Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích các tính chất cơ bản của dư luận xã hội, cho ví dụ minh họa ở từng tính chấttác động của dư luận xã hội đối với ý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.98 KB, 16 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

MÔN: XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ TÀI: Phân tích các tính chất cơ bản của dư luận xã hội, cho ví du

minh họa ở từng tính chất? Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức
pháp luật ?

Họ và tên:

Cao Thị Thu Trang

Mã sinh viên: 361845
Lớp:

NO3

Nhóm:

06

Hà Nội, tháng 3 năm 2012


MỤC LỤC
Mở đầu………………………………………………………………
Nội dung………………………………………………………………
I. Tính chất cơ bản của dư luận xã hội……………………………..



1. Khái niệm dư luận xã hội…………………………………………
2. Các tính chất cơ bản của dư luận xã hội………………………….
a, Tính khuynh hướng……………………………………………………….
b, Tính lợi ích …………………………………………………………………
c, tính lan truyền…………………………………………………………….
d,Tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi………………………….
e, Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội của
dư luận xã hội……………………………………………………………….
II. Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật……….
1.Khái niệm ý thức pháp luật………………………………………
2. Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật………..
a, Dư luận xã hội tác động đến ý thức pháp luật cá nhân…………..
b, Dư luận xã hội tác động đến ý thức pháp luật của nhóm xã hội…..
c, Tác động của dư luận xã hội đến ý thức pháp luật xã hội…………
Kết luận……………………………………………………………….


MỞ ĐẦU
Dư luận xã hội là hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, là
một hiện tượng xã hội đặc biệt, hiện diện ở tất cả các quốc gia, dân tộc khác nhau
trên thế giới. Trong bất kì xã hội nào, dư luận xã hội cũng đều có ảnh hưởng nhất
định đến các quá trình chính trị – xã hội, đến việc lãnh đạo và quản lí xã hội; tác
động mạnh mẽ và quan trọng đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội
như kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật … Trong số đó, phải kể tới sự
tác động k nhỏ của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của các tầng lớp xã hội.
Để làm rõ và hiểu sâu hơn về dư luận xã hội và mối quan hệ giữa dư luận xã hội và
ý thức pháp luật em đã chọn đề tài : “Phân tích các tính chất cơ bản của dư luận xã
hội, cho ví dụ minh họa ở từng tính chất?Tác động của dư luận xã hội đối với ý
thức pháp luật ?”. Dù đã rất cố gắng nhưng do khả năng còn hạn chế nên bài làm

của em còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô để bài
làm của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
I. Tính chất cơ bản của dư luận xã hội
1. Khái niệm dư luận xã hội
Dư luận xã hội là hiện tượng tinh thần của xã hội, là hiện tượng phức tạp nên
khó có thể lột tả hết được nội hàm của nó trong một số dòng định nghĩa ngắn gọn.
Vậy nên, về mặt lí luận hầu như không tồn tại định nghĩa toàn diện về dư luận xã
hội được tất cả mọi người đồng tình. Đã có khá nhiều định nghĩa được đưa ra,
trong hầu hết các định nghĩa đều đề cập những nội dung chính của khái niệm dư
luận xã hội :
Thứ nhất, dư luận xã hội là tập hợp những ý kiến, quan điểm, thái độ mang
tính phán xét, đánh giá của nhiều người trước thực tế xã hội nhất định;


Thứ hai, sự phán xét, đánh giá đó chỉ nảy sinh khi trong xã hội có những vấn
đề mang tính thời sự, có liên quan đến lợi ích chung của các nhóm xã hội, cộng
đồng xã hội;
Thứ ba, vấn đề mang tính thời sự đó phải thu hút được sự quan tâm, chú ý
của nhiều người, của đa số các thành viên trong xã hội.
Kết hợp với vai trò, ý nghĩa thực tiễn của dư luận xã hội, có thể định nghĩa dư luận
xã hội như sau :
“Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá
của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những vấn đề mang tính thời
sự, có liên quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và
được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ”.
2. Các tính chất cơ bản của dư luận xã hội
a, Tính khuynh hướng
Dư luận xã hội là sự thể hiện thái độ của công chúng trước một thực tế xã hội

nhất định. Thái độ của dư luận xã hội đối với mỗi sự kiện, hiện tượng xã hội hay
quá trình xã hội có thể khái quát theo các khuynh hướng nhất định bao gồm tán
thành, phản đối hoặc lưỡng lự (băn khoăn, chưa rõ thái độ). Xét theo cường độ
(sức căng) của mỗi khuynh hướng, thái độ tán thành hoặc phản đối lại có thể phân
chia theo các mức độ cụ thể như rất tán thành, tán thành, lưỡng lự, phản đối và rất
phản đối.
Ví dụ :Trong thời gian gần đây, Biển Đông - nằm giữa Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương - liên tục "dậy sóng" vì những tranh chấp chủ quyền vùng nước
và các đảo. Các vụ việc tàu Trung Quốc cắt cáp và cản trợ hoạt động của các tàu
thăm dò địa chấn Việt Nam, cũng như các va chạm giữa Trung Quốc với
Philippines khiến tình hình Biển Đông trở nên nóng hơn lúc nào hết. Vấn đề phía
Trung Quốc cho rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung
Quốc và muốn chiếm hai quần đảo này đã trở thành vấn đề nổi cộm, được xã hội


quan tâm và chú ý đến. Đã có rất nhiều ý kiến bàn bạc, thảo luận tạo thành làn
sóng dư luận xã hội và hầu hết mọi người đều cho rằng Trường Sa và Hoàng Sa là
của Việt Nam vì nó thuộc chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Trong trường hợp này
tính khuynh hướng của dư luận xã hội thể hiện ở thái độ chung của dư luận xã hội
theo khuynh hướng phản đối quan điểm của phía Trung Quốc.
b, Tính lợi ích
Tính lợi ích là một đặc tính cố hữu của dư luận xã hội, bởi vì nếu không có
sự liên quan, đụng chạm tới lợi ích của các nhóm xã hội thì cũng không có sự hình
thành bất kì một luồng dư luận xã hội nào. Để trở thành đối tượng phán xét của dư
luận xã hội, các sự kiện, hiện tượng xã hội đang diễn ra phải được xem xét từ góc
độ chúng có mối quan hệ mật thiết với lợi ích của nhóm xã hội khác nhau trong xã
hội. Tính lợi ích của dư luận xã hội được nhìn nhận trên hai phương diện là lợi ích
vật chất và lợi ích tinh thần.
Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các sự kiện, hiện tượng đang diễn
ra trong xã hội có liên quan chặt chẽ đến các hoạt động kinh tế và sự ổn định cuộc

sống của đông đảo người dân. Khi lợi ích kinh tế bị đụng chạm thì công chúng
thường lên tiếng bày tỏ ý kiến, thái độ của mình trước sự kiện, sự việc; từ đó mà
hình thành dư luận xã hội. Ví dụ khi nhà nước quyết định tăng giá xăng dầu thì ảnh
hưởng đến lợi ích của đông đảo nhân dân, vì thế mọi người đều lên tiếng bày tỏ
thái độ không thích, không mong muốn vì nó sẽ ảnh hưởng đến mức chi tiêu của
các gia đình.
Lợi ích tinh thần được đề cập khi các vấn đề, các sự kiện, hiện tượng đang
diễn ra đụng chạm đến hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội, các phong tục, tập
quán, khuôn mẫu hành vi ứng xử văn hóa của cộng đồng xã hội hoặc của cả một
dân tộc. Ví dụ khi trên truyền hình trình chiếu một bộ phim không hay hoặc có
những cảnh trái với thuần phong mĩ tục của người Việt Nam thì ngay lập tức dư
luận xã hội sẽ lên tiếng phản đối, khiển trách để bảo vệ giá trị tinh thần của họ.


Trong bản thân mình thì lợi ích mới chỉ là điều kiện cần để thúc đẩy việc
tạo ra dư luận xã hội. Điều kiện đủ ở đây chính là sự nhận thức của các nhóm xã
hội về lợi ích của mình và mối quan hệ giữa chúng với các sự kiện, hiện tượng, quá
trình xã hội đang diễn ra. Ở đây có hai điểm cần lưu ý : thứ nhất, bản thân nhận
thức về lợi ích là một tiến trình biến đổi và phát triển giữa tính cá nhân và tính xã
hội; giữa tính vật chất và tính tinh thần; giữa tính trước mắt và tính lâu dài. Thứ
hai, quá trình trao đổi, thảo luận ý kiến để dẫn đến dư luận xã hội là quá trình giải
quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích. Trong công việc này, nhóm xã hội nào có tổ chức
tốt thành lực lượng thì nhóm xã hội đó sẽ thành công hơn trong việc bảo vệ quan
điểm, lợi ích của mình và ngược lại.
c, Tính lan truyền
Tính lan truyền cũng là một đặc trưng cố hữu của dư luận xã hội vì nếu k
có cơ chế lan truyền thì cũng không có sự hình thành, phát triển của bất kì một dư
luận xã hội nào. Dư luận xã hội được coi như một biểu hiện của hành vi tập thể,
một hiện tượng được các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Cơ sở của bất kì một hành
vi tập thể nào cũng là hiệu ứng phản xạ dây truyền, trong đó, khởi điểm từ một số

cá nhân hay nhóm xã hội nhỏ sẽ gây nên chuỗi các kích thích của các cá nhân
khác, nhóm xã hội khác; từ đó mà thông tin sẽ lan truyền tới các nhóm xã hội khác
nhau.
Để duy trì được chuỗi kích thích này luôn cần có các nhân tố tác động lên
cơ chế hoạt động tâm lí của cá nhân và nhóm xã hội. Đối với dư luận xã hội, các
nhân tố tác động đó có thể là các thông tin bằng các hình ảnh, âm thanh sống động
trực tiếp, có tính thời sự. Dưới tác động của các luồng thông tin này, các nhóm
công chúng khác nhau sẽ cùng được lôi cuốn vào quá trình bày tỏ sự quan tâm của
họ thông qua các hoạt động trao đổi, bàn bạc, tranh luận, tìm kiếm thông tin, cùng
chia sẻ trạng thái tâm lý của mình với người xung quanh. Đặc biệt đối với các sự
kiện lớn của đất nước chúng ta có thể theo dõi và ghi nhận được ảnh hưởng của các


luồng thông tin đến sự quan tâm cũng như hành động của dân chúng. Trong các
trường hợp đó, sự hình thành và lan truyền nhanh chóng và mạnh mẽ của dư luận
xã hội được thể hiện rất rõ nét.
Ví dụ : Theo thông tin từ Cục Y tế dự phòng, tính đến nay cả nước đã có hơn
18.000 ca mắc bệnh tay chân miệng, trong đó có 59 ca tử vong. Hiện nay, dịch
bệnh tay chân miệng không chỉ bùng phát ở trẻ nhỏ, mà đã xuất hiện trường hợp
người lớn bị nhiễm bệnh này. Với tính chất nguy hiểm, nghiêm trọng, những dư
luận, ý kiến bàn bạc về dịch bệnh này đã lan truyền đi rất nhanh. Do tính chất cấp
bách của sự kiện này, nó đã tạo ra một luồng dư luận lớn trong xã hội, tìm cách nào
đó để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh, cũng như thảo luận các biện pháp phòng
chống căn bệnh này. Chính tính nóng sốt, sự cấp thiết và nghiêm trọng của dịch
bệnh này, đã tạo ra dư luận xã hội và lan truyền nhanh chóng.
d, Tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi
Dư luận xã hội vừa có tính bền vững tương đối lại vừa có tính dễ biến đổi.
Xét theo quan điểm biện chứng, trong bản thân tính năng động, dễ biến đổi đã bao
hàm tính bền vững tương đối của dư luận xã hội. Có những dư luận xã hội chỉ qua
một đêm là thay đổi nhưng cũng có những dư luận xã hội qua hàng thập niên vẫn

không thay đổi. Tính bền vững tương đối của dư luận xã hội phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Đối với những sự kiện, hiện tượng hay các quá trình quen thuộc, dư luận xã
hội thường rất bền vững. Cái mới lúc đầu chỉ được số ít thừa nhận và do đó dễ bị
đa số phản đối nhưng ý kiến của đa số sẽ nhanh chóng, dễ dàng thay đổi khi cái
mới vươn lên khẳng định mình trong cuộc sống.
Tính năng động, dễ biến đổi của dư luận xã hội thường được nhìn nhận trên hai
phương diện sau :
Một là, dư luận xã hội biến đổi theo không gian và môi trường văn hóa. Sự
phán xét đánh giá của dư luận xã hội về các sự kiện, hiện tượng xã hội hay quá
trình xã hội nào đó thường phụ thuộc vào hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội


đang tồn tại trong nền văn hóa của một cộng đồng người. Nói cách khác giá trị văn
hóa của cộng đồng thẩm thấu vào suy nghĩ, hành động của các thành viên trong
cộng đồng xã hội và chi phối cách đánh giá, ứng xử của họ trước các sự kiện xảy
ra. Trước cùng một sự việc, sự kiện xảy ra, dư luận xã hội của các cộng đồng người
khác nhau lại thể hiện sự phán xét đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau: cộng
đồng xã hội này tán thành, ủng hộ trong khi cộng đồng xã hội khác lại phê phán,
lên án. Chẳng hạn hiện tượng tảo hôn là hiện tượng bình thường, được cộng đồng
xã hội chấp nhận tại các nước thuộc khu vực Trung Đông, Nam Sahara (châu Phi)
hay Ấn Độ nhưng ở nhiều nước châu Âu, Bắc Mĩ, Đông Nam Á… thì dư luận xã
hội lại phản ứng gay gắt.
Hai là, dư luận xã hội biến đổi theo thời gian. Cùng với sự phát triển của xã
hội, một số giá trị văn hóa , chuẩn mực xã hội, phong tục tập quán có thể bị biến
đổi ngay trong cùng một không gian văn hóa - xã hội; dẫn đến sự thay đổi trong
cách nhìn nhận, đánh giá của dư luận xã hội. Ví dụ hiện tượng đa thê là một hiện
tượng bình thường trong thời kì phong kiến, được xã hội chấp nhận nhưng trong
thời kì hiện nay thì dư luận xã hội không thể chấp nhận điều đó, đó là việc đi
ngược lại giá trị đạo đức của con người.
Phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể mà dư luận xã hội còn biến đổi theo đối tượng

mà nó phản ánh, khi công chúng phát hiện thêm các mối liên quan giữa đối tượng
ban đầu với các sự kiện, hiện tượng, quá trình diễn ra kèm theo nó.
e, Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội
Dư luận xã hội là một hiện tượng tinh thần phản ánh sự tồn tại xã hội. Sự
phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội có thể đúng (đúng nhiều hoặc đúng ít),
có thể sai (sai nhiều hoặc sai ít). Dù có đúng đến đâu thì dư luận xã hội vẫn có
những hạn chế nhất định, vì trong dư luận xã hội thường chứa đựng yếu tố chủ
quan, định kiến và vị kỷ; do đó, không nên tuyệt đối hóa khả năng nhận thức từ dư
luận xã hội. Ngược lại, dù có sai đến đâu, trong dư luận xã hội vẫn chứa đựng


những hạt nhân hợp lí mà chúng ta không thể coi thường được. Chân lý của dư
luận xã hội không phụ thuộc vào tính chất phổ biến rộng rãi hay hạn hẹp của nó.
Không phải lúc nào dư luận xã hội của đa số người cũng đứng hơn dư luận xã hội
của một bộ phận thiểu số. Cái mới nảy sinh lúc đầu thường chỉ có một số người
nhận thấy, do đó, dễ bị đa số phản đối; song, cùng với thời gian trôi đi, khi cái mới
ngày càngkhẳng định được tính đúng đắn của nó thì nó lại được đa số tán thành.
Đối với những vấn đề trừu tượng, phức tạp, dư luận xã hội của giới trí thức, của
những người có trình độ học vấn cao thường tỏ ra chín chắn, chuẩn xác hơn so với
dư luận xã hội của những người có trình độ học vấn thấp.
Ví dụ khi nói về chế độ chính trị ở Việt Nam, một số bộ phận phản quốc
phản cách đã tuyên truyền về việc ở Việt Nam chỉ có một chính Đảng lãnh đạo.
Điều đó sẽ tạo ra sự độc quyền, chuyên chế, không mang tính dân chủ. Nhưng bộ
phận trí thức, có học đều nhận rõ ra mục đích chống phá của bọn phản cách mạng.
Những dư luận chúng tạo ra chỉ làm ảnh hưởng đến quốc gia, dân tộc và đi sai lệch
định hướng của Đảng và nhà nước. Chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam do một
chính Đảng duy nhất lãnh đạo - Đảng cộng sản Việt Nam - là nhà nước của dân, do
dân và vì dân, có sự thống nhất chặt chẽ giữa các cơ quan, chuyên ngành và ý chí,
nguyện vọng của dân. Nhưng một số ít công dân ít học đã tin vào dư luận do bọn
phản cách mạng tạo ra và gây ảnh hưởng xấu cho xã hội, lan truyền những dư luận

sai lệch cho xã hội, và chính bản thân họ. Như vậy, trình độ học vấn có ảnh hưởng
lớn đến dư luận xã hội, nó quyết định tính chất tốt, xấu, lợi hại cho xã hội và tuy
rằng chúng ta đều biết ý kiến của bộ phận phản quốc là sai nhưng trong đó vẫn
chứa đựng hạt nhân hợp lí mà chúng ta cần xem xét.
II. Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật
1.Khái niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, phản ánh trực
tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết phải kể đến các quan hệ sản xuất


được thể hiện trong các luật lệ nhà nước. Ý thức pháp luật xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của pháp luật. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển của xã hội, chịu
ảnh hưởng sâu sắc của các hệ tư tưởng, quan điểm và quan niệm trong xã hội. Ý
thức pháp luật dần dần trở thành yếu tố không thể thiếu trong đời sống xã hội. “Ý
thức pháp luật là toàn bộ các học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm thịnh
hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật, trình độ
hiểu biết pháp luật, thái độ, sự đánh giá về pháp luật của các giai cấp, tầng lớp xã
hội, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi ứng xử của con người,
trong tổ chức và hoạt động của các thiết chế xã hội”.
2. Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật
Trong lịch sử xã hội loài người, dư luận xã hội đã đóng vai trò điều hòa các
mối quan hệ xã hội, định hướng hành vi xã hội của con người ngay cả khi trong xã
hội chưa có sự phân hóa giai cấp, chưa xuất hiện nhà nước và pháp luật, cũng có
nghĩa là chưa có ý thức pháp luât. Cơ chế tác động, điều tiết được thực hiện dựa
trên phương pháp tác động xã hội và phụ thuộc vào mức độ chín muồi của dư luận
xã hội, mức độ xâm nhập và ảnh hưởng của nó cũng như trình độ phát triển của xã
hội. Phân tích sự tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật dựa trên căn
cứ chủ thể của ý thức pháp luật thì dư luận xã hội có thể tác động đến ý thức pháp
luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật xã hội.
a, Dư luận xã hội tác động đến ý thức pháp luật cá nhân

Sự hình thành của một luồng dư luận xã hội nào đó trước hết phải xuất phát
từ ý thức cá nhân. Trong cuộc sống lao động, sinh hoạt hằng ngày mỗi cá nhân
được trực tiếp chứng kiến hoặc được nghe kể lại về các sự kiện, hiện tượng pháp
luật xảy ra trong thực tế xã hội. Mỗi người sẽ suy ngẫm, hình dung hoặc liên tưởng
về các sự việc, sự kiện, từ đó nảy sinh những tình cảm, ý kiến bước đầu về nội
dung, tính chất của các sự kiện, hiện tượng pháp luật đó. Những tình cảm, ý kiến
bước đầu này hoàn toàn là riêng tư, chúng thuộc lĩnh vực ý thức các nhân. Đây là


cơ sở quan trọng đầu tiên để dư luận xã hội ảnh hưởng tới hình thành, củng cố và
phát triển ý thức pháp luật của cá nhân. Dư luận xã hội khi đã hình thành, thường
tác động đến ý thức con người, trước hết là ý thức cá nhân; chi phối, điều chỉnh ý
thức, hành vi của con người phù hợp với ý chí chung của cộng đồng xã hội. Trong
ý thức pháp luật của cá nhân, tâm lý pháp luật là yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng.
Dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ tới tâm lý pháp luật cá nhân thể hiện trên các
phương diện sau:
Thứ nhất, dư luận xã hội tác động quan trọng tới tình cảm pháp luật cá nhân.
Tình cảm pháp luật là yếu tố cơ bản của tâm lý pháp luật, thường được hình thành
tự phát dưới ảnh hưởng của hoạt động giao tiếp hằng ngày của mỗi con người với
môi trường pháp lý xung quanh. Vì là yếu tố mang tính tự phát, chịu sự chi phối
của phong tục, tập quán, kinh nghiệm và nếp sống của các cá nhân nên tình cảm
pháp luật có thể được bộc lộ dưới dạng các phản ứng tích cực cũng như tiêu cực
của mỗi người trước các sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong thực tế. Trong
thực tiễn đời sống pháp luật, trước những diễn biến của một sự kiện hay hiện tượng
pháp luật dư luận xã hội thường được nảy sinh và biểu hiện ở hai xu thế cơ bản :
một là, dư luận xã hội khen ngơi, biểu dương tinh thần đấu tranh không khoan
nhượng trước các hành vi vi phạm pháp luật, ủng hộ những việc làm phù hợp với
quyền, nghĩa vụ pháp lí của công dân. Hai là, dư luận xã hội thường phê phán
mạnh mẽ các hành vi sai trái, phạm pháp, lên án gay gắt các hành vi phạm tội nguy
hiểm; đòi hỏi cơ quan chức năng phải dành cho kẻ phạm tội những hình phạt thích

đáng. Về mặt tình cảm không ai muốn mình trở thành đối tượng phán xét của dư
luận xã hội, không ai muốn hứng chịu sức ép của “búa rìu xã hội”. Do vậy mỗi cá
nhân đều mong muốn có thể kiểm soát, điều chỉnh tình cảm và hành vi xử sự của
mình phù hợp với ý chí chung của cộng đồng xã hội. Với ý nghĩa đó, dư luận xã
hội tác động mạnh mẽ tới tình cảm pháp luật của các cá nhân, góp phần định
hướng để hình thành tình cảm pháp luật tích cực, đúng đắn của mỗi công dân.


Thứ hai, dư luận xã hội tác động tới tâm trạng của cá nhân trước pháp luật.
Tâm trạng của con người trước pháp luật là sự thể hiện trạng thái tâm lí của các cá
nhân trước các sự kiện, hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội thường
ngày. Đây là yếu tố rất linh động, dễ thay đổi của tâm lý pháp luật. Với tư cách là
sự thể hiện ý chí chung của cộng đồng xã hội, dư luận xã hội có thể động viên,
khích lệ, khơi gợi niềm tin của các cá nhân – thành viên trong xã hội vào tính công
bằng, nghiêm minh của pháp luật; đưa ra những lới khuyên, tư vấn về cách ứng xử
trước một thực tiễn pháp luật nhất định. Thông qua việc tạo ra những “khuôn mẫu
tư duy”, “khuôn mẫu hành động” cho các thành viên trong xã hội, dư luận xã hội
hướng các cá nhân theo gương người tốt, việc tốt trong lĩnh vực chấp hành pháp
luật. Điều đó nói lên rằng, dư luận xã hội có tác động tích cực tới tâm trạng của các
cá nhân trước pháp luật.
Thứ ba, thông qua dư luận xã hội, các cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử
của mình trong phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hiện hành. Tâm lý
pháp luật không chỉ biểu hiện ở tình cảm pháp luật, tâm trạng của con người trước
pháp luật mà nó còn được biểu hiện ra ở việc các cá nhân tự đánh giá hành vi ứng
xử của mình trong môi trường điều chỉnh của pháp luật. Dư luận xã hội trong
trường hợp này là “chuẩn mực”, là “tấm gương” để mỗi cá nhân tự soi mình vào đó
mà định hướng, điều chỉnh hành vi ứng xử của bản than. Sức mạnh đặc trưng khiến
cho các cá nhân luôn phải suy nghĩ, xem xét trước khi thực hiện một hành vi nào
đó : hành vi đó đúng hay sai? Phù hợp hay không phù hợp với các nguyên tắc, quy
định của pháp luật hiện hành? Nếu thực hiện hành vi đó thì có bị dư luận xã hội lên

án hoặc phải chịu xử lí theo các nguyên tắc luật định không? Điều đó cho thấy dư
luận xã hội có tác động quan trọng tới cách thức mà mỗi cá nhân tự đánh giá về
hành vi ứng xử của mình.
b, Dư luận xã hội tác động đến ý thức pháp luật của nhóm xã hội


Nhóm xã hội là một tập hợp người có liên hệ với nhau theo một kiểu nhất
định. Nhóm xã hội là sự liên kết các cá nhân con người với nhau dựa trên cơ sở địa
vị xã hội của mọi người, vị trí của họ trong cơ cấu kinh tế – xã hội của xã hội, các
nhu cầu, sở thích hay định hướng giá trị của họ. Ý thức pháp luật của nhóm xã hội
hình thành, phát triển và được thể hiện ra trên nhận thức, quan điểm, thái độ, lập
trường, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp luật của tập hợp người
có những nét tương đồng về điều kiện sống, lao động, sinh hoạt, nhu cầu, lợi ích cơ
bản. Các thành viên của nhóm xã hội có những tình cảm, nhận thức, thái độ tương
đối giống nhau ở một mức độ nhất định về pháp luật và đối với pháp luật, làm hình
thành nên ý thức pháp luật chung của nhóm xã hội. Dư luận xã hội với tư cách là ý
chí chung của các nhóm xã hội và của cộng đồng xã hội có tác động quan trọng đối
với ý thức pháp luật của nhóm xã hội.
Trong phạm vi nhóm xã hội, dư luận xã hội không phải là ý kiến của một
người mà là ý kiến, phán xét đánh giá của nhiều thành viên trong nhóm xã hội, là
sự phát ngôn chung của họ về một sự kiện, hiện tượng pháp luật nhất định. Đó
cũng không phải là tổng cộng các ý kiến, quan điểm của từng thành viên mà phải
thong qua trao đổi, bàn bạc, có sự tương tác (tác động qua lại) giữa các ý kiến của
các thành viên trong nhóm, làm hình thành nên sự phán xét đánh giá chung của
nhóm xã hội trước các vấn đề pháp luật. Từ sự phán xét đánh giá chung đó, nhóm
xã hội bày tỏ nhận thức, tình cảm pháp luật, đi tới hành động thống nhất, nêu lên
những kiến nghị của họ trước thực tiễn đời sống pháp luật của xã hội. Điều đó
cũng có nghĩa là dư luận xã hội tác động tích cực tới sự hình thành, củng cố và
phát triển ý thức pháp luật của nhóm.
c, Tác động của dư luận xã hội đến ý thức pháp luật xã hội

Với tư cách là một hiện tượng xã hội, dư luận xã hội phản ánh tồn tại xã hội
nói chung, đồng thời phản ánh các sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời
sống xã hội. Sự bàn luận, trao đổi ý kiến giữa các thành viên trong xã hội về các sự


kiện, hiện tượng pháp lí đưa tới kết quả là họ đạt tới sự nhận thức chung, thống
nhất trong các phán xét, đánh giá về sự việc, sự kiện pháp luật. Trên cơ sở sự phán
xét đánh giá về các sự kiện, hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống xã hội, dư
luận xã hội làm hình thành trong nhận thức của mọi người ban đầu là những khái
niệm cơ sở, mang tính bề ngoài ngẫu nhiên; dần dần tiến đến những tri thức phản
ánh đúng đắn bản chất các hiện tượng pháp lý. Từ đó hình thành nên các quan
điểm, quan niệm, tư tưởng phản ánh về những vấn đề có liên quan đến pháp luật và
các hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, có tính hệ thống trong xã hội. Điều đó
nói lên sự tác động mạnh mẽ của dư luận xã hội đối với quá trình hình thành và
phát triển của hệ tư tưởng pháp luật.
Sự tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật xã hội còn được thể
hiện ở chỗ dư luận xã hội tham gia vào việc phổ biến, lan truyền trong các tầng lớp
xã hội, các giá trị pháp luật, các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn.
Dư luận xã hội bảo vệ các quyền lợi, các giá trị phổ biến của xã hội cũng như các
giá trị, lợi ích cá nhân chính đáng của con người. Mỗi khi lợi ích, giá trị xã hội bị
xâm hại thì dư luận xã hội lập tức xuất hiện với thái độ lên án cực lực, phản đối
gay gắt. Điều đó cho thấy dư luận xã hội có tác dụng củng cố, bảo vệ tính dân chủ,
khoa học và tính xã hội của ý thức pháp luật xã hội.
Dư luận xã hội là sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội. Chính trong quá
trình trao đổi, bàn bạc, thảo luận, thậm chí va đập các ý kiến để có ý kiến phán xét
đánh giá chung được đông đảo mọi người tán thành và ủng hộ mà ý thức pháp luật
xã hội được hình thành và phát triển. Sự bàn bạc, thảo luận, tìm ra quan điểm
chung giữa các nhóm xã hội khác nhau cũng là một trong những nhân tố bảo đảm
cho ý thức pháp luật xã hội mang tính khái quát ở trình độ cao và tính hệ thống
chặt chẽ.

Tóm lại, dưới ảnh hưởng nhất định của dư luận xã hội mà những tư tưởng,
quan điểm khoa học về pháp luật và những vấn đề cơ bản nhất của đời sống pháp


luật từng bước được thẩm thấu vào trong nhận thức pháp luật của mỗi người, được
khái quát ở trình độ cao và mang tính hệ thống chặt chẽ, trở thành giá trị, chuẩn
mực chung cho toàn xã hội. Điều đó nói lên sự tác động rất quan trọng của dư luận
xã hội đến ý thức pháp luật xã hội.

KẾT LUẬN
Như vậy, dư luận xã hội là một hiện tượng có vai trò quan trọng và tác động
mạnh mẽ đến các lĩnh vực của đống xã hội. Vì thế cần có sự quan tâm đặc biệt đến
việc tìm hiểu bản chất, nguồn gốc phát sinh, quá trình hình thành và cách thức điều
chỉnh, định hướng dư luận xã hội. Hi vọng trong tương lai chúng ta sẽ phát huy
được vai trò to lớn, tích cực của dư luận xã hội và khắc phục, hạn chế được mặt
tiêu cực của dư luận xã hội để xã hội phát triển bền vững, tốt đẹp hơn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập bài giảng xã hội học, trường đại học Luật Hà Nội, nxb Công an nhân

dân, 2010.
2. Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở, TS. Ngọ Văn Nhân, nxb Chính trị quốc gia.



×