Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Nêu và lý giải những điểm khác nhau về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong chương nuôi con nuôi theo luật hôn nhân và gia đình n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.3 KB, 11 trang )

Lời mở đầu
Nuôi con là hiện tượng xã hội xảy ra ở các quốc gia và đều được pháp luật
các nước điều chỉnh. Ở nước ta, trong hoàn cảnh đất nước còn phải chịu đựng
những di chứng nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều khó
khăn, mức thu nhập của nhân dân còn thấp, nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn cần có mái ấm gia đình thì vấn đề nuôi con nuôi càng trở nên cấp thiết.
Trong những năm qua, pháp luật về nuôi con nuôi ở nước ta đã góp phần quan
trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục trong môi trường gia đình; động viên, khơi dậy tinh thần nhân đạo,
nhân văn của con người Việt Nam; giữ gìn và phát huy truyền thống tương thân,
tương ái, lá lành đùm là rách trong nhân dân. Ở nước ta đã có những chế định về
nuôi con nuôi trong Luật HN&GĐ năm 2000 và gần đây là Luật Nuôi con nuôi
năm 2010.
I.

Khái niệm nuôi con nuôi:

Theo Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về Nuôi con nuôi:
“1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận
nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận
làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo
đức xã hội…”
Theo Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010:
“1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận
con nuôi và người được nhận làm con nuôi….
3. Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký.
4. Nuôi con nuôi trong nước là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam
với nhau thường trú ở Việt Nam.
1



5. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú
ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước
ngoài.”
II.

Sự khác nhau về điều kiện để việc nuôi con nuôi hợp pháp
1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi:

Luật NCN đã thống nhất các điều kiện của người được nhận làm con nuôi
trong nước và nước ngoài, vì vậy, điều kiện của người được nhận làm con nuôi
trong nước và nước ngoài là như nhau. Theo quy định trước đây, ngoài việc đáp
ứng những điều kiện của nuôi con nuôi trong nước, Điều 36 Nghị định
68/2002/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung bằng mục 8 điều 1 Nghị định
69/2006/NĐ-CP còn quy định thêm các điều kiện của trẻ em được cho làm con
nuôi tại Điều 8, không phân biệt nuôi con nuôi trong nước hay nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài. Luật NCN quy định như vậy sẽ tạo ra sự thống nhất, thể hiện
sự pháp điển hóa đồng bộ giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi nước
ngoài, đồng thời cũng đảm bảo được sự bình đẳng giữa những trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt.
Theo khoản 1 điều 68 Luật HN&GĐ năm 2000 “Người trên mười lăm
tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất
năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn”. Luật
NCN không quy định vấn đề này. Những trường hợp này thực chất lại là quan hệ
vì mục đích chăm sóc, phụng dưỡng. Việc loại bỏ các trường hợp này phù hợp
với mục đích và nguyên tắc của nuôi con nuôi là để tìm mái ấm gia đình cho trẻ
em, bảo đảm trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường gia
đình; còn công tác bảo đảm cuộc sống cho thương binh, người tàn tật, người già
yếu, cô đơn sẽ do pháp luật về an sinh xã hội điều chỉnh.

2


Về vấn đề độ tuổi của người được nhận làm con nuôi, với mục đích chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em được nhận làm con nuôi trong Luật NCN có
quan hệ và gắn bó mật thiết với độ tuổi được coi là trẻ em trong Luật chăm sóc,
giáo dục và bảo vệ trẻ em. Vì vậy, Luật NCN tăng độ tuổi của người được nhận
làm con nuôi thành “trẻ em dưới 16 tuổi” (điều 8 khoản 1), nhằm phù hợp với
độ tuổi của trẻ em được quy định trong Luật chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em
năm 2005 (theo điều 1, trẻ em theo quy định của Luật này là công dân Việt Nam
từ 16 tuổi trở xuống). Như vậy, trừ các trường hợp ngoại lệ được quy định tại
khoản 2 Điều 8, đối tượng điều chỉnh chủ yếu của Luật này chính là trẻ em, quy
định này phù hợp với mục đích nuôi con nuôi. Quy định này nhằm đảm bảo tính
thống nhất của hệ thống pháp luật trong nước đồng thời vẫn bảo đảm thực hiện
nghiêm chỉnh cam kết quốc tế trong trường hợp nước ta gia nhập Công ước
Lahay năm 1993 thông qua cơ chế “ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế”.
Khoản 2 Điều 8 Luật NCN có quy định trường hợp ngoại lệ về độ tuổi:
người được nhận làm con nuôi là người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, nếu được cha
dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi. Phần lớn những
người ở độ tuổi này chưa thể có thu nhập để tự nuôi sống bản thân và tâm sinh lý
cũng chưa phát triển hoàn thiện, vì vậy pháp luật quy định người ở độ tuổi này
có thể được cha dượng, mẹ kế, hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi
để đảm bảo cho họ được chăm sóc, giáo dục trong một môi trường gia đình, đảm
bảo tính nhân đạo của việc nuôi con nuôi. Đối với trường hợp nuôi con nuôi
nước ngoài, việc quy định ngoại lệ về độ tuổi cũng rất cần thiết. Hiện nay, có
tương đối nhiều hồ sơ xin nhận trẻ em là con riêng của vợ hoặc chồng làm con
nuôi. Việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi của người cha dượng hoặc mẹ kế
nhằm đảm bảo cho trẻ em được hưởng đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ giữa cha
mẹ và con cái khi trẻ em có cha, mẹ kết hôn với người nước ngoài và người cha,
mẹ kế của trẻ em muốn nhận trẻ em đó làm con nuôi.

3


Tại khoản 3 điều 8, Luật NCN quy định “một người chỉ được làm con
nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng”. Nếu so sánh
với quy định trước đây tại Luật HN&GĐ năm 2000, ta sẽ thấy Luật NCN đã có
sự điều chỉnh. Theo khoản 2 Điều 68 Luật HN&GĐ: “Một người chỉ có thể làm
con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng”. Quy định này chưa
làm rõ vấn đề một người đã có vợ hoặc chồng có được phép nhận con nuôi riêng
hay không. Luật NCN đã có sự thay đổi, hiểu theo quy định của khoản 3 Điều 8,
luật chỉ cho phép một người độc thân hoặc cả hai vợ chồng nhận con nuôi. Như
vậy, Luật NCN không cho phép người đã có vợ hoặc có chồng nhận con nuôi
riêng, việc nhận con nuôi cần có sự thống nhất của cả hai vợ chồng. Đây cũng là
một điều luật nhằm đảm bảo cho trẻ em được cho làm con nuôi có một môi
trường gia đình trọn vẹn, có sự yêu thương của tất cả các thành viên trong gia
đình.
2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi:
- Trường hợp nuôi con nuôi trong nước:
Cũng giống như quy định theo Luật HN&GĐ năm 2000, Luật NCN tiếp
tục kế thừa một số điều kiện của người nhận con nuôi như: Có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên, có tư cách đạo đức tốt. Bên cạnh
đó, “điều kiện thực tế” để nuôi con nuôi trong Luật HN&GĐ được bổ sung trong
quy định tại điểm c điều 14 Luật NCN là điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở
đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Như vậy, so với Luật
HN&GĐ, Luật NCN đã có quy định cụ thể rõ ràng hơn về vấn đề này. Quy định
này sẽ tạo sự thuận lợi, từ đó đưa ra các quyết định hợp lý để công nhận hay
không công nhận việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi.
Theo khoản 3 Điều 14, đối với trường hợp cha dượng nhận con riêng của
vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng hoặc cô, cậu, dì, chú, bác nhận cháu làm con
nuôi thì không áp dụng quy định điều kiện hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên và

4


điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo cho việc chăm sóc nuôi dưỡng,
giáo dục con nuôi. Sự điều chỉnh này của pháp luật là khá hợp lý, bởi nếu cha
dượng, mẹ kế muốn nhận con riêng của vợ hoặc chồng mà không đáp ứng đủ các
điều kiện trên thì sẽ ngăn cản việc trẻ em có một gia đình trọn vẹn. Như vậy, quy
định này nhằm đảm bảo cho con nuôi được sống trong môi trường gia đình với
những người thân thuộc dù người nhận nuôi là cha dượng, mẹ kế hoặc cô, dì,
chú, bác ruột không có đủ điều kiện về kinh tế, chỗ ở, sức khỏe, hoặc điều kiện
về khoảng cách độ tuổi. Việc bổ sung thêm quy định này cũng giúp tạo điều kiện
ưu tiên nhận nuôi con nuôi cho những người thân. Đối với những người đó thì họ
không cần phải có 2 điều kiện như đã quy định tại khoản 1 Điều 14 trong Luật
Nuôi con nuôi cũng vẫn được nuôi con nuôi.
Luật NCN quy định rõ cấm ông bà nhận cháu làm con nuôi, hoặc anh, chị,
em nhận nhau làm con nuôi, tránh sự đảo lộn ngôi thứ, thứ bậc trong gia đình
(Điều 13). Trong Thông tư 01/2008/TT-BTP hướng dẫn thực hiện một số quy
định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch cũng đã
quy định hành vi này. Ở đây cần phân biệt rõ việc nuôi con nuôi với việc nuôi
dưỡng. Việc nuôi con nuôi phải làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con; còn việc
nuôi dưỡng chỉ là nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình. Trong trường hợp
cha mẹ bị chết, thì ông bà (nội, ngoại) có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cháu
hoặc anh, chị có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc em – đó là trách nhiệm nuôi
dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, không cần phải xác lập quan hệ nuôi
con nuôi thì mới ràng buộc được trách nhiệm của các bên.
- Trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
Trước hết, chế định nuôi con nuôi trong Luật HN&GĐ năm 2000 có sự
mâu thuẫn khi quy định về vấn đề này. Khoản 1 Điều 105 Luật HN&GĐ xác
định điều kiện của người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt nam làm con nuôi dựa
trên quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nơi người đó mang quốc tịch.

5


Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 37 Nghị định 68/2002/NĐ-CP thì việc xác định
điều kiện của người xin nhận con nuôi lại dựa trên pháp luật Việt Nam và pháp
Luật nơi người đó thường trú. Luật NCN đã quy định cụ thể về vấn đề này. Theo
khoản 1 Điều 29 Luật NCN: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người
nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có
đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và
quy định tại Điều 14 của Luật này”. Với điều luật trên, một mặt, Luật NCN đã
giải quyết tình trạng mâu thuẫn giữa các quy định trước đây, mặt khác, Luật
NCN đã thể hiện sự kế thừa quy định hợp lý trong Nghị định 68/2002/NĐ-CP và
Nghị định 69/2006/NĐ-CP, từ đó tạo ra khuôn khổ phá lý thống nhất, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc gia nhập Công ước Lahay năm 1993.
Vấn đề điều kiện của người nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn
được quy định tại Điều 28 Luật NCN. Điều luật này đưa ra bốn trường hợp nhận
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Bản chất của việc nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con
giữa hai bên, tạo lập một gia đình mới không dựa trên cơ sở huyết thống. Do đó
thể hiện ý chí của các chủ thể có liên quan trong việc cho – nhận con nuôi có ý
nghĩa quan trọng
3. Sự đồng ý cho con làm con nuôi của cha, mẹ đẻ:
Về vấn đề “Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con
đã được sinh ra ít nhất 15 ngày”. Điều này là một sự khác biệt và mới so với
Luật Hôn nhân và gia đình. Đây là quy định nhằm tránh các trường hợp cha mẹ
đẻ và các cá nhân tổ chức khác có sự thỏa thuận cho trẻ làm con nuôi trước khi
sinh; hoặc cha, mẹ đẻ trong hoàn cảnh đặc biệt đã chấp nhận cho con vừa sinh ra
làm con nuôi mà không có sự suy nghĩ kĩ lưỡng.
Có thể thấy, Luật Nuôi con nuôi đã bổ sung thêm một số quy định mới
giúp việc nhận nuôi con nuôi được chặt chẽ hơn như người đồng ý cho làm con

6


nuôi quy định tại khoản 1 Điều này phải được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận
hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con sau khi người đó được
nhận làm con nuôi. Quy định này là cần thiết bởi sự tư vấn của UBND sẽ giúp
cho cha mẹ đẻ, người giám hộ của đứa trẻ hiểu rõ các vấn đề về nuôi con nuôi,
đặc biệt là những hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi. Điều này sẽ giúp người
đồng ý có quyết định sáng suốt, khách quan hơn trong vấn đề đồng ý cho làm
con nuôi.
Như vậy, về điều kiện nuôi con nuôi, Luật NCN đã có sự kế thừa và bổ
sung các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, đồng thời có sự sửa đổi để các
quy định cụ thể, rõ ràng hơn trong 3 vấn đề về: Điều kiện của người được nhận
làm con nuôi, điều kiện của người nhận nuôi và điều kiện về ý chí của các chủ
thể.
4. Sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
Theo Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“Việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đăng ký và ghi và Sổ hộ tịch.
Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi, giao nhận con nuôi được thực hiện
theo quy định của pháp luật về hộ tịch.”
Theo Điều 22 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định:
“1. Khi xét thấy người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con
nuôi có đủ điều kiện theo quy định của Luật này thì Ủy ban nhân dân cấp xã tổ
chức đăng ký nuôi con nuôi, trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho cha mẹ
nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng, tổ chức
giao nhận con nuôi và ghi vào sổ hộ tịch trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày có ý
kiến đồng ý của những người quy định tại Điều 21 của Luật này.
7



2. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã từ chối đăng ký thì phải trả lời
bằng văn bản cho người nhận con nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại
diện cơ sở nuôi dưỡng và nêu rõ lý do trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có ý
kiến của những người quy định tại Điều 21 của Luật này.
3. Giấy chứng nhận nuôi con nuôi được gửi Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
thường trú của người nhận con nuôi hoặc của người được nhận làm con nuôi.”
Ở Luật Nuôi con nuôi năm 2010 có nhiều sự khác biệt trong vấn đề đăng
ký con nuôi so với Luật Hôn nhân và gia đình đã chặt chẽ hơn so với Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000. Việc đăng ký và từ chối đăng ký được gộp chung
vào 1 điều luật không tách riêng ra 2 điều luật như trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000
Ở điều 22 Luật Nuôi con nuôi đã được rõ ràng hơn về cơ quan đăng ký
con nuôi đó là Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ tổ chức đăng ký con nuôi khi xét thấy
người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi có đủ điều kiện theo
quy định của Luật Nuôi con nuôi.
III.

Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi :
1. Về mối quan hệ ba bên giữa cha mẹ nuôi, con nuôi, cha mẹ đẻ:

Luật HN&GĐ năm 2000 khi quy định về hệ quả pháp lý của việc nuôi con
nuôi chỉ chú trọng điều chỉnh quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, có rất ít quy
định về mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi, quan hệ cha mẹ nuôi và cha mẹ
đẻ. Luật NCN đã quy định cụ thể hơn về mối quan hệ ba bên này, từ đó tạo ra
các cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền và nghĩa vụ mỗi chủ thể trong quan hệ nuôi
con nuôi :
Đối với quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi, khoản 1 Điều 24 Luật NCN quy
định: “kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ

các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác
của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy
8


định của pháp luật về hôn nhân và gia đinh, pháp luật dân sự và các quy định
khác của pháp luật có liên quan”. Có thể thấy quy định về mối quan hệ giữa cha
mẹ nuôi và con nuôi theo điều luật này có sự kế thừa Điều 74 Luật HN&GĐ năm
2000. Như vậy, con nuôi mới có thể hòa nhập một cách tốt nhất vào gia đình cha
mẹ nuôi, không có sự phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi. Mối quan hệ
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi trong Luật NCN đã được sửa đổi theo chiều hướng
con nuôi có sự gắn bó chặt chẽ hơn về quyền và nghĩa vụ với cha mẹ nuôi.
Đối với mối quan hệ giữa con nuôi và cha mẹ đẻ, Luật HN&GĐ năm 2000
quy định rất ít về vấn đề này. Đối với vấn đề nhân thân, Luật HN&GĐ năm 2000
chỉ quy định về quyền của con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công
với Cách mạng. Về vấn đề tài sản, cha mẹ đẻ và con đã được cho làm con nuôi
vẫn có quyền hưởng di sản thừa kế của nhau. Đối với các quyền và nghĩa vụ
khác, Luật HN&GĐ không có quy định cụ thể. Để giải quyết vấn đề này, Luật
NCN đã quy định: “trừ trường hợp cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác,
kể từ ngày gia nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc,
nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý,
định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi” (khoản 4 Điều 24).
Khoản 4 Điều 24 Luật NCN cũng thể hiện mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ và
cha mẹ nuôi. Sau khi quan hệ con nuôi được xác lập, giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ
nuôi có thể có hoặc không có mối quan hệ nào với nhau về quyền và nghĩa vụ.
Như vậy, có thể thấy, so với Luật HN&GĐ năm 2000 thì Luật NCN năm
20110 quy định cụ thể hơn về mối quan hệ pháp lý ba bên sau khi việc nuôi con
nuôi được xác lập.
2. Vấn đề báo cáo tình hình phát triển của con nuôi:
Một điểm khác nữa đó là cha mẹ nuôi có nghĩa vụ báo cáo tình hình phát

triển của con nuôi cho các cơ quan có thẩm quyền. Nghĩa vụ này được đặt ra cả
với trường hợp nuôi con nuôi trong nước và trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố
9


nước ngoài. Luật NCN quy định cha mẹ nuôi chỉ có trách nhiệm báo cáo tình
hình phát triển của con nuôi trong 03 năm đầu tiên, nội dung báo cáo là về tình
trạng sức khỏe, thể chất, tinh thần, sự hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi,
gia đình, cộng đồng (điều 39 Luật NCN).
Như vậy, có thể thấy rõ hai điểm tiến bộ về hệ quả pháp lý của Luật NCN.
Thứ nhất, Luật NCN đã quy định rất cụ thể về mối quan hệ ba bên giữa cha mẹ
nuôi – con nuôi – cha mẹ đẻ, từ đó tạo ra cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi. Đồng thời, Luật NCN đã
quy định hợp lý hơn về việc báo cáo tình hình phát triển của con nuôi, làm cho
các quy định về vấn đề này trở nên khả thi hơn.
Lời kết
So với chế định nuôi con nuôi trong Luật HN&GĐ năm 2000 thì Luật
Nuôi con nuôi năm 2010 đã có những điểm tiến bộ tương đối rõ rệt. Các quy
định về điều kiện hay hậu quả pháp lý đã trở nên cụ thể và rõ ràng hơn. Luật
Nuôi con nuôi đã sửa đổi những quy định trước kia trong Luật HN&GĐ giúp cho
quy định đó được hợp lý hơn với tình hình hiện nay.

10


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
2. Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
3. Cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt
Nam: Luận án tiến sĩ Luật học/ Nguyễn Phương Lan.

4. Những điểm mới của Luật Nuôi con nuôi so với chế định nuôi con nuôi
trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: Khóa luận tốt nghiệp/ Trần Đức
Nam.

11



×