài khối ASEAN, xóa bỏ dáng kể các rào cản đối với thương mại dịch

vụ, tự do hóa thương mại dịch vụ, tiến tới thực hiện một khu vực thương mại tự do
4


về dịch vụ. Nội dung của Hiệp định là xóa bỏ các biện pháp phân biện đối xử và
các hạn chế mở cửa thị trường giữa các nước thành viên. Bên cạnh đó Hiệp định
này cũng quy định về thỏa thuận công nhận lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tự do hóa dịch vụ. Điều V Hiệp định khung
ASEAN về dịch vụ năm 1995 có quy định:
“1. Mỗi quốc gia thành viên có thể công nhận trình độ giáo dục hoặc kinh
nghiệm nhận được, các yêu cầu đã được thỏa mãn, hoặc các giấy chứng nhận hoặc
giấy phép đã được cấp tại một Quốc gia Thành viên khác, để sử dụng cho mục đích
cấp giấy phép hoặc giấy chứng nhận nhà cung cấp dịch vụ. Việc công nhận như
vậy có thể dựa trên cơ sở một hiệp định hoặc thỏa thuận với Quốc gia Thành viên
có liên quan, hoặc có thể được thực hiện trên cơ sở tự quyết.
2. Không có bất kỳ điểm nào trong Khoản 1 được hiểu là yêu cầu bất kỳ một
Quốc gia Thành viên phải chấp nhận hoặc phải tham gia các hiệp định và thỏa
thuận công nhận lẫn nhau”.
Bên cạnh còn có Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung ASEAN về dịch
vụ năm 2003. Hiệp định khung sẽ sửa đổi bằng cách thêm một “Điều IV bis” ngay
sau Điều IV.
Hiệp định khung của ASEAN về các thoả thuận thừa nhận lẫn nhau năm
1998. Trong Hiệp định này có ghi nhận mục đích của hiệp định khung này là: “Quy
định các nguyên tắc chung về xây dựng các MRA chuyên ngành giữa các nước
Thành viên và các hoạt động hợp tác có liên quan khác nhằm thúc đẩy việc hoá bỏ
các rào cản kỹ thuật đối với thương mại trong khối ASEAN; và Quy định các điều
kiện chung mà mối nước Thành viên trong MRA chuyên ngành sẽ chấp nhận hoặc
thừa nhận các kết quả của các quá trình đánh giá sự phù hợp của các Thành viên
khác theo các MRA chuyên ngành khi đánh giá sự phù hợp với các yêu cầu quy
định trong MRA chuyên ngành.” Các điều khoản trong hiệp định này ghi nhận sự

công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ của ASEAN.
5


Các MRA đối với các hoạt động đánh giá sự phù hợp có thể là một biện pháp
quan trọng trong việc loại bỏ các rào cản kỹ thuật đối với thương mại và tăng khả
năng tiếp cận thị trường và việc thừa nhận lẫn nhau có thể mang lại lợi ích thiết
thực đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khối ASEAN;
* 7 Nội dung mà ASEAN đã công nhận lẫn nhau:
-

Ngày 26/4/2011, Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) đã nhận

được thông báo về việc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), bao gồm
các nước Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Phillipin,
Singapore, Thái Lan và Việt Nam đã chính thức ký Hiệp định khung về thừa nhận
lẫn nhau giữa các nước ASEAN trong việc cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán.
-

Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về dịch vụ Kiến trúc giữa các nước ASEAN

đã được các Bộ trưởng Kinh tế của 10 nước thành viên ASEAN ký kết tại
Singapore vào ngày 19/11/2007, trong đó quy định cơ quan thẩm quyền quản lý
nghề nghiệp chịu trách nhiệm chuẩn bị các nguyên tắc và quy định cho phép thực
hiện Thỏa thuận;
-

Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về thiết bị điện – điện tử của ASEAN

(ASEAN EE MRA) ký tại Băng Cốc ngày 5 tháng 4 năm 2002.

-

Hiệp định về thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về dịch vụ tư vấn kỹ thuật trong

ASEAN. Ngày 9/12/2005, các nước ASEAN đi đến thống nhất ký kết Hiệp định
thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về dịch vụ tư vấn kỹ thuật trong ASEAN, theo đó
các quốc gia thành viên cùng thống nhất quy định về các tiêu chuẩn, điều kiện hành
nghề trong nước nhằm hướng tới đáp ứng điều kiện đăng bạ kỹ sư chuyên nghiệp
tiêu chuẩn ASEAN.
-

Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về dịch vụ Điều dưỡng giữa các nước

ASEAN năm 2006.
-

Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về người hành nghề y giữa các nước ASEAN

năm 2009.
6


-

Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về hành nghề nha khoa giữa các nước

ASEAN năm 2009.
III. THỰC TIỄN TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG CÔNG NHẬN LẪN NHAU
TRONG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA ASEAN:
Để tìm hiểu rõ vấn đề này trong thực tế nhóm xin đưa ra lĩnh vực cụ thể trên

thực tiễn.
* Thỏa thuận ASEAN về công nhận lẫn nhau đối với dịch vụ y tá năm
2005, trong đó có hoạt động điều đưỡng ở Việt Nam. Hình thức này hiện rất được
quan tâm ở Việt Nam nói riêng cũng như các nước trong Đông Nam Á. Nghề điều
dưỡng đã phát triển thành một ngành dịch vụ công cộng thiết yếu, cần cho mọi
người, mọi gia đình. Nhu cầu về dịch vụ chăm sóc có chất lượng ngày càng gia
tăng ở mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia phát triển, do sự gia tăng dân số già
làm tăng nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà và tại các cơ sở y tế.
Trong xu hướng hội nhập khu vực và quốc tế, chính phủ Việt Nam đã ký
Thỏa thuận khung về thừa nhận lẫn nhau với 10 quốc gia ASEAN về việc công
nhận dịch vụ Điều dưỡng trong khu vực. Để tăng cường chất lượng nguồn nhân lực
điều dưỡng làm cơ sở cho việc xây dựng chương trình đào tạo và sử dụng nhân lực
điều dưỡng có hiệu quả và đáp ứng yêu cầu hội nhập của các nước trong khu vực.
Hiện nay di chuyển điều dưỡng đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Các dòng
di cư điều dưỡng viên từ những nước kém phát triển sang nước đang phát triển và
từ nước đang phát triển sang nước phát triển.Trình độ điều dưỡng viên xu thế cao
đẳng và đại học hóa đang trở thành yêu cầu tối thiểu để được đăng ký hành nghề và
được công nhận là điều dưỡng chuyên nghiệp giữa các quốc gia khu vực ASEAN
và trên toàn Thế giới. Chính vì vậy mà các Thỏa thuận công nhận lẫn nhau để hỗ
trợ cho sự di chuyển điều dưỡng trên phạm vi khu vực và toàn cầu đã trở thành mối
quan tâm của các chính phủ, được đặt ra trong tiến trình hội nhập và đã trở thành
cam kết của các chính phủ. Mười quốc gia ở khu vực Đông Nam Á đã ký kết các
thỏa thuận khung về công nhận dịch vụ Y tá, Điều dưỡng, theo đó tiến tới cho phép
7


công dân của các nước thành viên có chứng chỉ Y tá Điều dưỡng, ở các nước thành
viên, có giấy phép còn hiệu lực do quốc gia mà người đó là công dân cấp và chứng
chỉ hoặc giấy phép hành nghề hợp pháp, không vi phạm về kĩ thuật, nghề nghiệp
hoặc tiêu chuẩn đạo đức…. Ủy ban Điều phối ASEAN về dịch vụ điều dưỡng đang

thảo luận Tiêu chuẩn năng lực cốt lõi của cử nhân điều dưỡng làm cơ sở cho việc
công nhận điều dưỡng viên giữa các nước và đang xây dựng Website Điều dưỡng
ASEAN để theo dõi sự di chuyển thể nhân người nước ngoài hành nghề Điều
dưỡng ở mỗi nước.
Sự phát triển không đồng đều và đa dạng của ngành Điều dưỡng trong tiến
trình hội nhập khu vực và quốc tế tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu chuẩn hóa hệ thống
đào tạo, chuẩn hóa trình dộ điều dưỡng viên để tạo diều kiện cho việc di chuyển thể
nhân điều dưỡng và sự công nhận lẫn nhau về trình dộ điều dưỡng giữa các nước
khu vực ASEAN.
Vì vậy mà việc xây dựng và ban hành Bộ Chuẩn năng lực cơ bản cho điều
dưỡng Việt Nam là cẩn thiết và có ý nghĩa rất quan trọng. Theo đó trên cơ sở kết
luận thẩm định của Hội đồng chuyên môn được thành lập theo Quyết định
số 3602/QĐ-BYT ngày 04 tháng 10 nam 2011, Bộ Y tế ban hành Bộ Chuẩn năng
lực cơ bản của Điều dưỡng Việt Nam để các cơ sở đào tạo, sử dụng điều dưỡng
nghiên cứu áp dụng và để thông tin cho các nước trong khu vực và Thế giới về
chuẩn năng lực điều dưỡng Việt Nam.
Bộ Chuẩn năng lực cơ bản của điều dưỡng Việt Nam được cấu trúc theo
khuôn mẫu chung của điều dưỡng khu vực Châu Á Thái Bình Dương và ASEAN
để đáp ứng yêu cầu của khu vực và để dễ so sánh với chuẩn năng lực điều dưỡng
các nước. Tài liệu chuẩn năng lực cơ bản điều dưỡng Việt Nam được cấu trúc thành
3 linh vực, 25 tiêu chuẩn và 110 tiêu chí.
Mỗi lĩnh vực thể hiện một chức năng cơ bản của người diều dưỡng. Trong tài
liệu này được chia thành 3 lĩnh vực là: năng lực thực hành, quản lý chăm sóc và
phát triển nghề, luật pháp và đạo đức điều dưỡng. Mỗi tiêu chuẩn thể hiện một
phần của lĩnh vực và bao hàm một nhiệm vụ của người điều dưỡng. Mỗi tiêu chí là
8


một thành phần của tiêu chuẩn. Một tiêu chí có thể áp dụng chung cho các tiêu
chuẩn và các lĩnh vực.

Bộ Chuẩn năng lực cơ bản cho Điều dưỡng Việt Nam được biên soạn công
phu, tham khảo nhiều nguồn tài liệu có giá trị, thông qua nhiều kênh thông tin dể
lấy ý kiến góp ý và diều chỉnh cho phù hợp với hiện trạng chuyên ngành Điều
dưỡng Việt Nam và xu thế hội nhập.
* Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề dịch vụ du lịch.
Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch (MRA-TP) sẽ chính thức có
hiệu lực trong Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. MRA-TP cho phép dịch
chuyển lao động trong ngành du lịch thuộc khối ASEAN, người lao động tại Việt
Nam có thể làm việc tại các nước thành viên ASEAN và ngược lại, Việt Nam cũng
có thể thu hút được các lao động có trình độ để đáp ứng các vị trí đòi hỏi trình độ
cao mà đang bị thiếu hụt nhân lực. Đây sẽ là một thách thức lớn cho lao động du
lịch Việt Nam, việc đánh giá lại nguồn nhân lực và đào tạo theo hệ thống chuẩn
chất lượng là điều mà Việt Nam phải sớm thực hiện.
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ hình thành trong năm 2013, hướng tới
hợp tác chặt chẽ giữa các nước thành viên ASEAN. Một trong những lợi ích quan
trọng đối với cộng đồng kinh tế là khả năng dịch chuyển của lực lượng lao động có
trình độ, khi những người lao động thuộc nhiều nghề khác nhau có thể di chuyển và
làm việc tại các nước thành viên ASEAN khác. Cơ sở nền tảng của dịch chuyển lao
động là việc thừa nhận trình độ giữa các nước ASEAN.
Để triển khai thực hiện MRA, Tổng cục Du lịch với sự hỗ trợ của Dự án EU,
đã xây dựng Sổ tay hướng dẫn Thực hiện Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về
các nghề du lịch. Cuốn sổ tay sẽ được thông qua trong Phiên họp các Bộ trưởng
Du lịch ASEAN diễn ra trong Diễn đàn Du lịch ASEAN tại Vientiane, Laos vào
giữa tháng 1/2013 và cung cấp tới toàn bộ các nước thành viên ASEAN. Ngoài ra,
các Tài liệu hướng dẫn cho Nhân viên, Nhà tuyển dụng và các Cơ sở Đào tạo trong
ngành Du lịch cũng được chuẩn bị và gửi lên mạng nhằm giải đáp các câu hỏi về
9


cách thực hiện MRA-TP, yêu cầu và ý nghĩa đối với nhân viên và nhà tuyển dụng

trong ngành du lịch.
ASEAN đã hình thành MRA-TP để tăng cường dịch chuyển lao động quốc tế
trong khu vực phù hợp với chính sách của ASEAN. Mỗi quốc gia ASEAN có tiêu
chuẩn, chứng chỉ và quy định riêng để công nhận trình độ của nhân viên làm việc
trong ngành du lịch. Do đó, cần thiết phải có một Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau
nhằm thống nhất về những điều giúp đảm bảo một nhân viên có đủ trình độ để làm
việc trong ngành du lịch, ví dụ là một người từ Việt Nam đang tìm kiếm một vị trí
làm việc ở Malaysia. Do đó MRA-TP được thiết kế để giải quyết sự mất cân bằng
giữa cung và cầu đối với các nghề du lịch trong khu vực ASEAN; và thiết lập một
cơ chế để các lao động có trình độ và đã được cấp chứng chỉ dịch chuyển tự do
trong khối.
MRA-TP cung cấp một cơ chế để đạt được công nhận về sự tương đương của
các thủ tục cấp chứng chỉ và trình độ nghề du lịch trên toàn ASEAN. Khi các nước
ASEAN công nhận kỹ năng nghề của nhau thì điều này sẽ khuyến khích một thị
trường tự do và rộng mở cho các lao động trong khu vực và nâng cao tính cạnh
tranh của ngành du lịch trong ASEAN, đồng thời thu hút những nhân tài cần thiết
để đáp ứng sự thiếu hụt về kỹ năng tại địa phương. Khả năng đủ tư cách làm việc ở
một nước chủ nhà tất nhiên còn phụ thuộc vào luật pháp hiện hành và quy định tại
nước đó.
Để người lao động ở một nước được một nước ASEAN khác công nhận và
đủ tư cách làm việc tại nước chủ nhà, họ cần sở hữu chứng chỉ nghề du lịch có hiệu
lực với một chức danh nghề cụ thể được quy định trong Giáo trình Du lịch chung
ASEAN (CATC), do Ban Chứng nhận Nghề Du lịch (TPCB) tại một nước
ASEAN cấp. Có 32 chức danh nghề được quy định trong MRA, từ buồng, lễ tân,
nhà hàng và chế biến món ăn, tới đại lý lữ hành và điều hành tour.
MRA-TP là một động lực quan trọng trong việc nâng cao tiêu chuẩn của du
lịch và nâng cao trình độ kỹ năng nghề của lực lượng lao động du lịch trong
ASEAN. Những nhân viên trong ngành du lịch của Việt Nam có chứng chỉ VTOS
10



có thể được công nhận qua việc đồng bộ trình độ kỹ năng của họ với Tiêu chuẩn
nghề chung ASEAN đối với nghề du lịch (ACCSTP).
Tiêu chuẩn Kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam VTOS sẽ là yếu tố quan trọng
giúp nhân viên trong ngành du lịch Việt Nam được công nhận theo MRA-TP cũng
như giúp các công ty du lịch hỗ trợ nhân viên của mình có được trình độ cần thiết
vào năm 2015. Những giảng viên du lịch và khách sạn cũng như các cơ sở đào tạo
cũng cần rà soát lại giáo trình giảng dạy để đảm bảo hài hòa với tiêu chuẩn VTOS
và ACCSTP, và điều này có thể thực hiện được nhờ việc xin tư vấn và hỗ trợ từ Hội
đồng cấp Chứng chỉ Nghiệp vụ Du lịch VTCB.
IV. ĐÁNH GIÁ VỀ HOẠT ĐỘNG CÔNG NHẬN LẪN NHAU TRONG
THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ CỦA ASEAN.
Cơ chế công nhận lẫn nhau của ASEAN có ưu điểm đó là nó hoàn toàn dựa
trên sự tự nguyện, thỏa thuận giữa các quốc gia, không bắt buộc bất kỳ một quốc
gia thành viên ASEAN nào phải chấp nhận hoặc phải tham gia các hiệp định và
thỏa thuận công nhận lẫn nhau. Thông qua các hiệp định, thỏa thuận giữa các quốc
gia hoặc hành vi đơn phương công nhận sẽ tạo cơ sở pháp lý để các nhà cung cấp
dịch vụ có thể tiến hành cung cấp dịch vụ tại một quốc gia khác. Đặc biệt hành vi
đơn phương công nhận từ phía quốc gia tiếp nhận mà không cần trải qua các vòng
đàm phán, kí kết thỏa thuận sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia có ngành dịch vụ
kém phát triển có thể nhanh chóng, dễ dàng tiếp nhận dịch vụ từ các nhà cung cấp
đến từ các quốc gia có ngành dịch vụ phát triển.
Tuy nhiên bên cạnh đó, cơ chế này cũng còn tồn tại những hạn chế như: Do
hoàn toàn dựa trên sự tự do, thỏa thuận giữa các quốc gia thành viên cho nên việc
kí kết các hiệp định, thỏa thuận công nhận lẫn nhau phụ thuộc rất lớn vào thiện chí,
quan hệ hợp tác của các nước. Mặt khác, các thỏa thuận công nhận lẫn nhau phải
được ký kết trong từng lĩnh vực cụ thể của AFAS mà hiện tại có 12 phân ngành
dịch vụ chính thuộc phạm vi điều chỉnh của AFAS, mỗi phân ngành chính lại bao
11



gồm nhiều phân ngành dịch vụ nhỏ. Như vậy để ký kết được tất cả các thỏa thuận
công nhận lẫn nhau trong tất cả các lĩnh vực của ngành dịch vụ là một khó khăn rất
lớn đối với các quốc gia ASEAN. Và thực tế đến nay mới chỉ có 7 thỏa thuận công
nhận lẫn nhau trong 7 lĩnh vực được kí kết.
KẾT LUẬN
Trong thương mại dịch vụ thì hoạt động công nhận lẫn nhau có vai trò, ý
nghĩa hết sức to lớn. Nhận thức được vai trò ấy, các quốc gia thành viên ASEAN đã
không ngừng xúc tiến các phiên đàm phán trong nhiều lĩnh vực để đi đến kí kết các
thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong các lĩnh vực dịch vụ khác nhau. Trong thời
gian tới, để hoạt động công nhận lẫn nhau thực sự phát huy vai trò của mình trong
việc thúc đẩy tự do hóa thương mại dịch vụ thì cần phải tiếp tục phát huy những ưu
điểm cũng như khắc phục những hạn chế.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình pháp luật Cộng đồng ASEAN, Nxb.
CAND, 2012.
2. Lại Ngọc Thanh, Tự do hóa thương mại trong khuôn khổ Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á – ASEAN, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2011
3. Nguyễn Thu Trang, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), Từ tầm nhìn tơi hành
động, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội – 2011.

13




×