Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài tập học kì môn tư tưởng hồ chí minh phân tích tiền đề ra đời của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.2 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

I/ ĐẶT VẤN ĐỀ..............................................................................................2
II/ NỘI DUNG.................................................................................................3
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin........................................................................3
2. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước..................................5
3. Những hoạt động thực tiễn chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết tiến tới
thành lập Đảng......................................................................................7
III/ KẾT LUẬN..............................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................12

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1


Trong cuốn Đường Cách Mệnh xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh viết:
“Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh để
trong thì vận động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. Người cũng cho
rằng “muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có đảng lãnh đạo để
nhận rõ tình hình, dường lối và định phương châm cho đúng”. Từ đây ta thấy
được Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò của Đảng Cộng sản trong sự
nghiệp Cách mạng của dân tộc. Người cho rằng Đảng sẽ là người tập hợp và
tổ chức nhân dân đoàn kết lại để trở thành một đội quân thật mạnh tạo thành
sức mạnh to lớn đánh thắng nọi kẻ thù. Với những vai trò như vậy thì việc
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời để lãnh đạo Cách mạng Việt Nam là một điều
tất yếu khách quan và không thể thiếu.
Vì vậy, sau quá trình học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thấy
được những tư tưởng sáng tạo, đúng đắn của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
Việt Nam, và với mong muốn tìm hiểu rõ những tiền đề ra đời của Đảng Cộng


sản Việt Nam – nhân tố đóng vai trò quan trọng giúp Cách mạng nước ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, em đã quyết định chọn đề tài: “Phân tích
tiền đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam” làm đề tài cho bài tập lớn học
kỳ của mình. Do trình độ hiểu biết có hạn nên trong bài làm còn nhiều sai xót,
em rất mong được thầy cô góp ý và sửa chữa để bài làm được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

II. NỘI DUNG
2


Để có được sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, ta đã phải trải qua
không ít khó khăn. Nếu chỉ có phong trào công nhân thì ta không thể có đủ
sức mạnh để thành lập Đảng. Nếu chỉ có phong trào yêu nước thì Cách mạng
cũng không thể giành thắng lợi. Nhưng nếu kết hợp cả phong trào công nhân
và phong trào yêu nước mà không có chủ nghĩa Mác – Lênin thì Đảng Cộng
sản cũng không thể ra đời vì thiếu sự vũ trang bằng lý luận khoa học, cách
mạng là Chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính vì thế, Đảng Cộng sản Việt Nam là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Thêm vào đó là những hoạt động thực tiễn chuẩn bị mọi
điều kiện cần thiết tới thành lập Đảng mà Hồ Chí Minh đã thực hiện. Tất cả
những điều đó đã tạo nên một tiền đề tốt nhất cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin
a) Quan điểm của Mác – Lênin về thành lập Đảng
C. Mác và V.I.Lênin chủ yếu quan tâm tới vấn đề thành lập Đảng Cộng
sản ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản ở đó được thành lập để thực
hiện những nhiệm vụ chính là lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao
động làm cách mạng nhằm lật đổ chế độ tư bản và tiến lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Từ tình hình thực tiễn, Lênin đưa ra luận

điểm rằng Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với
phong trào công nhân phương Tây. Trong đó, giai cấp công nhân phương Tây
là giai cấp có những đặc điểm như sau: họ là lực lượng tiên tiến trong sức sản
xuất xã hội; có ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tự giác cao; có hệ tư tưởng
khoa học dẫn đường – là hệ tư tưởng vô sản; họ vừa đông đảo về lực lượng,
vừa cao về trình độ, thêm nữa là giai cấp công nhân là tầng lớp nghèo nàn
trong xã hội trong tay họ hầu như không có gì vì thế họ có ý chí và tinh thần
3


đấu tranh triệt để. Với những đặc điểm đó, giai cấp công nhân hoàn toàn có
thể trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng, hoàn toản có thể gánh vác sứ mệnh
lịch sử giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Còn chủ nghĩa Mác là học
thuyết xã hội khoa học, mang lý tưởng về một xã hội nhân đạo thực sự. Từ
luận điểm Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với
phong trào công nhân phương Tây ta có thể thấy sức mạnh của Đảng Cộng
sản là vô cùng to lớn vì bản thân giai cấp công nhân phương Tây đã có rất
nhiều điểm mạnh giờ lại được vũ trang bằng học thuyết tiên tiến, khoa học,
mang lý tưởng về một xã hội thực sự.
b) Quan điểm của Hồ Chí Minh về thành lập Đảng
Khác với Mác và Lênin, Hồ Chí Minh không mấy quan tâm tới vấn đề
thành lập Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa mà Người quan tâm
tìm kiếm cơ sở thực tế dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản ở những nước
lạc hậu, phụ thuộc với những tàn tích phong kiến nặng nề. Chính vì hoàn cảnh
thành lập khác với các nước tư bản chủ nghĩa nên yêu cầu và nhiệm vụ của
Đảng Cộng sản ở những nước lạc hậu này không còn là lãnh đạo giai cấp vô
sản và quần chúng nhân dân lật đổ chế độ tư bản tiến lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản nữa mà đòi hỏi Đảng Cộng sản phải là một tổ
chức chính trị tiên phong, vững mạnh, có khả năng đề ra được đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn. Thêm vào đó, Đảng Cộng sản phải có khả

năng vận động, tập hợp, tổ chức quần chúng và gắn cách mạng giải phóng dân
tộc với cách mạng vô sản thế giới. Sau đó, Đảng phải có nhiệm vụ lãnh đạo
cách mạng giái phóng dân tộc, thực hiện làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, giải
quyết triệt để hai mâu thuẫn cơ bản là đánh đuổi thực dân đế quốc và lật đổ
phong kiến, tư sản đem lại ruộng đất cho dân cày. Muốn thực hiện được
4


những nhiệm vụ lớn lao đó, đòi hỏi Đảng phải công khai lập trường, quan
điểm của mình là đứng về phía nào? Bênh vực, bảo vệ ai, cái gì và chống lại
ai, chống lại cái gì? Về phương pháp thì đòi hỏi phải vừa mềm dẻo, vừa linh
hoạt, nhạy bén, biết nắm thời cơ và đưa quần chúng ra đấu tranh, tọa thành
phong trào quần chúng rộng lớn. Đặc biệt là Đảng phải được vũ trang bằng lý
luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, phải được xây dựng
theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản bởi vì chủ nghĩa
Mác – Lênin là học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất.
Học thuyết ấy đã chỉ ra con đường của sự tự giải phóng con người và sự phát
triển xã hội.
2. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Ở những nước tư bản chủ nghĩa thì Đảng cộng sản là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân phương Tây. Còn ở những
nước lạc hậu, phụ thuộc thì Đảng Cộng sản phải là sản phẩm của sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước.
a) Phong trào công nhân
Phong trào công nhân Việt Nam có điểm mạnh là đó là lự lượng tiên
tiến nhất trong sức sản xuất xã hội; có ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm
cao, nhạy bén với cái mới; họ được thấm nhuần hệ tư tưởng tiến bộ nhất – là
chủ nghĩa Mác – Lênin; họ có tinh thần đấu tranh triệt để và có khả năng lãnh

đạo Cách mạng.
Tuy nhiên giai cấp công nhân Việt Nam vẫn còn một số điểm hạn chế là
mới hình thành, còn mỏng về số lượng, phong trào còn yếu, chưa có kinh

5


nghiệm trong đấu tranh, còn manh mún, lẻ tẻ ở nhiều nơi, chưa biết kết hợp
để thành một phong trào rộng khắp
b) Phong trào yêu nước
Phong trào yêu nước có điểm mạnh là lúc đó phong trào yêu nước đang
diễn ra rộng lớn, đã và đang lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, chủ yếu là
nông dân tham gia chống chủ nghĩa thực dân, phong kiến
Điểm yếu của các phong trào yêu nước là thiếu đường lối lãnh đạo
đúng đắn, tuy đông nhưng diễn ra lẻ lẻ, rải rác, chưa biết đoàn kết, kết hợp lực
lượng để tạo thành sức mạnh to lớn, không đánh giá được hết vai trò của các
tầng lớp khác trong xã hội và không có hệ tư tưởng tiên tiến dẫn đường.
Nhận thức được những đặc điểm của phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đưa ra nhận định là phải kết hợp chúng
lại với nhau. Bởi vì nếu phong trào công nhân không gắn bó chặt chẽ với
phong trào yêu nước, không trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì
cách mạng sẽ không đử lực để mở rộng được cuộc đáu tranh đưa nó đến thắng
lợi. Nếu phong trào yêu nước không được dẫn dắt bới giai cấp công nhân với
đội tiên phong là Đảng Cộng sản thì cuộc đấy tranh của nó cũng không thể đi
đế thắng lợi. Thành công của Hồ Chí Minh là ở chỗ đã kết hợp nhuần nhuẫn
những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng đảng kiểu mới với
việc phân tích sâu sắc tình hình thực tế của cách mạng ở Việt Nam để hoàn
thiện lý luận về xây dựng Đảng của mình. Sự kết hợp giữa phong trào công
nhân với phong trào yêu nước đã tạo ra nguồn sức mạnh lớn cho dân tộc: sức
mạnh về trí tuệ và sức mạnh về lực lượng. Và chính sức mạnh này đã đưa dân

tộc ta đến thắng lợi cuối cùng. Vậy có thể khẳng định rằng “Chủ nghĩa Mác –

6


Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới
việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”.
3. Những hoạt động thực tiễn chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết tiến
tới thành lập Đảng
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Người đi
khắp năm châu bốn bể để tìm tòi học hỏi. Năm 1917, Người trở về Pa-ri hoạt
động vì đó là trung tâm chính trị của nước Pháp và của châu Âu lúc bấy giờ.
Đó cũng là lúc Cách mạng tháng Mười Nga thành công “như tiếng sấm bảo
hiệu mùa xuân”. Tuy chưa có điều kiện tìm hiểu sâu sắc cuộc Cách mạng này
nhưng Người có được một ấn tượng mạnh mẽ về sự quật khởi của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động Nga để rồi sau đó hướng theo tiếng súng của
Cách mạng tháng Mười, Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Năm 1919,
Người tham gia Đảng Xã hội Pháp vì đây là một chính đảng duy nhất ở Pháp
lúc bấy giờ bảo vệ, bày tỏ sự đồng tình với cuộc đấu tranh của các dân tộc
thuộc địa bị áp bức, bóc lột và theo đuổi những lý tưởng cao đẹp của cách
mang Pháp là tự do, bình đẳng, bác ái. Tháng 6-1919, nhân danh người Việt
Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc ký tên và gửi tới hội nghị Vécxây bản Yêu
sách tám điều của nhân dân An Nam với mong muốn được giúp đỡ để giành
độc lập tự do cho dân tộc. Tuy không được chấp thuận nhưng sự kiện đó đã
được báo chí tiến bộ Pháp công bố rộng rãi và gây ảnh hưởng chính trị vang
dội. Và cũng từ đó Người nhận ra bản chất lừa dối của chủ nghĩa đế quốc và
rút ra bài học rằng các dân tộc muốn được giải phỏng chỉ có thể trong cậy vào
sức mình là chính. Tháng 7-1920, Người đã thấy được con đường cứu nước
sau gần 10 năm tìm kiếm. Bản sơ thảo lần thứ nhất luận cương những vấ đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa đã làm cho Người thấy “cảm động, phẩn khới,

sáng tỏ, tin tưởng biết bao”. Ngày 25/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự đại
7


hội Tua của Đảng Xã hội Pháp. Người đứng về đa số đại biểu bỏ phiếu tán
thành gia nhập quốc tế công sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Sau khi tìm được con đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc vẫn tiếp tục
vừa học hỏi vừa hoạt động ở khắp các nước để có những chuẩn bị tốt nhất cho
sự thành lập Đảng ở Việt Nam về cả mặt tổ chức, tư tưởng và đường lối.
*Về mặt Tư tưởng:
Nguyễn Ái Quốc vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin và điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam để xây dựng một lý luận Cách
mạng giải phóng dân tộc rồi diễn đạt lý luận đó thành tiếng nói của dân tộc
Việt Nam và trao lại cho nhân dân trong nước
Lý luận Cách mạng giải phóng dân tộc được trình bày qua nhiều tài
liệu, bao gồm những bài viết cho các báo: Người Cùng Khổ, Nhân đạo, Đời
sống công nhân, Sự thật, Táp chí thư tín Quốc Tế, Thanh niên…qua tác phẩm
Đường Cách mệnh (1927) và qua một số tham luận được trình bày ở các Đại
hội Quốc tế nhất là ở Đại hội V của Quốc Tế Cộng sản năm 1924. Tại đây,
Người đã trình bày bản tham luận của mình, thể hiện rõ quan điểm của Người
về vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và mối quan hệ của phong trào
công nhân các nước đế quốc với phong trào công nhân ở thuộc địa, về vai trò,
sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở phong trào cách mạng thuộc địa. Bản
luận và những bài viết của Người tiếp tục được bí mật truyền bá về Việt Nam,
chuẩn bị tư tưởng cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trong nước.
Lý luận Cách mạng giải phóng dân tộc của Người là ánh sáng soi
đường cho lớp thanh niên yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đáng đi tìm
chân lý, là ngọn cờ hướng đạo Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ vận động
thành lập Đảng, là sự chuẩn bị về mặt tư tưởng chính trị cho sự ra đời của
8



Đảng, đồng thời đặt cơ sở để xây dựng nên phương hướng Cách mạng của
Đảng sau này.
*Về mặt tổ chức:
Nguyễn Ái Quốc đã thành lập ra Hội liên hiệp thuộc địa năm 1921 và
hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông năm 1925. Cuối năm 1924 sau
khi về Quảng Châu và tiếp xúc với những thanh niên ưu tú tại Tâm Tâm Xã,
Người đã quyết định thành lập Cộng sản Đoàn tháng 2-1925, đặt cơ sở cho
việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tháng 6-1925. Đây à
bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự thành lập của
Đảng. Trong thời gian từ năm 1925 đến 1927 Người tổ chức các lớp bồi
dưỡng, huấn luyện, đào tạo đầu tiên theo chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối
cách mạng mới, điều này đã tạo nên cho Cách mạng ta một đội ngũ cán bộ
cách mạng đông hơn về số lượng và cao hơn về chất lượng. Sau các khóa học,
những học viên xuất sắc được cứ đi học ở Trường Quân sự Hoàng Phố và
Trường đại học Phương Đông học tâp để sau đó trở về Việt Nam hoạt động
trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân
khác, số học viên còn lại thì trở về hoạt động trong nước để truyền bá lý luận
giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân, trở thành những người cốt cán của
phong trào trong nước, làm cho phong trào chuyển dần từ tự phát sang tự
giác.
*Về mặt đường lối:
Nguyễn Ái Quốc đã soạn thảo ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, điều lệ vắn tắt và chương trình vắn tắt của Đảng được hội nghị thành lập
Đảng thông qua. Chính cương vắn tắt và sách lược văn tắt là cương lĩnh chính

9



trị đầu tiên của Đảng, một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo
theo con đường Cách mạng Vô sản
*Vai trò của Nguyễn Ái Quốc với Hội nghị thành lập Đảng
Cuối năm 1929, phong trào cách mạng Việt Nam phát triển vô cùng
mạnh mẽ, làm xuất hiện 3 tổ chức Đảng là Đông Dương Cộng sản Đảng
(17/6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (8/1929) và Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn (9/1929) cùng tồn tại và hoạt động. Bên cạnh những mặt tích cực
thì hoạt động riêng rẽ của 3 tổ chức Đảng làm cho lực lượng và sức mạnh của
Cách mạng bị phân tán. Nhận thấy yêu cầu cấp thiết phải khắc phục tình trạng
đó, Nguyễn Ái Quốc rời từ Xiêm về Hương Cảng (Trung Quốc) để triệu tập
hội nghị hợp nhất gồm 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và 2 đại
biểu của An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6-1-1930
dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc (Đại diện của Quốc Tế Cộng sản). Ngày
8-2-1930 các đại biểu về nước. Việc quyết định tổ chức Hội nghị thành lập
Đảng là một quyết định của Nguyễn Ái Quốc nhằm đáp ứng yêu cầu Cách
mạng của lịch sử. Với tư cách là người thay mặt Quốc tế cộng sản, người sáng
lập ra hội Việt Nam cách mạng Thanh niên trước đây, người thầy của lớp
thanh niên yêu nước đầu thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc có uy tín tuyệt đối và
đưa hội nghị đến thành công, thống nhất được các tổ chức đảng thành một
Đảng duy nhất, đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc là người có công đầu trong quá trình chuẩn
bị điều kiện và sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở vào thời điểm mang
tính bước ngoặt của lịch sử, sự xuất hiện của Nguyễn Ái Quốc là sự xuất hiện
của một vị lãnh tụ. Chính vì thế, Nguyễn Ái Quốc được xem như là hình ảnh

10


tượng trưng cho bước ngoặt vĩ đại trong tiến tình phát triển Cách mạng của
lịch sử Việt Nam.

III. KẾT LUẬN
Tóm lại, ba tiền đề: chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và
phong trào yêu nước, và sự chuẩn bị về mặt thực tiễn của Hồ Chí Minh đã là
những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiểu rõ
được những tiền đế đó, ta càng thấy rõ được bản chất của Đảng ta, thấy rõ
được vai trò quyết định của Đảng trong mọi bước đường hoạt động của đất
nước ta. Sự sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng
Cộng sản việt Nam là dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin về xây dựng Đảng để nghiên cứu tình hình thực tế ở Việt Nam, từ đó có
sự khái quát về tư tưởng, lý luận; và từng bước tổ chức hoạt động thực tiễn để
kiểm nghiệm tính đúng đắn của những tư tưởng, lý luận đã tổng kết, khái quát
được của mình.
Qua 70 năm phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa con thuyền cách
mạng nước ta đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, dù trong hoàn cảnh nào,
bằng sự soi sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
ta cũng tìm ra được những đường lối đúng đắn, kịp thời sửa chữa những hạn
chế còn mắc phải. Nước ta đang tiến hành chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI nhằm đề ra những chủ trương, đường lối, chính sách để phát
triển và xây dựng đất nước phù hợp với tình hình hiện nay; việc học tập và
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản để soi sáng cho cuộc vận
động xây dựng và chỉnh đốn Đảng càng cấp bách hơn bao giờ hết. Thiết nghĩ,
nhờ những tiền đề vững chắc cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam,

11


Đảng ta sẽ hoàn thành được mục tiêu của mình, đưa nước ta thành một nước
xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Bộ giáo dục và đào tạo, NXB
chính trị quốc gia.
2. . Tư tưởng Hồ Chí Minh Một số nhận thức cơ bản – TS. Nguyễn
Mạnh Tường – Nxb Chính trị Quốc gia – Hà Nội năm 2009
3. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Hội đồng trung ương chỉ đạo biên
soạn giáo trình quốc gia các cán bộ khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2003.
4. Góp phần tìm hiểu lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam: hỏi và đáp,
Nguyễn Trọng Phúc, Nguyễn Quốc Bảo, Tái bản có sửa chữa, bổ sung,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2001.
5. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.Tập 1 : 1920-1954, Nxb. Sách giáo
khoa Mác Lê-nin, Hà Nội năm 1983.
6.

Những bài giảng về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Nguyễn
Khánh Bật, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2000.

7. Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, PTS.
Đàm Văn Thọ, PTS. Vũ Hùng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm
1997.
8. Một số chuyên đề về môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, Mạnh Quang
Thắng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1996
9. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam, Mạnh Quang
Thắng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1995.

12


10. Tư tưởng Hồ Chí Minh một số nội dung cơ bản, Nguyễn Bá Linh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1995.


13



×