Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Nhãn hiệu một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.41 KB, 20 trang )

Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

CHƯƠNG I:
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
I. Lý do lựa chọn đề tài
Nhãn hiệu, cùng với sáng chế, quyền tác giả và những đối tượng khác của quyền SHTT đang ngày
càng nhận được nhiều sự quan tâm trên bình diện quốc gia lẫn quốc tế. Trên thực tế, “nhãn hiệu”
đã được sử dụng từ khá sớm trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, cụ thể là từ thời kỳ Đồ
Đá. Quan điểm liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển của nhãn hiệu nổi bật và nhận được
sự ủng hộ của nhiều học giả trên thế giới đã chỉ ra rằng những hình thức sơ khai của nhãn hiệu
được sử dụng trên gia súc, cụ thể là những người nông dân vào thời kỳ này đã biết sử dụng sắt
nung nóng để đánh dấu lên những con vật thuộc sở hữu của mình. Thực tế này đã được khắc họa
lại trên các họa tiết, các nét vẻ trên các vách đá hay trên tường ở Ai Cập cổ đại. Một hình thức
“đánh dấu” khác cũng được sử dụng trên vật nuôi là hình thức cắt tai xuất hiện ở Madagascar. Mặc
dù vậy, phải đến những năm 1800, pháp luật về nhãn hiệu mới thật sự được ban hành lần đầu tiên ở
Anh Quốc và những vụ việc đầu tiên liên quan đến tranh chấp về nhãn hiệu được giải quyết tại các
Tòa án. Sau đó, vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nói riêng và quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nói chung đã
được thể chế hóa một cách mạnh mẽ trong nhiều điều ước quốc tế cũng như trong pháp luật quốc
gia. Những sự cố gắng đó hiển nhiên đã thể hiện được bước tiến bộ vượt bậc trong việc bảo hộ
nhãn hiệu ở từng quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một khía cạnh
pháp lý quan trọng của pháp luật về nhãn hiệu chưa được đề cập trong một thời gian khá dài, đó là
vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng – những nhãn hiệu được biết đến và sử dụng rộng rãi trên toàn
cầu hoặc ít nhất là trong một quốc gia hay một khu vực địa lý nhất định.
Rõ ràng là sự thiếu vắng của các quy định pháp luật trong lĩnh vực này đã mang lại những khó
khăn nhất định cho thực tiễn sử dụng và bảo hộ đối với nhiều nhãn hiệu nổi tiếng. Trong nhiều
năm qua đã có không ít những tranh chấp thương mại quốc tế phát sinh liên quan đến nhãn hiệu
nổi tiếng. Việc giải quyết những tranh chấp này chủ yếu được thực hiện dựa trên án lệ ở các nước
theo truyền thống Thông luật hay dựa trên các quy định pháp luật liên quan ở các nước theo truyền
thống Dân luật. Điều này vô hình chung đã mang lại nhiều thách thức cho việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp chính đáng của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng, đồng thời cản trở quá trình hoàn thiện
pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng cũng như tăng


cường và đảm bảo tính thống nhất, tính hiệu quả và sự khả thi của hệ thống pháp luật. Chính vì
vậy, việc xây dựng một thiết chế pháp lý mang tính toàn cầu bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là một
trong những mục tiêu quan trọng nhất của sự phát triển hệ thống pháp luật về nhãn hiệu trong môi
trường pháp lý quốc gia cũng như quốc tế.
Học thuyết pháp lý quốc tế liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng lần đầu tiên được thể chế hóa trong
Công ước Paris vào năm 1925. Ngày nay, học thuyết này trở nên đặc biệt quan trọng trong một thế
giới mà các hoạt động tiếp thị và quảng bá thương mại toàn cầu không ngừng gia tăng. Việc tạo ra
một thương hiệu toàn cầu ngày càng trở nên dễ dàng hơn rất nhiếu thông qua các kênh thông tin
mới, tiết kiệm và có thể tiếp cận từ xa. Trong khi các biên giới và ranh giới chính trị giữa các quốc
gia có vẻ như đang gây ra không ít những trở ngại cho sự tự do đi lại của các cá nhân trên toàn cầu
thì chúng cũng không thể nào ngăn cản được dòng chảy tự do của thông tin. Như vậy, một nhãn
hiệu có thể được đồng thời chuyển tải đến bất kỳ nơi nào để đến với người tiêu dùng cũng như
toàn thể công chúng qua nhiều kênh thông tin hiệu quả và nhanh chóng. Bằng cách đó, một nhãn
hiệu có thể nhanh chóng được biết đến rộng rãi trên nhiều thị trường trên thế giới bất chấp những
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 1


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

hạn chế đối với sự di chuyển của cá nhân. Có thể thấy rằng nhãn hiệu nổi tiếng đã được công nhận
như là một trong những hình thức quan trọng nhất của hệ thống nhãn hiệu như đã được ghi nhận
trong hệ thống pháp luật quốc gia lẫn trong các Điều ước quốc tế. Cơ chế pháp lý bảo hộ nhãn hiệu
nổi tiếng tiếp tục được củng cố và phát triển theo thời gian nhờ vào sự nhận thức về tầm quan
trọng của nhãn hiệu nổi tiếng không ngừng gia tăng trên toàn cầu cũng như sự phát triển của vai trò
của nhãn hiệu nổi tiếng trong hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù vậy, những vấn đề pháp lý này
vẫn còn là những khái niệm khá mới mẻ ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia đang và
kém phát triển, trong đó có Việt Nam.
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam đã cố gắng tạo ra một hệ thống những quy

định chung về quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) trong BLDS 1995 và quyền sở hữu công nghiệp
(SHCN) trong Nghị định số 63/CP năm 1996, như là những nền tảng pháp lý đầu tiên của pháp luật
Việt Nam liên quan đến mảng SHTT. Chúng cũng có thể được coi là nguồn cơ bản của pháp luật
nhãn hiệu Việt Nam ở giai đoạn này. BLDS 1995 sau đó đã được bổ sung, sửa đổi năm 2005 và
được thay thế bởi BLDS 2005. Tiếp theo đó, cuối năm 2005, Việt Nam đã tiếp tục ban hành một
văn bản pháp luật duy nhất và thống nhất điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền SHTT. Ngoài
ra, những quy định của pháp luật về nhãn hiệu có thể được tìm thấy ở các văn bản pháp lý khác
được ban hành bởi các cơ quan có thẩm quyền như Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Bộ
Công thương, Bộ Tư pháp…
Năm 2006, đã có khá nhiều sự kiện trọng đại xảy ra có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế đất nước
cũng như quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong đó, sự kiện quan trọng nhất
có thể kể đến là quá trình đàm phán gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Việt
Nam đã thành công tốt đẹp, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức này.
Đây chính là một bước ngoặc lớn trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Bên cạnh đó, một
số sự kiện khác cũng đã diễn ra và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hệ thống pháp luật về Sở hữu trí tuệ
của nước ta, đó là sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Nghị định thư Madrid vào
ngày 11/04/2006 và ngày 11/07/2006 thì Nghị định thư đã phát sinh hiệu lực trên lãnh thổ Việt
Nam; đó là sự bắt đầu hiệu lực của một đạo luật đầu tiên về Sở hữu trí tuệ của Việt Nam vào ngày
01/06/2006. Tuy nhiên, những cố gắng kể trên nhìn chung chỉ thể hiện ở bề nổi và mang tính vĩ
mô nhiều hơn chứ chưa đi vào giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả những nhu cầu thực tiễn
mà xã hội đang đặt ra, đặc biệt là đối với việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Mặc dù đã có khá nhiều
các quy định pháp luật cụ thể được ban hành, song cơ chế đảm bảo thực thi các quy định đó còn
khá hạn chế, hiệu quả của quá trình áp dụng pháp luật chưa cao.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Như đã đề cập ở trên, nhãn hiệu nổi tiếng và những vấn đề pháp lý liên quan đến việc bảo hộ nhãn
hiệu nổi tiếng chưa được giải quyết một cách thỏa đáng ở Việt Nam. Vì vậy, đề tài này hướng đến
hai mục đích chính. Thứ nhất, đề tài sẽ là một đóng góp đáng kể vào hệ thống lý luận về nhãn hiệu
nổi tiếng không những trên phương di ện toàn cầu mà, quan trọng hơn, còn tập trung vào hoàn
cảnh thực tế của Việt Nam. Điều này nhằm giúp những chủ thể liên quan có thể nhận biết được
nhãn hiệu nổi tiếng trong thị trường để có thể phân biệt chúng với các nhãn hiệu thông thường

khác. Thứ hai, thông qua sự phân tích và đánh giá cơ chế pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
trong bối cảnh pháp lý quốc tế nói chung và trong những hệ thống pháp luật quốc gia cụ thể để rút
ra những cách thức phù hợp nhằm củng cố và tăng cường hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 2


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Để có thể đạt được những mục đích nêu trên, đề tài sẽ phải giải quyết được những nhiệm vụ cụ thể
sau đây:
Một là, đề tài phải giới thiệu được một cách khái quát những kiến thức lý luận cơ bản về nhãn hiệu
nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng. Điều này sẽ giúp mang lại câu trả lời cơ bản nhất cho
câu hỏi thế nảo là nhãn hiệu nổi tiếng trong bối cảnh toàn cầu.
Hai là, đề tài sẽ phải thực hiện được một sự so sánh khá đầy đủ và cơ bản giữa hai hệ thống pháp
luật của EU và Việt Nam về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
Ba là, đề tài phải phân tích được tình huống thực tế của Việt Nam liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu,
đặc biệt tập trung vào nhãn hiệu nổi tiếng, và đánh giá hiệu quả của hệ thống pháp luật hiện hành
cũng như những thách thức đặt ra cho Việt Nam trong quá trình hội nhập vào hệ thống thương mại
toàn cầu.
Cuối cùng, từ những phân tích nói trên, đề tài sẽ đề xuất những giải pháp hợp lý và khoa học nhằm
củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
III. Phạm vi nghiên cứu
Cần khẳng định rằng đề tài tập trung chủ yếu vào kiền thức lý luận và những vấn đề thực tiễn liên
quan đến nhãn hiệu nổi tiếng và cơ chế pháp lý bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng như là một phần riêng
biệt trong hệ thống pháp luật về nhãn hiệu. Theo đó, đề tài bắt đầu bằng cái nhìn tổng thể về khái
niệm nhãn hiệu nổi tiếng ở góc độ lý luận và đi vào phân tích các thiết chế pháp lý quốc tế quan
trọng có liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng như Công ước Paris, Hiệp định TRIPs…

Quá trình này bao gồm cả sự phân tích và so sánh những vấn đề pháp lý cụ thể liên quan đến khái
niệm và cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cũng như hệ thống thực thi của nó trong hệ thống pháp
luật quốc tế và một số quốc gia. Nhìn chung đề tài đề cập chủ yếu nhãn hiệu nổi tiếng, và trong
một chừng mực nhất định có liên hệ đến nhãn hiệu rất nổi tiếng (famous trademarks) và nhãn hiệu
có danh tiếng (trademarks with a reputation). Tuy nhiên, những khía cạnh khác của quyền SHTT
nói chung cũng được tham chiếu đến nhằm mục đích so sánh hoặc làm rõ thêm những vấn đề lý
luận liên quan đến nội dung của đề tài.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài thống nhất và phù hợp với mục tiêu nghiên cứu đã được xác định để
đảm bảo rằng những nhiệm vụ chính của đề tài được giải quyết một cách thỏa đáng.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp pháp lý truyền thống
Phù hợp với mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài, tác giả vận dụng phương pháp pháp lý truyền
thống trong việc tiếp cận và nghiên cứu các quy định liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và các văn bản pháp luật quốc gia bao gồm Công ước
Paris, Hiệp định TRIPs, Chỉ thị về thống nhất pháp luật nhãn hiệu của EU, Quy chế về Nhãn hiệu
cộng đồng của EU, Luật SHTT Việt Nam cũng như pháp luật nhãn hiệu của một số quốc gia châu
Âu cụ thể.
Ngoài ra, các án lệ cũng là một loại nguồn quan trọng được sử dụng trong Luận án nhằm giải thích
các quy định của pháp luật về nhãn hiệu nổi tiếng cũng như làm rõ cách thức mà pháp luật được áp
dụng trong từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn, ở khía cạnh pháp luật EU, thông qua việc nghiên
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 3


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

cứu các vụ việc cụ thể như vụ General Motors hay vụ Davidoff đề tài sẽ giúp người đọc hiểu
được cách thức mà quy định tại Điều 4 và Điều 5 của Chỉ thị về thống nhất pháp luật nhãn hiệu của
EU được giải thích và áp dụng. Ở khía cạnh của pháp lu ật Việt Nam, mặc dù không có nhiều vụ

việc liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trên thực tế, nhưng tác giả cũng đã cố gắng giới thiệu
và phân tích một số vụ việc điển hình như vụ McDonald’s hay vụ Shangri-La để làm sáng tỏ cách
thức mà cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được giải thích và vận hành ở Việt Nam.
Như vậy, phương pháp giáo điều pháp lý hay phương pháp pháp lý truyền thống được ưu tiên sử
dụng xuyên suốt toàn bộ nội dung của đề tài. Những phân tích và đánh giá thông qua việc sử dụng
phương pháp này để nghiên cứu và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật.
Phương pháp pháp lý so sánh
Tùy thuộc vào phạm vi tiếp cận cụ thể của từng chương, phương pháp này được sử dụng ở mức độ
khác nhau ở những phần khác nhau. Phương pháp pháp lý so sánh đóng vai trò quan trọng nhất
trong nội dung chương tập trung chủ yếu vào việc so sánh giữa hệ thống pháp luật của EU và Việt
Nam liên quan đến vấn đề bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Sau khi đã nghiên cứu cẩn thận hệ thống
pháp luật của EU và Việt Nam sẽ tiếp tục một cách hệ thống bằng việc so sánh các nội dung cụ thể
được quy định bởi hai hệ thống pháp luật để phân tích và lý giải những khác biệt và tương đồng,
những thành tựu và hạn chế của từng hệ thống. Sự so sánh được thực hiện dựa trên những vấn đề
pháp lý quan trọng liên quan đến cơ chế bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng như cách thức xác định nhãn
hiệu nổi tiếng, các căn cứ pháp lý của việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng, phạm vi bảo hộ đối với
nhãn hiệu nổi tiếng cũng như sự thực thi của cơ chế pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Những
phân tích so sánh được thực hiện ở chương này sẽ trở thành nền tảng lý luận quan trọng cho
những đề xuất, kiến nghị cho Việt Nam trong chương tiếp theo (chương 5).
Phương pháp pháp lý lịch sử
Trong đề tài, phương pháp pháp lý lịch sử được sử dụng trong từng phần cụ thể ở từng chương
nhất định tùy thuộc vào nội dung của các vấn đề được giải quyết. Trước hết, cần thiết phải thực
hiện một nghiên cứu khái quát về quá trình phát triển mang tính lịch sử của hệ thống pháp luật của
EU và Việt Nam để cung cấp một cái nhìn tổng thể và một bức tranh sơ lược về bối cảnh của hai
hệ thống này, để tìm hiểu những nền tảng lý luận cơ bản làm cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề
pháp lý liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài. Ở cấp độ cụ thể hơn, phương pháp pháp lý
lịch sử được vận dụng trong quá trình phân tích các nội dung cụ thể được trình bày trong các
chương. Chẳng hạn, sự xem xét dưới góc độ lịch sử đối với sự ra đời và phát triển của học thuyết
về nhãn hiệu nổi tiếng thông qua các quy định của các điều ước quốc tế và pháp luật các quốc gia
được trình bày hay sự tìm hiểu ở khía cạnh lịch sử của học thuyết về sự lu mờ nhãn hiệu đóng vai

trò quan trọng trong việc tìm hiểu và lý giải cơ chế pháp lý hiện tại về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ở
cấp độ quốc gia lẫn quốc tế.
Phương pháp pháp lý kinh tế
Phương pháp pháp lý kinh tế được sử dụng một cách phù hợp trong đề tài để làm rõ những vấn đề
liên quan đến giá trị kinh tế, thương mại của những vấn đề pháp lý đang được xem xét. Cụ thể,
phương pháp pháp lý kinh tế phải được xem xét đến khi giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan đến
sự cần thiết phải mở rộng phạm vi bảo hộ đối với nhãn hiệu nổi tiếng, hoặc khi xem xét, đánh giá
giá trị thương mại của nhãn hiệu, hoặc để xác định các hành vi xâm phạm nhãn hiệu trong các vụ
kiện dựa trên thiệt hại về kinh tế.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 4


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Phương pháp pháp lý xã hội
Phương pháp pháp lý xã hội có vẻ ít quan trọng hơn so với các phương pháp nghiên cứu khác. Tuy
nhiên, pháp luật luôn tồn tại trong mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố xã hội khác và dĩ nhiên sẽ bị
ảnh hưởng không nhỏ bởi các yếu tố đó. Do vậy, khi nghiên cứu và giải quyết các vấn đề pháp lý
cụ thể, cách thức thông thường được thực hiện là đặt chúng trong các mối liên hệ xã hội nhất định
để đánh giá sự tương tác giữa chúng với các yếu tố khác.
Cần thừa nhận rằng có nhiều sự khác biệt giữa các cộng đồng khác nhau trong việc đánh giá một
vấn đề pháp lý cụ thể do những điều kiện xã hội khác nhau tác động lên chúng. Vì thế, nội dung
của đề tài được giới hạn và xác định trong mối liên hệ biện chứng giữa pháp luật và xã hội.
CHƯƠNG II:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÃN HIỆU
I. Khái niệm:
1. Tổng quan về nhãn hiệu:
Nhãn hiệu nổi tiếng trước tiên vẫn phải được xác định là nhãn hiệu như tất cả các nhãn hiệu khác.

Do vậy, trước khi tiếp cận nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng, cần thiết
phải có cái nhìn chung về pháp luật nhãn hiệu và phải đặt nhãn hiệu nổi tiếng trong toàn bộ hệ
thống pháp luật nhãn hiệu nói chung. Ở phần này, tác giả tập trung giới thiệu một bức tranh tổng
quát về nhãn hiệu và pháp luật nhãn hiệu với tư cách là nền tảng lý luận cơ bản của cơ chế pháp lý
về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
1.1 Khái niệm nhãn hiệu:

Nhãn hiệu là một yếu tố đặc trưng gắn liền giữa thị
trường thương mại và lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Nó đã được sử dụng trong một thời gian dài
bởi các nhà sản xuất cũng như các thương nhân để xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hay
dịch vụ của họ và phân biệt những hàng hóa, dịch vụ đó với các hàng hóa, dịch vụ được sản xuất
hay bán bởi các chủ thể khác. Chức năng phân biệt nguồn gốc của hàng hóa hay dịch vụ luôn được
xem là yếu tố quan trọng nhất của nhãn hiệu. Vì vậy nó luôn đóng vai trò trung tâm và được đề cập
đến rất nhiều trong pháp luật về nhãn hiệu của hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 5


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Nhãn hiệu có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
- Theo Davis Bainbridge, nhãn hiệu thông thường được định nghĩa bởi tòa án là nhãn mác, dấu
hiệu hay biểu tượng, mà chức năng đầu tiên và cơ bản của chúng là để “xác định nguồn gốc hay
quyền sở hữu đối với hàng hóa mang nó được gắn vào”;
- Theo một định nghĩa được sử dụng trên trang web chính thức của Văn phòng Nhãn hiệu và Sáng
chế Hoa Kỳ (USPTO), nhãn hiệu hàng hóa là bất kỳ từ ngữ, tên gọi, một biểu tượng hay hình vẽ
hay bất kỳ sự kết hợp nào của chúng được sử dụng, hoặc sẽ được sử dụng trong thương mại để xác
định nguồn gốc hàng hóa và phân biệt những hàng hóa đó với hàng hóa của các nhà sản xuất hoặc

nhà phân phối khác. Nói cách khác, nhãn hiệu có thể được hiểu như tên thương mại;
- Theo pháp luật nhãn hiệu EU, khái niệm nhãn hiệu được sử dụng thống nhất cho cả hàng hóa và
dịch vụ. Theo đó, “nhãn hiệu có thể bao gồm bất kỳ dấu hiệu nào có thể được trình bày một cách
vật chất và riêng biệt dưới dạng từ ngữ, bao gồm tên riêng, các thiết kế, chữ cái, con số, hình dáng
hay bao bì hàng hóa, có khả năng phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của một chủ thể này với hàng
hóa hay dịch vụ của các chủ thể khác”;
- Theo quan điểm của Việt Nam, nhãn hiệu được định nghĩa một cách khái quát tại Điều 4 (16) của
Luật SHTT năm 2005 (bổ sung, sửa đổi năm 2009) là “dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ
của các tổ chức, cá nhân khác nhau”;
- Ở góc độ chung nhất, nhãn hiệu có thể được hiểu là bất kỳ dấu hiệu nào có thể nhận biết được
bao gồm từ ngữ, tên gọi, chữ cái, con số, biểu tượng, thiết kế, hình vẽ hay bất kỳ sự kết hợp nào
của chúng, và kiểu dáng hay bao bì hàng hóa được sử dụng hoặc sẽ được sử dụng trong thương
mại để xác định và phân biệt hàng hóa hay dịch vụ của chủ thể này với hàng hóa hay dịch vụ của
các chủ thể khác.
1.2 Đặc điểm của nhãn hiệu:
- Tính phân biệt: Việc đăng ký đối với một nhãn hiệu sẽ bị từ chối và theo đó quyền sở hữu trí tuệ
liên quan đến nhãn hiệu cũng sẽ không được bảo vệ nếu nhãn hiệu không có tính phân biệt hoặc
trong một số trường hợp tính phân biệt đó không được thể hiện một cách rõ ràng.
- Tính đa dạng: các dấu hiệu được xem xét như là nhãn hiệu luôn tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau, như là những từ ngữ, tên gọi (bao gồm cả tên riêng), biểu tượng, hình ảnh, âm thanh
hay bất kỳ sự kết hợp nào của các yếu tố này, hình dạng của hàng hóa (nhãn hiệu không gian ba
chiều), màu sắc hay sự kết hợp các màu sắc và bất kỳ một cái gì khác có thể được sử dụng để xác
định những hàng hóa hay dịch vụ được bán hay được cung cấp trên thị trường.
- Tính giá trị: Nhãn hiệu là một dạng tài sản rất quan trọng của chính doanh nghiệp. Giá trị
thương mại của nhãn hiệu có thể được xác định khi chính bản thân các nhãn hiệu có thể được đưa
vào lưu thông chuyển nhượng trên thị trườngnhãn hiệu mà còn là một dạng tài sản rất quan trọng
của chính doanh nghiệp. Giá trị thương m ại của nhãn hiệu có thể được xác định khi chính bản thân
các nhãn hiệu có thể được đưa vào lưu thông chuyển nhượng trên thị trường.
- Giới hạn lãnh thổ trong việc bảo hộ: Theo nguyên tắc giới hạn của lãnh thổ quốc gia, một nhãn
hiệu thông thường phải được đăng ký bảo hộ ở một quốc gia hay một vùng lãnh thổ nhất định. Khi

đó nó sẽ được bảo hộ bởi pháp luật của quốc gia hay vùng lãnh thổ đó.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 6


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

1.3 Chức năng của nhãn hiệu:

Các chức năng cơ bản đó bao gồm:
- Xác định nguồn gốc tự nhiên của hàng hóa và dịch vụ mang nhãn hiệu;
- Là sự đảm bảo cho nguồn gốc của hàng hóa và dịch vụ;
- Đảm bảo cho chất lượng của hàng hóa và dịch vụ;
- Được sử dụng như biểu tượng của chủ sở hữu nhãn hiệu;
- Được sử dụng như biểu tượng để quảng bá sản phẩm;
- Đôi khi được sử dụng như là đại diện cho phương châm sống của người tiêu dùng.
2. Phân biệt “thương hiệu” và “nhãn hiệu”:
Thời gian qua, mặc dù đã có rất nhiều những trao đổi và tranh luận trên các diễn đàn khác nhau về
thuật ngữ thương hiệu, nhưng xem ra dường như vẫn chưa có được một cách hiểu thống nhất về
thuật ngữ này. Nhiều người vẫn cho rằng việc sử dụng thuật ngữ thương hiệu chỉ là cách nói "dân
dã", còn chính thức phải gọi là nhãn hiệu hàng hoá. Có ý kiến cho rằng, chỉ nên sử dụng những
thuật ngữ đã được chuẩn hoá (trong trường hợp này là nhãn hiệu hàng hoá, vì nó hiện diện trong
các văn bản pháp luật của Việt Nam). Theo chúng tôi, cách hiểu như vậy cũng chưa hẳn là hoàn
toàn đúng. Thực tế thì "thương hiệu" đang được dùng rất rộng rãi và khi dùng thuật ngữ này,
những người dùng cũng hoàn toàn không có ý định để thay thế cho thuật ngữ "nhãn hiệu hàng
hoá" vốn đã và đang hiện diện trong các văn bản pháp lý. Và như thế, có thể hiểu rằng đang tồn tại
đồng thời cả thuật ngữ nhãn hiệu hàng hoá và thương hiệu.
Theo nhóm tác giả, thương hiệu là tập hợp các dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của cơ sở
này với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của cơ sở khác; là hình tượng về một cơ sở sản xuất, kinh

doanh hoặc về một loại hàng hóa, dịch vụ trong tâm trí khách hàng. Các dấu hiệu trong thương
hiệu có thể là các chữ cái, con số, hình vẽ, hình tượng, sự thể hiện của màu sắc, âm thanh… hoặc
sự kết hợp của các yếu tố đó; dấu hiệu cũng có thể là sự cá biệt, đặc sắc của bao bì và đách đóng
gói hàng hoá. Song, vấn đề quan trọng mà những người sử dụng thuật ngữ thương hiệu muốn đề
cập đến chính là hình tượng của sản phẩm và doanh nghiệp trong tâm trí khách hàng. Có được
những dấu hiệu để phân biệt sản phẩm không khó, nhưng đưa hình ảnh của sản phẩm đó đến với
người tiêu dùng và cố định hình ảnh đó trong tâm trí của họ là công việc khó khăn gấp bội.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 7


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Trở lại với vấn đề sự khác biệt giữa thương hiệu và nhãn hiệu hàng hóa, có thể hình dung như sau:
Thứ nhất: Nếu chỉ xét đơn thuần về khía cạnh vật chất, nghĩa là nhìn nhận dựa vào tên gọi, logo
thì nhãn hiệu hàng hóa và thương hiệu rất khó phân biệt, nếu không muốn nói là một. Tất nhiên, ở
đây cũng có thể tìm ra sự khác biệt, đó là khi nói đến thương hiệu người ta thường nói đến cả khẩu
hiệu, nhạc hiệu mà điều này gần như không được đề cập đến trong nhãn hiệu hàng hoá. Nghĩa là,
chúng ta có thể chỉ nghe nói đến "Nâng niu bàn chân Việt" là đã nghĩ ngay đến Biti's.
Thứ hai:Thuật ngữ thương liệu và nhãn hiệu là hai thuật ngữ được dùng trong những ngữ cảnh
khác nhau. Ở góc độ pháp lý, sử dụng thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa là đúng như trong các quy
định của luật pháp Việt Nam, nhưng ở góc độ quản trị doanh nghiệp và marketing thì người ta
thường dùng thuật ngữ thương hiệu. Trong tiếng Anh, 2 thuật ngữ Brand và Trademark cũng tồn tại
song song và người ta cũng dùng trong những ngữ cảnh tương ứng như vậy. Thực tế, trong các tài
liệu của nước ngoài, chúng ta thường gặp các cụm từ "Building Brand", "Brand Strategy"; "Brand
Image"; "Brand Vision"; "Brand Manager"… mà hiểu theo cách của chúng tôi là "Xây dựng
thương hiệu"; "Chiến lược thương hiệu"; "Hình ảnh thương hiệu"; "Tầm nhìn thương hiệu"; "Quản
trị thương hiệu". Trong khi đó thuật ngữ "Trademark" lại chỉ gặp khi nói về vấn đề đăng ký bảo hộ
hoặc trong các văn bản pháp lý (chẳng hạn registered trademarks), mà không gặp các cụm từ tương

ứng là "Building trademark"; "Trademark Manager"; "Trademark Vision". Đến đây lại gặp phải
một khúc mắc về dịch thuật? Đó là, Brand trong nguyên nghĩa từ tiếng Anh là nhãn hiệu, dấu hiệu;
còn Trademar có thể được dịch là dấu hiệu thương mại? Tuy nhiên, với quan điểm của mình, các
nội dung được trình bày trong bài viết này hướng vào thuật ngữ Brand, mà vẫn theo chúng tôi, hiện
nay tại Việt Nam đang được nhiều người hiểu là thương hiệu. Như vậy thì sự tranh cãi về thuật ngữ
thương hiệu và nhãn hiệu vẫn chưa ngã ngũ, mà chủ yếu là do cách tiếp cận từ những góc độ khác
nhau của vấn đề.
Thứ ba: Cũng có thể phân biệt thương hiệu và nhãn hiệu hàng hoá trên một số khía cạnh cụ thể
như sau:
- Nói đến thương hiệu không chỉ là nói đến các dấu hiệu như trong nhãn hiệu hàng hoá mà quan
trọng hơn là nói đến hình tượng về hàng hoá trong tâm trí người tiêu dùng. Nó thật sự trừu tượng
và vì thế đã có người gọi thương hiệu là phần hồn còn nhãn hiệu hàng hoá là phần xác.
- Nhãn hiệu được tạo ra chỉ trong thời gian đôi khi là rất ngắn, trong khi để tạo dựng được một
thương hiệu (tạo dựng hình ảnh về hàng hoá, dịch vụ trong tâm trí người tiêu dùng) đôi khi là cả
cuộc đời của doanh nhân.
- Thương hiệu nổi tiếng sẽ tồn tại mãi theo thời gian nhưng nhãn hiệu hàng hoá thì chỉ có giá trị
pháp lý trong thời gian nhất định (thời hạn bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa thường là 10 năm và có thể
được kéo dài bằng việc gia hạn).
- Nhãn hiệu hàng hoá được các cơ quan quản lý Nhà nước công nhận và bảo hộ còn thương hiệu là
kết quả phấn đấu lâu dài của doanh nghiệp và người tiêu dùng chính là người công nhận.
CHƯƠNG III:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN NHÃN HIỆU
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 8


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn còn băn khoăn do chưa nắm bắt đầy đủ những vấn đề liên quan

đến đăng ký nhãn hiệu và làm sao để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt
nhất.

I. Đăng ký nhãn hiệu hàng hóa:
1. Đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam:
Đăng ký nhãn hiệu hàng hoá tại Việt Nam, Nhãn hiệu, thương hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt
hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.
Nhãn hiệu có thể được thể hiện bằng chữ, bằng hình, logo, slogan hoặc kết hợp của các yếu tố nêu
trên.
Để được đăng ký nhãn hiệu, thương hiệu tại Việt Nam, nhãn hiệu, thương hiệu phải đáp ứng tiêu
chuẩn bảo hộ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Cụ thể, nhãn hiệu, thương hiệu p đăng ký
phải có tính chất phân biệt, không được tương tự gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu của một chủ thể
đã đăng ký nhãn hiệu trước đó. Nhãn hiệu không được là những yếu tố loại trừ như là hình quốc
kỳ, quốc ca, là những yếu tố dễ nhận biết, phổ biến như chữ số, chữ cái, những hình ảnh đơnn giản,
hiển nhiên, những từ ngữ mang tính chất mô tả hàng hóa, dịch vụ.
Khi chủ thể đăng ký và được cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu, thương hiệu, chủ thể có quyền độc
quyền gắn nhãn hiệu, thương hiệu trên sản phẩm và dịch vụ của mình, có quyền cho người khác sử
dụng thông qua hợp đồng li-xăng nhãn hiệu, có quyền chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu, có
quyền ngăn chặn bất kỳ bên thứ 3 nào có hành vi vi phạm.
Để tiết kiệm thời gian và chi phí đăng ký nhãn hiệu, trước khi đăng ký, chủ sở hữu nên nhờ sự trợ
giúp của các tổ chức sở hữu trí tuệ tiến hành tra cứu khả năng đăng ký nhãn hiệu, thương hiệu. Kết
quả tra cứu sẽ có trong 7 ngày làm việc và tài liệu cần cung cấp là mẫu nhãn hiệu, hàng hóa dịch
vụ người dùng cần đăng ký.
Khi đã nhận được kết quả tra cứu, nếu kết luận nhãn hiệu có khả năng đăng ký, chủ thể nên tiến
hành đăng ký nhãn hiệu ngay lập tức để có ngày ưu tiên nộp đơn sớm nhất.
Tài liệu đăng ký gồm:
-

Mẫu nhãn hiệu (09 mẫu)


-

Sản phẩm và dịch vụ cần đăng ký (liệt kê).

-

Giấy ủy quyền cho tổ chức dịch vụ sở hữu trí tuệ.

Thời hạn thẩm định đơn:
Cục Sở Hữu Trí Tuệ sẽ nhận đơn đăng ký và đóng dấu xác nhận ngày nộp đơn, số đơn. Sau đó,
nhãn hiệu sẽ được thẩm định qua 2 giai đoạn:
Giai đoạn thẩm định hình thức: Trong vòng 1 tháng kể từ ngày nộp đơn, thẩm định về hình thức
đơn như bản mô tả đơn, nhóm sản phẩm và dịch vụ đã phân chính xác theo thỏa ước Nice chưa?
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 9


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Nếu đơn đáp ứng, Cục SHTT sẽ cấp Quyết định chấp nhận đơn hợp lệ và đơn sẽ được công bố trên
công báo sở hữu công nghiệp (bản giấy và bản điện tử).
Giai đoạn thẩm định nội dung: Trong vòng 9 tháng kể từ ngày công bố đơn, thẩm định xem nhãn
hiệu có đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ không, có tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của bên thứ 3
đã đăng ký trước đó hay không? Nếu đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ, nhãn hiệu sẽ được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký nhãn hiệu và sẽ được đăng công báo sở hữu công nghiệp (bản giấy và bản
điện tử).
Về thời hạn thẩm định, theo quy định của Luật là 1 năm, tuy nhiên, thời gian có thể bị kéo dài do
nhiều lý do như nhãn hiệu bị từ chối do phân nhóm chưa chính xác, do chậm chễ của các thẩm
định viên…

Nhãn hiệu khi được cấp văn bằng bảo hộ có hiệu lực trong vòng 10 năm kể từ ngày nộp đơn.
Trước 6 tháng đến ngày hết hạn, chủ sở hữu phải tiến hành gia hạn để duy trì hiệu lực.
Chủ sở hữu nhãn hiệu cũng có nghĩa vụ phải sử dụng nhãn hiệu trong vòng 5 năm kể từ ngày cấp
văn bằng bảo hộ. Nếu không sử dụng, nhãn hiệu có thể bị bên thứ 3 yêu cầu hủy bỏ hiệu lực với lý
do nhãn hiệu không được sử dụng trong 5 năm liên tiếp.
2. Đăng ký nhãn hiệu hàng hóa tại nước ngoài:
Nhãn hiệu khi đăng ký thì chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ nơi nó đăng ký. Do đó, nếu
muốn xuất khẩu hàng hoá hoặc hướng tới thị trường nước ngoài thì doanh nghiệp cần phải tiến
hành đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu mình tại quốc gia đó. Do không hiểu được vấn đề trên nên
nhiều doanh nghiệp trước đây chỉ nghĩ đơn giản mình chỉ cần đăng ký tại Việt Nam, đến khi bị
“mất” nhãn hiệu tại nước ngoài mới giật mình.
Đăng ký nhãn hiệu tại nước ngoài có thể được tiến hành bằng cách đăng ký trực tiếp tại nước đó;
hoặc đăng ký quốc tế theo Thoả ước Madrid hoặc Nghị định thư Madrid. Việc đăng ký nhãn hiệu
có thể được tiến hành bởi chính tổ chức, cá nhân có nhãn hiệu cần đăng ký hoặc có thể thông qua
một đại diện sở hữu trí tuệ. Thông thường, các công ty lớn thường tìm đến những công ty luật danh
tiếng hoặc một đại diện sở hữu trí tuệ chuyên nghiệp để có được sự tư vấn và giúp đỡ tốt nhất.
II. Những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi nhãn hiệu
đã được đăng ký hoặc trong đang trong quá trình đăng ký:
Giờ đây, khi nhận thức về quyền sở hữu trí tuệ dần được nâng cao thì người ta quan tâm nhiều đến
các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng liên quan đến “tài sản vô hình” của
doanh nghiệp. Có thể liệt kê một vài các biện pháp như sau:
1. Phản đối cấp giấy chứng nhận đối với các đơn nộp sau:
Khi đã nộp đơn đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ, người đăng ký nhãn hiệu có quyền phản đối việc
cấp giấy chứng nhận đối với các đơn đăng ký nhãn hiệu nộp sau đó nếu nhãn hiệu đăng ký sau
trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã đăng ký trước đó của mình.
Điểm e, khoản 2, Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005: “Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên
kết trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hoá, dịch
vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn trong
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ


Page 10


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo
điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
2. Xin hủy hiệu lực của văn bằng bảo hộ:
Khi bị người khác đăng ký trước nhãn hiệu, có thể xin huỷ nhãn hiệu đó trên cơ sở 5 năm không
sử dụng.
Điểm d, khoản 2, Điều 95 Luật Sở hữu trí tuệ: “1. Văn bằng bảo hộ bị chấm dứt hiệu lực trong
các trường hợp sau đây:Nhãn hiệu không được chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu cho phép
sử dụng trong thời hạn năm năm liên tục trước ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực mà không có lý
do chính đáng, trừ trường hợp việc sử dụng được bắt đầu hoặc bắt đầu lại trước ít nhất ba tháng
tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực”.
3. Yêu cầu xử lý hành chính hành vi vi phạm hoặc khởi kiện ra Tòa:
Nếu phát hiện trên thị trường có hàng hoá có dấu hiệu vi phạm quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
nhãn hiệu, chủ sở hữu nhãn hiệu còn có thể yêu cầu các cơ quan chức năng như quản lý thị trường,
công an kinh tế ... tiến hành tịch thu, tiêu huỷ và phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm
hoặc có thể khởi kiện ra toà.
Ngoài các biện pháp trên, doanh nghiệp có quyền yêu cầu cơ quan hải quan kiểm soát và giám sát
hàng hoá xuất nhập khẩu để phát hiện và xử lý các lô hàng có dấu hiệu vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ đối với nhãn hiệu.
III. Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng:
Một hệ quả tất yếu đối với các nhãn hiệu nổi tiếng là sự thu hút khách hàng lớn hơn, thị phần cũng
nhiều hơn so với các nhãn hiệu không nổi tiếng khác, vì vậy, sự xâm phạm dù vô tình hay hữu ý
cũng nhiều và khốc liệt hơn. Do đó, vấn dể bảo hộ hữu hiệu nhãn hiêu nổi tiếng và tạo cho chúng
sự bảo hộ đặc biệt hơn đã trở thành mối quan tâm cũng như đồng thuận của các quốc gia từ cuối
thế kỷ XIX. Việt Nam là quốc gia đang từng bước đi vào nền kinh tế thị trường và là thành viên
của công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp và đang thực hiện các quy định của hiệp định

TRIPS nên có trách nhiệm phải thực hiện các cam kết về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng quy định trong
các điều ước quốc tế này.
Ta có thể thấy rằng, các dấu hiệu muốn trở thành nhãn hiệu và được pháp luật bảo vệ phải đáp ứng
được các tiêu chuẩn bảo hộ. Các nước khác nhau quy định tiêu chuẩn bảo hộ khác nhau. Dù khác
nhau về chi tiết nhưng các tiêu chuẩn bảo hộ có thể được chia thành hai loại. Tiêu chuẩn bảo hộ
thứ nhất liên quan đến chức năng cơ bảo của nhãn hiệu nhằm phân biệt hàng hoá, dịch vụ của nhà
sản xuất này với hàng hoá, dịch vụ của nhà sản xuất khác. Tiêu chuẩn thứ hai liên quan đến tính
ảnh hưởng của nhãn hiệu. Những nhãn hiệu có tính lừa dối công chúng, hoặc xâm phạm đạo đức,
trật tự công cộng sẽ bị coi là những dấu hiệu loại trừ, những dấu hiệu không được bảo hộ là nhãn
hiệu. Điều 6 (quinquies) của Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp quy định nhãn
hiệu được bảo hộ theo Điều 6 (quinquies) A có thể bị từ chối nếu không có bất kì một đặc tính
phân biệt nào hoặc trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng và cụ thể là có tính lừa dối công chúng.
Tuy cả trong Bộ luật Dân sự 2005 cũng như nghị định hướng dẫn không có những quy định cụ thể
về nhãn hiệu nổi tiếng nhưng có dành cho những nhãn hiệu loại này một sự bảo hộ bước đầu:
không chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá có các dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới mức gây
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 11


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của người khác được coi là nổi tiếng. Trong thực tiễn, Cục Sở
hữu trí tuệ Việt Nam (trước đây là cục Sở hữu Công nghiệp) đã áp dụng điều khoản trên để từ chối
bảo hộ các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng (cả trong
trường hợp những nhãn hiệu này chưa đăng kí bảo hộ tại Việt Nam). Năm 1992, Cục Sở hữu Công
nghiệp đã bác bỏ đơn đăng kí nhãn hiệu hàng hoá “McDonald’s” cho một công ty Australia cho
các sản phẩm đồ ăn nhanh, dịch vụ ăn uống và các nhóm sản phẩm khác. Sự ra đời của bộ luật
chuyên ngành Sở hữu trí tuệ năm 2005 đánh dấu bước tiến vô cùng quan trọng của Việt Nam trong
vấn đề bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng nói

riêng. Luật mới đưa ra một khái niệm nhãn hiệu nổi tiếng chuẩn xác hơn cũng như các tiêu chí cụ
thể để xác định nhãn hiệu nổi tiếng. Ngoài ra, các nghị định hướng dẫn thi hành luật được ban
hành như nghị định 103; 105 càng khẳng định vị trí và vai trò của nhãn hiệu nổi tiếng không ngừng
được chú trọng trong các văn bản pháp quy cũng như trong đời sống.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trong Nghị định 06/2001/NĐ – CP ngày 01/02/2001 đã đưa
ra quy định về nhãn hiệu nổi tiếng: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được sử dụng liên tục cho
sản phẩm, dịch vụ uy tín khiến cho nhãn hiệu đó được biết đến một cách rộng rãi.” Định nghĩa này
đã bộc lộ một số bất cập trong cách hiểu cũng như là trong quá trình áp dụng pháp luật và chỉ đến
năm 2005 khi luật Sở hữu trí tuệ ra đời mới có những tiêu chí cụ thể rõ ràng để xác định một nhãn
hiệu là nổi tiếng. Theo như khái niệm trên, một nhãn hiệu nổi tiếng phải đáp ứng được hai yếu tố là
“được sử dụng liên tục” và “được biết đến một cách rộng rãi”. Quy định như vậy là không rõ
ràng. Thứ nhất, nếu “liên tục” dưới góc độ thời gian là liên tiếp, kế tiếp mà không có sự gián
đoạn thì một nhãn hiệu phải được sủ dụng trong khoảng thời gian là 10 năm, 20 năm hay lâu hơn
mới đuợc coi là “liên tục”? Thứ hai, một nhãn hiệu như thế nào thì được coi là có “uy tín” để
được biết đến “rộng rãi” . Đối với sản phẩm hàng hóa, “uy tín” được tạo nên bởi những yếu tố
nào và nếu “được biết đến rộng rãi” là nói tới số lượng người biết đến trong nước hay ngoài
nước? Khắc phục những thiếu sót này, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã đưa ra khái niệm mới về
nhãn hiệu nổi tiếng: “Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên
toàn lãnh thổ Việt Nam” , cùng với các tiêu chí cụ thể để xác định một nhãn hiệu là nổi tiếng được
quy định tại điều 75 của Luật này.
Chế định “nhãn hiệu nổi tiếng” trong Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam là việc thực thi Điều 6 bis
Công ước Pari 1883 mà Việt Nam là thành viên. Nội dung điều 6 quy định: “Các nước thành viên
có trách nhiệm từ chối hoặc hủy bỏ đăng ký, ngăn cấm việc sử dụng nhãn hiệu mà nhãn hiệu đó có
khả năng gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được cơ quan thẩm quyền của nước đăng ký hoặc sử
dụng coi là nhãn hiệu nổi tiếng tại nước đó”. Để đánh giá sự nổi tiếng của nhãn hiệu, không nhất
thiết phải đánh giá tất cả các tiêu chí trên mà tuỳ từng trường hợp cụ thể. Nếu là sản phẩm thông
dụng, rẻ tiền thì sự nổi tiếng của nhãn hiệu có thể đòi hỏi số lượng sản phẩm phải nhiều, tuy nhiên,
có sản phẩm được rất nhiều người biết đến nhưng người ta lại không có điều kiện để sử dụng. Tại
Nghị định 103/2006/NĐ – CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành mộ số điều của Luật Sở
hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp thì quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được

xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng rộng rãi nhãn hiệu đó theo quy định tại Điều 75 của Luật Sở
hữu trí tuệ mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký. Thế nhưng, luật cũng như nghị định hướng
dẫn thi hành lại chưa quy định cụ thể các bước để nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng, do vậy
theo quy định trong nghị định 06/CP tại điều 8 khoản 3: “ Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn
hiệu nổi tiếng phát sinh trên cơ sở quyết định công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền” vẫn được áp dụng. Tuy vậy, đây là bước nhảy rất ý nghĩa trong pháp luật nước ta về bảo hộ
nhãn hiệu nổi tiếng. Mặc dù trên đây chỉ là những tiêu chí mang tính định tính nhưng ít nhiều nó
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 12


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

đã nói lên được những hành động mang tính tích cực trong việc bảo vệ nhãn hiệu nổi tiếng tại
Việt Nam. Theo quan điểm của nhóm em, việc quy định các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng
như tại điều 75 là chưa hoàn toàn triệt để. Các tiêu chí này nên phải thoả mãn được lợi ích của ba
phía: nhà nước, doanh nghiệp và khách hàng. Tám tiêu chí được quy định trong Luật SHTT của
chúng ta hầu như chủ yếu xuất phát từ lợi ích của khách hàng rồi đến doanh nghiệp mà chưa chú
trọng đến lợi ích của nhà nước. Ví dụ như, một nhãn hiệu trên thực tế có thể là không nổi tiếng
hoặc không thật sự nổi tiếng nhưng, để bảo vệ lợi ích công, nhà nước vẫn có thể cho nhãn hiệu này
một cơ chế bảo hộ như một nhãn hiệu nổi tiếng bằng việc quyết định nhãn hiệu đó là nổi tiếng.
Điều này là hoàn toàn phù hợp với bản Khuyến nghị chung của WIPO có quy định như sau: “
Quốc gia thành viên có thể quyết định một nhãn hiệu là nổi tiếng, cho dù nhãn hiệu không nổi
tiếng hoặc, nếu quốc gia thành viên áp dụng khoản (c) trên, biết rõ rằng, nhãn hiệu không là nổi
tiếng trong bất kì một lượng công chúng hợp lí nào trong quốc gia mình”. Để một nhãn hiệu trở
nên nổi tiếng, chiếm được lòng tin của người tiêu dùng, đòi hỏi chủ nhãn hiệu phải mất hàng chục
năm dày công xây dựng. Đây không chỉ đơn thuần là nhãn hiệu thuộc quyền sở hữu của chủ nhãn
hiệu mà trong nhiều trường hợp đó còn là phần di sản và niềm tự hào của quốc gia (như HONDA
của người Nhật, Coca Cola của người Mỹ). Cũng do vậy, Luật SHTT dành cho những nhãn hiệu

nổi tiếng mức độ bảo hộ rất cao. Cụ thể, đối với nhãn hiệu nổi tiếng, phạm vi bảo hộ của một nhãn
hiệu nổi tiếng rộng hơn nhãn hiệu thông thường và bao trùm lên cả các sản phẩm, dịch vụ không
cùng loại. Mọi hành vi sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá,
dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hoá, dịch vụ không cùng loại, không tương tự với, và không liên quan
tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng nếu có khả năng
gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử
dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng đều bị coi là xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng. Điều này được quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 129 Luật
nhãn hiệu của Anh quy định hành vi sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng
cho bất kỳ hàng hoá hay dịch vụ, không xét đến bản chất hàng hoá hay dịch vụ đó trùng hay tương
tự đều bị coi là hành vi xâm phạm nếu việc sử dụng đó có thể gây ra một trong các hệ quả sau:
-

Tạo ra lợi thế cạnh tranh không công bằng

-

Gây tổn hại đế khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng

-

Gây tổn hại đến danh tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng

Như vậy, mặc dù Luật SHTT Việt Nam cũng có quy định giống với luật nhãn hiệu của Anh về tiêu
chí nhãn hiệu song lại rất khác về mặt hệ quả : theo luật nhãn hiệu của Anh, hệ quả của hành vi
xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng là xuất phát từ bản chất của nhãn hiệu đó là tính phân biệt, xuất phát
từ lợi ích thực tiễn là khả năng cạnh tranh và xuất phát từ giá trị vô hình của quyền SHTT và đặc
thù của nhãn hiệu nổi tiếng đó là danh tiếng của nhãn hiệu. Còn hệ quả theo Luật SHTT Việt Nam
lại xuất phát từ hệ quả rất chung được áp dụng cho mọi loại nhãn hiệu. Hệ quả thứ hai trong Luật
SHTT Việt Nam cũng chỉ là mở rộng của hệ quả thứ nhất đó là khả năng gây ấn tượng sai lệch mối

quan hệ giữa chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng với người sử dụng. Nội hàm của sự sai lệch về mối
quan hệ giữa chủ sở hữu và người sử dụng cũng đã hàm chứa sự sai lệch về nguồn gốc của hàng
hoá, dịch vụ và từ đó dẫn đến sự nhầm lẫn. Cụ thể, các hệ quả xác định hành vi xâm phạm nhãn
hiệu nổi tiếng là :
-

Có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá ; hoặc

Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 13


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn
hiệu nổi tiếng.
Đặc thù của nhãn hiệu nổi tiếng, xét về mặt lý luận là tính phân biệt của nhãn hiệu rất cao, cao hơn
nhiều với nhãn hiệu thông thường khác, phạm vi bảo hộ nhãn hiệu cũng triệt để hơn, và xét về mặt
thực tiễn là được người tiêu dùng biết đến rộng rãi. Người tiêu dùng nhận thức được rất rõ nguồn
gốc của các nhãn hiệu nổi tiếng, do đó, khả năng xảy ra nhầm lẫn về nguồn gốc giữa hàng hoá
hoặc dịch vụ gắn nhãn hiệu nổi tiếng với hàng hoá hoặc dịch vụ gắn nhãn hiệu thông thường là ít
xảy ra hơn với cá nhãn hiệ thông thường với nhau. Mục đích của việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng
không chỉ là ngăn ngừa hành vi sử dụng gây nhầm lẫn mà còn là ngăn ngừa hành vi sử dụng có thể
làm tổn hại đến danh tiếng của nhãn hiệu nổi tiếng. Do đó, quy định của Luật SHTT Việt Nam
chưa đáp ứng được mục đích này.
Khi một đơn dăng kí nhãn hiệu hàng hoá được nộp tới Cục SHTT, sau khi xem xét về hình thức
cũng như tính hợp lệ của đơn, Cục sẽ tiếp nhận đơn và thực hiện xét nghiệm nội dung. Một trong
những vấn đề được xét tới là khả năng phân biệt của nhãn hiệu được quy định tại điều 74 Luật
SHTT. Trong đó, nhãn hiệu không được coi là có khả năng phân biệt nếu nó là một dấu hiệu trùng

hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký
cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc
đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh
hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng
uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng. Quy định như vậy là phù hợp với thực tế cũng như thông lệ trên thế
giới. Tuy nhiên, Luật chưa quy định cụ thể những dấu hiệu như thế nào thì được coi là “trùng hoặc
tương tự tới mức gây nhầm lẫn” với nhãn hiệu nổi tiếng. Khắc phục điều này, Nghị định 105/2006
có hướng dẫn như sau: dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn
hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn hiệu thuộc phạm vi
bảo hộ nếu có cùng cấu tạo, cách trình bày (kể cả màu sắc); một dấu hiệu bị coi là tương tự đến
mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng
nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm
đối với dấu hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về
hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu. Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, dấu hiệu bị nghi ngờ bị coi là yếu
tố xâm phạm nếu: hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ đáp ứng điều kiện bị nghi ngờ
trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ
với hàng hoá, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Hoặc hàng hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự,
không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng nhưng có khả năng gây nhầm lẫn
cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ
giữa người sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
Ngoài ra, ta có thể tham khảo đến bản Khuyến nghị chung của WIPO về bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng (những nhãn hiệu như vậy được gọi là nhãn hiệu gây xung đột). Theo đó, nhãn hiệu sẽ bị coi
là gây xung đột với nhãn hiệu nổi tiếng khi nhãn hiệu này, hoặc một phần của nhãn hiệu này, có
chứa sự sao chép, sự bắt chước, sự phiên dịch, hoặc sự phiên chữ của nhãn hiệu nổi tiếng, có khả
năng gây nhầm lẫn, nếu nhãn hiệu, hoặc phần cơ bản của nhãn hiệu này, được sử dụng, là đối
tượng của đơn đăng kí hoặc đã được đăng kí đối với loại hàng hóa hoặc dịch vụ trùng hoặc tương
tự với hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn hiệu. Không kể đến các loại hàng hóa hoặc dịch vụ mang
nhãn hiệu này là đối tượng của đơn đang kí hoặc đã được đăng kí, nhãn hiệu này sẽ bị coi là xung
đột với nhãn hiệu nổi tiếng khi nhãn hiệu này hoặc một phần cơ bản của nhãn hiệu này có chứa sự
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ


Page 14


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

sao chép, sự bắt chước, sự phiên dịch, hoặc sự phiên chữ của nhãn hiệu nổi tiếng, và khi có ít nhất
một trong các điều kiện sau đây:
Sự sử dụng nhãn hiệu đó biểu thị một mối liên hệ giữa hàng hóa hoặc dịch vụ mang nhãn
hiệu, là đối tượng của đơn đăng kí, hoặc đã được đăng kí, và của chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng,
và có nguy cơ đe dọa lợi ích của họ;
Sự sử dụng nhãn hiệu đó có khả năng làm suy yếu hoặc lu mờ theo cách không công bằng
những đặc tính khác biệt của nhãn hiệu nổi tiếng;
Sự sử dụng nhãn hiệu đó có thể sẽ gây bất lợi cho những đặc tính khác biệt của nhãn hiệu
nổi tiếng.
Về thời hạn bảo hộ, pháp luật cũng dành cho những nhãn hiệu loại này một ưu đãi đặc biệt: quyền
sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn tính từ ngày nhãn hiệu
được công nhận là nổi tiếng ghi trong quyết định công nhận nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy vậy, ta cũng
không loại trừ trường hợp một nhãn hiệu nổi tiếng không được bảo hộ nữa. Đó là khi nhãn hiệu
không còn nổi tiêng nữa, hay nói cách khác là khi các tiêu chí làm nhãn hiệu đó trở thành nổi tiếng
không còn trên thực tế hoặc nhãn hiệu đã trở thành tên gọi chung của một loại sản phẩm, dịch vụ
nhất định (trường hợp này còn gọi là sự lu mờ nhãn hiệu). Ở Hoa Kỳ, thậm chí còn có Đạo luật
Liên bang về sự lu mờ nhãn hiệu (FTDA) vào năm 1995. Đạo luật này có những quy định về sự
đền bù hay bồi thường cho việc làm lu mờ đối với nhãn hiệu nổi tiếng, các yếu tố để xác định một
nhãn hiệu là phân biệt và nổi tiếng, đồng thời cũng đưa ra định nghĩa chính xác về thuật ngữ “sự lu
mờ” (dilution), theo đó, sự lu mờ sẽ được hiểu là việc làm giảm khả năng của nhãn hiệu nổi tiếng
trong việc xác định và phân biệt đối với hàng hóa hay dịch vụ mang nhãn hiệu. Lịch sử đã từng có
những trường hợp như vậy mà điển hình là trường hợp của viên thuốc ASPIRIN. Trong hệ thống
pháp luật về nhãn hiệu nói chung và nhãn hiệu nổi tiếng nói riêng của Việt Nam chưa đề câp đến
các biện pháp cũng như chế tài ngăn cấm việc làm lu mờ nhãn hiệu.

CHƯƠNG IV:
ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ BẢO HỘ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG Ở VIỆT NAM – MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN.
I. Những thành tựu:
Một là, về chính sách và công tác lập pháp, hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ và nhãn hiệu nổi tiếng đã tạo ra những thành tựu quan trọng.
Các quy định về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được sửa đổi qua việc ban hành Bộ Luật Dân Sự năm
2005, Luật Sở Hữu Trí Tuệ năm 2005 (sửa đổi năm 2009) và văn bản hướng dẫn. Việc kết hợp các
quy định cụ thể quy định trong các nguồn pháp lý này đã tạo ra một chế độ pháp lý vững chắc điều
chỉnh sự bảo hộ cho nhãn hiệu nổi tiếng.
Hai là, bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng trên thực tế, trước 1995, các vấn đề về bảo hộ nhãn hiệu nổi
tiếng tại Việt Nam đã xuất hiện trong một vài năm trước khi ban hành các luật. Ví dụ, vụ kiện
“McDonald” được giải quyết năm 1992 và vụ kiện “Pizza Hut” được giải quyết năm 1993.
Từ 1995 – 2005, việc thực thi bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam đã liên tục được đẩy
mạnh. Điều này có thể được chứng minh bằng các vụ kiện được các cơ quan giải quyết, như vụ
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 15


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

kiện SHANGRI-LA trong năm 1995, vụ kiện TEMPO trong năm 1996, vụ kiện CAMEL trong
năm 1997, vụ kiện DUXIL, và vụ kiện SUPER MAXILITE trong năm 2001.Từ 2005, Luật Sở
Hữu Trí Tuệ và các văn bản hướng dẫn của luật này đã thúc đẩy đáng kể hệ thống pháp luật về bảo
hộ nhãn hiệu tại Việt Nam. Việc áp dụng các luật mới đã cho những kết quả quan trọng trong việc
bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng. Ở giai đoạn này, dường như hệ thống nhãn hiệu Việt Nam đã bắt đầu
quen thuộc với các nhãn hiệu nổi tiếng cũng như các vấn đề pháp lý có liên quan đến nhãn hiệu nổi
tiếng hơn trong quá khứ dù đã có một số yếu kém trong hệ thống.
II. Những hạn chế:

Một là, thực tế cho thấy, các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng bị vi phạm thường là những nhãn hiệu
gắn trên các sản phẩm nhỏ, dễ làm, dễ tẩu tán, dễ tiêu thụ, và không cần vốn lớn (Việc làm giả các
sản phẩm thơì trang mang nhãn hiệu Valentino, Pierre Cardin dễ dàng hơn làm giả máy bay Boing
hay xe hơi Roll Royce). Hình thức vi phạm chủ yếu là làm giả tức là gắn nhãn hiệu hàng hoá giống
hệt (the same) lên sản phẩm bị làm giả. Bởi vì bản thân nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng (bao gồm dấu
hiệu, màu sắc, chữ viết, hình ảnh...) được người tiêu dùng nhận thức tương dối dễ dàng nhưng chất
lượng của sản phẩm gắn nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng đôi khi khó kiểm soát, đánh giá.
Bất kì cá nhân, tổ chức nào có một trong các hành vi vi phạm nêu trên, chủ văn bằng bảo hộ hoặc
người sử dụng hợp pháp nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có quyền áp dụng các hình thức xử lý thích
hợp. Trước hết, họ có quyền áp dụng các quy định bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nói chung. Tức là:
nếu “bên bị vi phạm” và bên “vi phạm” đều là thành viên của công ước Paris thì bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu quốc gia có bên vi phạm sử dụng các công cụ pháp lý thích hợp để ngăn chặn có
hiệu quả tất cả các hành vi vi phạm. Ngoài ra, họ còn có quyền khởi kiện tại toà án(cả toà án quốc
tế )và các cơ quan hành chính có thẩm quyền khác (xem thêm điều 10-Công ước Paris). Trong
trường hợp bên bị vi phạm và bên vi phạm hoặc một trong hai bên không phải là thành viên của
Công ước Paris thì việc giải quyết đựơc tiến hành theo sự thoả thuận của hai bên. Đối với nhãn
hiệu hàng hoá nổi tiếng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu huỷ bỏ nhãn hiệu hàng hoá vi phạm.
Thời hạn yêu cầu huỷ bỏ được quy định không ít hơn 5 năm kể từ ngày đăng kí nhãn hiệu hàng hoá
vi phạm được đăng ký (điều 6 bis- Công ước Paris). Bên cạnh đó, các nước thành viên cũng có
quyền quy định thời hạn có thể yêu cầu cấm sử dụng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Nếu việc vi
phạm có “dụng ý xấu” (bad faith) (xem thêm điều 6 bis) tức là nhằm gây tổn hại nghiêm trọng về
uy tín, vật chất ...cho chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng thì thời
hạn yêu cầu huỷ bỏ hoặc ngăn cấm việc sử dụng của chủ văn bằng nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng/
người sử dụng hợp pháp nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là vô hạn.
Xuất phát từ đặc điểm của nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là có uy tín, danh tiếng trên toàn thế giới
sau một thời hạn nhất định kể từ thời điểm đăng kí bảo hộ lần đầu tiên. Cho nên đối với nhãn hiệu
hàng hoá nổi tiếng, thủ tục đăng ký bảo hộ bắt buộc chỉ đặt ra lần đầu tiên với ý nghĩa là đăng ký
bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Các văn bản pháp luật quốc tế và văn bản pháp luật quốc gia đều
không quy định: Chủ sở hữu/ nhà sản xuất phải tiếp tục đăng kí tại bất kỳ quốc gia nào có sử dụng
nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Như vậy, việc chủ sở hữu có muốn đăng ký nhãn hiệu hàng hoá hay

không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của họ. Tuy nhiên trong thực tế, chủ sở hữu/ nhà sản xuất vẫn
tiến hành thủ tục đăng kí cho nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng để đảm bảo quyền lợi chắc chắn của
mình. Chẳng hạn hãng Coca-cola vẫn đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu nổi tiếng Coca-Cola tại Cục
Sở hữu công nghiệp Việt Nam; Công ty Walt Disney Productions (Mỹ) vẫn đăng ký cho các nhãn
hiệu hàng hoá nổi tiếng của mình là Mickey Mouse và Snow White taị Trung Quốc.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 16


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

Như vậy, các quy định bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng trong các văn bản pháp luật quốc tế chỉ
mang tính chất định khung. Để giải quyết tránh chấp phát sinh, các quốc gia cần cụ thể hoá trong
các văn bản pháp luật quốc gia và Hiệp định song phương hay đa phương cho phù hợp.
Hiện nay, ở nước ta xuất hiện ngày càng nhiều các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng thuộc các lĩnh vực
khác nhau, chúng ta cũng đã tham gia Công ước Paris từ rất sớm. Tuy nhiên, cho đến nay cơ sở
pháp lý để bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng còn nhiều khiếm khuyết. Trong hệ thống pháp luật
Việt Nam chỉ có một điều luật duy nhất đề cập đến nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Cụ thể là điểm ekhoản 1- Điều 6-Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính Phủ quy định chi tiết về sở hữu
công nghiệp. Chúng ta chưa có quy định cụ thể thế nào là một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng hay
đưa ra các tiêu chí xác định một nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Đây chính là khiếm khuyết đầu tiên
về mặt pháp lý cần phải giải quyết.
Theo Điều 6 (điểm 1e) - Nghị định 63/CP, Điều 6bis - Công ước Paris sễ được áp dụng khi giải
quyết các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng tại Việt Nam. Tuy nhiên, như chúng ta
đã biết, những thoả thuận trong Công ước Paris và TRips chỉ mang tính định khung, các quốc gia
thành viên cần có quy định cụ thể, phù hợp với những quy định định khung đó. Hầu hết các nước
đều ban hành văn bản pháp luật riêng về sở hữu trí tuệ, trong đó khi điều chỉnh nhãn hiệu hàng hoá
nổi tiếng có dẫn chiếu tới Công ước Paris, TRips và các văn bản pháp luật quốc tế khác bên cạnh
những quy định riêng, cụ thể, phù hợp cho mình. Pháp ban hành Bộ luật sở hữu trí tuệ (Intellectual
Property Code), Trung Quốc ban hành Luật nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Law), Canada ban

hành Luật nhãn hiệu hàng hoá (Trademark Act)...
Một số nước trên thế giới ban hành danh mục các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng và được bổ sung
liên tục hàng năm (như Mỹ, Nhật Bản - Xem danh mục The Japan 300; United State 300). Việc ban
hành danh mục các nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tránh tình trạng
tranh chấp phát sinh khi cùng một nhãn hiệu hàng hoá nhưng quốc gia này công nhận là nhãn hiệu
hàng hoá nổi tiếng, quốc gia khác lại không công nhận. Đây cũng là một văn bản cần thiết mà Việt
Nam cũng cần xem xét để ban hành.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chưa xác định rõ ràng cơ quan Nhà nước nào có thẩm quyền công
nhận một nhãn hiệu hàng hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. ở Trung Quốc, Luật nhãn hiệu hàng
hoá năm 1996 quy định rõ cơ quan có thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan đến nhãn hiệu
hàng hoá nói chung là Phòng nhãn hiệu hàng hoá thuộc Uỷ ban nhà nước về công nghiệp và
thương mại (SAIC) còn ở Pháp - Toà án có thẩm quyền này. Điều này gây khó khăn cho các chủ
văn bằng bảo hộ/nhà sản xuất khi đưa nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng vào Việt Nam. Đây cũng chính
là nguyên nhân, chủ văn bằng bảo hộ/nhà sản xuất cứ “chạy” từ Cục sở hữu công nghiệp sang Cục
Bản quyền cho đến khi nào được đăng ký bảo hộ thì thôi. Trong thực tế, thẩm quyền quyền này
thuộc về Cục Sở hữu công nghiệp. Bởi vì không có cơ quan nhà nước công nhận nhãn hiệu hàng
hoá là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng cho nên không có “con dấu” xác nhận nhãn hiệu hàng hoá đó
đã được Việt Nam công nhận là nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng. Trong khi chủ văn bằng bảo hộ/nhà
sản xuất rất cần điều này. Bởi vì, như chúng tôi đã trình bày từ phần đầu, số lượng quốc gia công
nhận nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng là một trong các tiêu chí xác định nhãn hiệu hàng hoá nổi tiếng.
Hai là, sự yếu kém trong hệ thống thực thi pháp luật, sự không thống nhất và chồng chéo giữa các
luật tố tụng, như Luật Tố tụng Hành chính, Luật Tố tụng Dân sự, Luật Tố tụng Hình sự và các luật
khác nên rất khó định nghĩa thẩm quyền xét xử chính xác trong những vụ kiện đặc biệt liên quan
đến bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng cũng như quyền sở hữu trí tuệ nói chung.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 17


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn


Vai trò của tòa án trong hệ thống hành pháp không quá mạnh. Hầu hết các vụ kiện liên quan đến
xâm phạm nhãn hiệu chỉ được giải quyết bởi các cơ quan hành chính, đặc biệt là Cục SHTT. Một
số vụ kiện đã được đem ra tòa án. Điều này minh chứng minh rằng theo một nghĩa nào đó, những
chức năng quan trọng của tòa án đã được thực hiện bởi các cơ quan khác. Việc thi hành luật này
trên thực tế có thể không đủ hiệu quả. Vì việc bảo hộ các nhãn hiệu nổi tiếng là một vấn đề mới tại
Việt Nam nên các cơ quan của chúng ta có rất ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Việc hợp tác giữa
các cơ quan khác nhau và giữa các cơ quan và hệ thống hỗ trợ của nó không phải lúc nào có hiệu
quả và thông suốt.
Ba là, sự hạn chế của ý thức pháp luật và trình độ dân trí của cộng đồng, trong hầu hết các vụ kiện
liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam thì việc xâm phạm thường xuyên xảy ra vì chủ sở
hữu nhãn hiệu xâm phạm không có thông tin về nhãn hiệu nổi tiếng hoặc về danh tiếng của nhãn
hiệu nổi tiếng hoặc các nguyên tắc pháp luật liên quan đến việc bảo hộ cho nhãn hiệu nổi tiếng.
Thái độ và nhận thức của người tiêu dùng trong việc chọn, mua và sử dụng sản phẩm trên thị
trường cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả của việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
III. Một số ý kiến kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về nhãn hiệu và bảo hộ
nhãn hiệu:
- Tăng cường vai trò của Nhà nước trong toàn bộ hệ thống bảo hộ nhãn hiệu nói chung và nhãn
hiệu nổi tiếng nói riêng.
+ Lập danh mục nhãn hiệu nổi tiếng thế giới, cũng như danh mục nhãn hiệu nổi tiếng Việt Nam,
+ Khuyến khích, tạo điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp trong nước phát triển nhãnhiệu, tăng sức cạnh
tranh trên thương trường quốc tế,
+ Xem xét khả năng áp dụng án lệ, tăng cường chính sách minh bạch và công khai hóa công tác lập
pháp, hành pháp và tư pháp,
- Sửa đổi và hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng.
+ Pháp luật cần làm rõ vấn đề pháp lý liên quan đến việc liệu một nhãn hiệu nổi tiếng có được bảo
hộ ở Việt Nam không nếu nhãn hiệu đó chưa được sử dụng và biết đến ở thị trường Việt Nam,
+Pháp luật cần được tiếp tục hoàn thiện bằng cách đưa ra những sự hướng dẫn và giải thích cụ thể,
chi tiết hơn về cách thức mà các tiêu chí được hiểu và áp dụng,
+Cần có sự bổ sung để hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến các yêu cầu

hay tiêu chí để đánh giá nguy cơ gây nhầm lẫn trong các vu việc tranh chấp về nhãn hiệu
- Tăng cường vai trò và hiệu quả của các cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo hộ nhãn hiệu.
+Tăng cường và phát huy tối đa vai trò của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến
nhãn hiệu nổi tiếng, đào tạo đội ngũ thẩm phán chuyên trách, tiến đến thành lập Tòa chuyên trách
về SHTT.
+Quy định thẩm quyền và quy trình giám định, xét nghiệm, thăm dò, điều tra… liên quan đến quá
trình giải quyết các vụ việc liên quan đến nhãn hiệu nổi tiếng.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 18


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

- Nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí của cộng đồng thông qua giáo dục, đào tạo, phổ
biến và tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng xã hội.
KẾT LUẬN:
Nhãn hiệu nổi tiếng được hiểu là nhãn hiệu được biết đến rộng rãi bởi bộ phận người tiêu dùng có
liên quan trong một số lĩnh vực được quy định. So với nhãn hiệu thông thường có nhiều sự khác
nhau mà những sự khác nhau này gồm mức độ phân biệt cao, sử dụng rộng rãi và giá trị kinh tế.
Chủ yếu cho những lý do này là nhãn hiệu nổi tiếng đã trở thành đối tượng quan trọng của sở hữu
công nghiệp. Việc bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng được xem là một khía cạnh quan trọng trong các hệ
thống pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên khắp thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hòa và
hội nhập quốc tế tại Việt Nam, việc nâng cao hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng là
điều không thể thiếu.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
2. Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam 2013.

3. />4. />5. Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật dân sự, Đinh Văn Thanh – Đinh Thị Hằng, Nxb CAND, Hà
Nội 2004.
6. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ trên thế
giới và phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ ở
Việt nam, Nguyễn Thị Quế Anh, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, khoa Luật ĐHQG Hà Nội,
2002.
7. Bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo pháp luật Châu Âu và Hoa Kỳ, Phan Ngọc Tâm, Tạp chí khoa
học pháp lý, số 04 năm 2006.
Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 19


Nhãn hiệu – Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn

8. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, TS. Lê Trung Đạo, Nxb Tài chính, 2009.
9. Các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ, Phùng Trung Tập, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004.
10. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Lê Nết, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

Môn: Luật Sở hữu trí tuệ

Page 20



×