Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Bình luận sự tương thích về cách xác định và quy chế pháp lý các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia trong luật biển việt nam 2012 với quy định t

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.88 KB, 9 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
NỘI DUNG................................................................................................................... 1
I.

Khái quát về các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia............................1

II. Bình luận sự tương thích giữa Luật biển Việt Nam và công ước Luật biển 1982
về cách xác định và quy chế pháp lí các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia
1
1. Bình luận sự tương thích về cách xác định và quy chế pháp lý vùng tiếp giáp
lãnh hải trong Luật biển Việt Nam 2012 với quy định trong công ước Luật biển
1982............................................................................................................................. 1
2. Bình luận sự tương thích về cách xác định và quy chế pháp lý vùng đặc quyền
kinh tế trong Luật biển Việt Nam 2012 với quy định trong công ước Luật biển 1982
2
3. Bình luận sự tương thích về cách xác định và quy chế pháp lý thềm lục địa
trong Luật biển Việt Nam 2012 với quy định trong công ước Luật biển 1982..........3
4. Đánh giá chung về sự tương thích giữa quy định Luật biển Việt Nam với Công
ước luật biển 1982......................................................................................................3
KẾT LUẬN................................................................................................................... 4
PHỤ LỤC..................................................................................................................... 5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................8

0


MỞ ĐẦU
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 được coi là văn bản pháp lí lý quốc tế tổng
hợp toàn diện, đề cập những vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp lý cho các vung biển. Là


một trong những nước đầu tham gia kí kết công ước này, ngay từ khi tham gia đến nay thì nước
ta đã tiến hành việc hoàn thiện hóa các quy định của luật biển sao cho ngày càng phù hợp hơn
với quy định của Công ước. Sự ra đời của Luật biển Việt Nam năm 2012 là mốc son đánh dấu sự
hoàn thiện của hệ thống pháp luật Việt Nam so với công ước Luật biển 1982. Sự tương thích
giữa luật biển Việt Nam và công ước Luật biển 1982 là một điều tất yếu.

NỘI DUNG
I. Khái quát về các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia
Theo quy định của công ước luật biển 1982 cũng như các quy định trong Luật biển Việt Nam
2012 thì thuộc nhóm các vùng biển quốc gia có quyền chủ quyền bao gồm vùng tiếp giáp, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Thứ nhất, vùng tiếp giáp lãnh hải được quy định tại Điều 33 1 Công ước luật biển chưa thật
cụ thể nhưng chúng ta có thể hiểu vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng tiếp giáp với lãnh hải và vùng
tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Và
vùng tiếp giáp lãnh hải về cơ bản được quy định tương đối cụ thể tại Điều 13 Luật biển Việt Nam
2012 ‘‘ Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng
12 hải lí tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải’’
Thứ hai, vùng đặc quyền kinh tế được đề cập trong Điều 55 Công ước luật biển năm 1982:
“Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải”. và theo
Điều 57 thì “vùng đặc quyền kinh tế không được mở rộng quá 200 hải lí kể từ đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải”. Và tại Điều 15 Luật Biển Việt Nam 2012 xác định: vùng đặc
quyền kinh tế của nước ta “là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh
hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở”.
Thứ ba, định nghĩa về thềm lục địa đều được đề cập tương đối rõ ràng trong cả công ước
Luật biển 1982 (Điều 76)2 và Luật biển Việt Nam 2012 (Điều 17)3
II.Bình luận sự tương thích giữa Luật biển Việt Nam và công ước Luật biển 1982 về cách
xác định và quy chế pháp lí các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia
1. Bình luận sự tương thích về cách xác định và quy chế pháp lý vùng tiếp giáp lãnh hải
trong Luật biển Việt Nam 2012 với quy định trong công ước Luật biển 1982
Thứ nhất, cách xác định: về tương đối cách xác định vùng tiếp giáp lãnh hải được quy định

trong Luật biển Việt Nam là tương thích với quy định trong công ước Luật biển 1982. Đều được
hiểu là vùng biển tiếp giáp với lãnh hải, rộng không quá 24 hải lí tính từ đường cơ sở.

1 Điều 33 – Công ước Luật biển 1982
2 Điều 76 – Công ước Luật biển 1982
3 Điều 17 – Luật biển Việt Nam 2012

1


Thứ hai, về quy chế pháp lí vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển thuộc quyền chủ quyền của
quốc gia nên quốc gia ven biển chỉ được thực hiện thẩm quyền hạn chế trong một số lĩnh vực
nhất định đối với các tàu thuyền nước ngoài. Về cơ bản, Luật biển 2012 của Việt Nam là phù
hợp với công ước.
Tuy nhiên, so với công ước thì Luật biển Việt Nam quy định thêm thẩm quyền bảo vệ an
ninh trong vùng tiếp giáp lãnh hải. Đây chính là một điểm hoàn thiện, phát triển của Luật biển
Việt Nam 2012. Nhưng ở Luật Biển Việt Nam 2012 lại không có quy định về điều chỉnh quyền
lợi của Việt Nam như một quốc gia ven biển đối với các hiện vật lịch sử và khảo cổ phát hiện ra
và trục vớt 1ên trong vùng biển này.
2. Bình luận sự tương thích về cách xác định và quy chế pháp lý vùng đặc quyền kinh tế
trong Luật biển Việt Nam 2012 với quy định trong công ước Luật biển 1982
Thứ nhất, cách xác định vùng đặc quyền kinh tế trong tuyên bố năm 1977 của Chính Phủ
chúng ta đã thấy bắt đầu có những quy định về quy chế lí đối với vùng đặc quyền kinh tế như
sau: “Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp liền lãnh hải
Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam”. Quy định này tiếp tục được hoàn thiện, bổ sung vào
Luật biên giới năm 2003 và đến Luật biển Việt Nam năm 2012( Điều 15) cũng tái khẳng định lại
quy định được đưa ra trong Luật biên giới năm 2003 như sau: “Vùng ĐQKT là vùng biển tiếp
liền phía ngoài lãnh hải và hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính
từ đường cơ sở, trừ trường hợp ĐƯQT giữa CHXHCN Việt Nam và các quốc gia hữu quan có

quy định khác”. Công ước Luật biển 1982 quy định cách xác định vùng đặc quyền kinh tế được
tại Điều 554 và Điều 575. Nếu so sánh về mặt ngôn từ thì ta thấy ở Luật biển Việt Nam thì quy
định chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế là 200 hải lí tính từ đường cơ sở. Còn trong công
ước thì quy định chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế là không được vượt quá 200 hải lí. Tuy
nhiên, nếu xét về bản chất thì chúng ta không thấy có sự khác biệt. Quy định của Luật biển Việt
Nam chỉ là cụ thể hóa, chi tiết hóa công ước nhưng không hề trái với công ước vẫn nằm trong
khoảng mà công ước quy định là không vượt quá 200 hải lí. Như vậy, khẳng định Luật biển Việt
Nam vẫn phù hợp, tương thích với công ước.
Thứ hai, về quy chế pháp lí đối với vùng ĐQKT: Nói chung vùng đặc quyền kinh tế theo
Luật biển 2012 của Việt Nam có chế độ pháp lý được kế thừa từ Công ước Luật biển 1982 về
quyền truy đuổi, quyền tài phán, thăm dò, khai thác, bảo tồn tài nguyên sinh vật hoặc không sinh
vật,... và có sự cụ thể, chi tiết hơn ở một số điểm:
Một là trong vùng đặc quyền kinh tế, tất cả các quốc gia có biển hay không có biển đều
được hưởng ba quyền đặc trưng cơ bản: quyềntự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp,
ống dẫn ngầm. Tuy nhiên, Luật biển 2012 của Việt Nam còn quy định rõ thêm“Việc lắp đặt dây
cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của Việt Nam”.
4 Điều 55 – Công ước Luật biển 1982
5 Điều 57 – Công ước Luật biển 1982

2


Hai là Nhà nước có quyền tài phán đối với các đảo nhân tạo và thiết bị, công trình trên biển
trong vùng đặc quyền kinh tế theo Công ước Luật biển 1982. Tuy nhiên, điều 34 Luật biển 2012
của Việt Nam còn quy định cu thể hơn trong công ước.
Ngoài ra còn nhiều quy định khác của Luật biển 2012 đã quy định phù hợp do kế thừa Công
ước Luật biển 1982: về nghiên cứu khoa học biển, quyền đối với tài nguyên sinh vật, không sinh
vật,...
3. Bình luận sự tương thích về cách xác định và quy chế pháp lý thềm lục địa trong Luật biển

Việt Nam 2012 với quy định trong công ước Luật biển 1982
Thứ nhất, cách xác định thềm lục địa: Điều 17 Luật biển năm 2012 của Việt Nam thì quy
định về cách xác định vùng thềm lục địa.
Cách xác định thềm lục địa trong công ước 1982 được quy định tại Điều 76 của công ước
mang tính khái quát hơn so với quy định trong Luật biển Việt Nam để tất cả các quốc gia đều có
thể áp dụng để xác định thềm lục địa của quốc gia mình.
Thứ hai, về quy chế pháp lí thềm lục địa: Chế độ pháp lý của thềm lục địa quy định tại điều
6
18 Luật biển 2012 đã phù hợp với các quy định từ Điều 77 7 đến Điều 85 Công ước 1982. Theo
đó thì: Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm
dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. Quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với
thềm lục địa của mình là đặc quyền, nghĩa là dù quốc gia ven biển này không thăm dò thềm lục
địa hay không khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa (bao gồm tài nguyên
không sinh vật và các tài nguyên sinh vật thuộc loài định cư), thì cũng không một quốc gia nào
có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận và được Chính phủ Việt
Nam đồng ý.
Tương tự như trong vùng đặc quyền kinh tế, tất cả các quốc gia có biển hay không có
biển đều được hưởng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm. Tuy nhiên, Luật biển 2012 của Việt
Nam còn quy định rõ thêm “Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng
văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam”.
Như vậy, nhìn chung các quy định trong Luật biển Việt Nam 2012 về cách xác định và quy
chế pháp lí của ba vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia so với các quy định trong
công ước 1982 là tương đối phù hợp, Luật biển Việt Nam mang tính cụ thể hóa hơn. Tuy có một
số điểm khác biệt nhưng không trái với các quy định trong công ước.
4. Đánh giá chung về sự tương thích giữa quy định Luật biển Việt Nam với Công ước luật
biển 1982
Các quy định của Luật biển Việt Nam năm 2012 quy định về cách xác định và quy chế
pháp của các vùng biển chủ yếu là phù hợp theo tinh thần của Công ước bên cạnh đó thì luật
biển nước cũng có thêm một số các quy định một cách cụ thể và chi tiết hơn nhưng vẫn đảm bảo
sự phù hợp và không trái với quy định của Công ước của LHQ về Luật biển 1982. Sự phù hợp

này sẽ tạo điều kiện cho nước ta trong việc :
6 Điều 18 – Luật biển Việt Nam
7 Điều 77 – Công ước Luật biển

3


Thứ nhất, nước ta là một nước có đường bờ biển dài do vậy việc thừa nhận và áp dụng các
quy định của công ước sẽ tạo sự dung hòa về lợi ích giữa nước ta và các quốc gia khác, đồng
thời cũng bảo đảm cho nước ta trong việc được thực hiện quyền riêng biệt trong phạm vi quyền
hạn của mình đối với các vùng biển theo công ước quy định mà các nước khác phải tôn trọng.
Thứ hai, việc quy định phù hợp như vậy sẽ tạo nên cơ sở pháp lý chung cho việc phân định
các vùng biển, chống lấn giữa nước ta với các nước xung quanh Biển Đông như Campuchia,
Thái lan, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia…góp phần tạo dựng sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau,
tạo môi trường ổn định, hoà bình, hợp tác và phát triển trong Biển Đông…
Thứ ba, sự tương đồng trong các quy định của pháp luật trong nước(Luật biển Việt Nam) và
pháp luật quốc tế (Công ước Luật biển 1982) tạo ra cơ sở, tiền đề cho Việt Nam thực hiện quyền
chủ quyền đối với các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của mình.
Sở dĩ có sự tương đồng như vậy được lí giải bởi một số nguyên nhân như sau: Thứ nhất,
Việt Nam cũng như các quốc gia ven biển đánh giá cao UNCLOS 1982 như một Công ước
khung quan trọng nhất thiết lập một trật tự pháp lý mới công bằng trên biển, bảo đảm tốt nhất
quyền lợi biển của các quốc gia ven biển và các quốc gia khác. Vì vậy có thể nói, tính tương
thích với UNCLOS 1982 là một trong những ưu tiên hàng đầu trong quá trình xây dựng luật
Biển.Thứ hai, về cơ bản các quy định của Công ước Luật Biển năm 1982 không thể thỏa mãn tất
cả các yêu sách mà các nhóm nước đặt ra, nhưng về tổng thể đã dung hoà yêu cầu và quan tâm
của các nhóm nước vì vậy những quy định trong Luật biển của nước ta không trái với các quy
định trong UNCLOS 1982. Thứ ba, phải kể đến Việt Nam là một quốc gia ven Biển Đông, Nhà
nước ta triển khai nhiều hoạt động khai thác các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền
của mình để xây dựng và phát triển đất nước. Trong khi tiến hành các hoạt động ở Biển Đông,
Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của Công ước, tôn trọng quyền của các quốc gia khác ven

Biển Đông cũng như các quốc gia khác theo đúng các quy định của Công ước. Nên trong luật
biển sự tương thích với công ước là một điều tất yếu.

KẾT LUẬN
Qua sự phân tích trên đây, tuy ngắn gọn nhưng giúp chúng ta hiểu được cách xác định cũng như
quy chế pháp lí đối với các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia. Đồng thời so sánh,
đánh giá được sự tương đồng giữa Luật biển Việt Nam 2012 và Công ước Luật biển 1982.

4


PHỤ LỤC
1. Điều 33 – Công ước Luật biển 1982
ĐIỀU 33. Vùng tiếp giáp
1. Trong một vùng tiếp giáp với lãnh hải của mình, gọi là vùng tiếp giáp, quốc gia ven
biển có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết, nhằm:
a) Ngăn ngừa những phạm vi đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay
nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
b) Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay
trong lãnh hải của mình.
2. Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng của lãnh hải.
2. Điều 76 – Công ước Luật biển 1982
ĐIỀU 76. Định nghĩa thềm lục địa
1. Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất
liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng
cách gần hơn.
2. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài các giới hạn nói ở các khoản từ 4 đến 6.

3. Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa của quốc gia ven biển, cấu
thành bởi đáy biển tương ứng với thềm, dốc và bờ, cũng như lòng đất dưới đáy của chúng.
Rìa lục địa không bao gồm các đáy của đại dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương
của chúng, cũng không bao gồm lòng đất dưới đáy của chúng.
4. a) Theo công ước, quốc gia ven biển xác định bờ ngoài của rìa lục địa mở rộng ra
quá 200 hải lý các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải bằng:
i. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định tận cùng nào
mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm được xét
cho tới chân dốc lục địa hay,
ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định ở cách chân
dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng hợp với điểm biến đồi
độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc
5. Các điểm cố định xác định trên đáy biển, đường ranh giới ngoài cùng của thềm lục
địa được vạch theo đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ i) và ii), nằm cách điểm cơ sở để tính
chiều rộng lãnh hải một khoảng cách không vượt quá 350 hải lý hoặc nằm cách đường
đẳng sâu 2500m là đường nối liền các điểm có chiều sâu 2500m, một khoảng cách không
quá 100 hải lý.
6. Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi ngầm, ranh giới ngoài của thềm lục địa không
vượt quá một đường vạch ra ở cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 350 hải
lý. Khoản này không áp dụng cho các địa hình nhô cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố
tự nhiên của rìa lục địa, như các thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.
5


7. Quốc gia ven biển ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của mình, khi thềm này mở
rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, bằng cách nối
liền các điểm cố định xác định bằng hệ tọa độ kinh vĩ độ, thành các đoạn thẳng dài không
quá 60 hải lý.
8. Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục địa của

mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được thành lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện
công bằng về địa lý. Ủy ban gửi cho các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề
liên quan đến việc ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới do một quốc
gia ven biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có tính chất bắt buộc.
9. Quốc gia ven biển gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các bản đồ và các điều chỉ
dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một cách thường xuyên ranh giới ngoài
của thềm lục địa của mình. Tổng thư ký công bố các tài liệu này theo đúng thủ tục.
10. Điều này không xét đoán trước vấn đề hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các
quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.
3. Điều 17 – Luật biển Việt Nam
Điều 17. Thềm lục địa
Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh
hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và
quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa.
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý
thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ
sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc
không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét.
4. Điều 55 – Công ước Luật biển 1982
ĐIỀU 55. Chế độ pháp lý riêng của vùng đặc quyền về kinh tế
Vùng đặc quyền về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải,
đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó các quyền và quyền tài
phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định
thích hợp của Công ước điều chỉnh.
5. Điều 57 – Công ước Luật biển 1982
ĐIỀU 57. Chiều rộng của vùng đặc quyền về kinh tế
Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải.


6


6. Điều 18 – Luật biển Việt Nam
Điều 18. Chế độ pháp lý của thềm lục địa
1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác tài
nguyên.
2. Quyền chủ quyền quy định tại khoản 1 Điều này có tính chất đặc quyền, không ai
có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của
thềm lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam.
3. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc
khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa.
4. Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển
hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật
này và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên, không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích
quốc gia trên biển của Việt Nam.
Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên,
nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của Việt Nam trên
cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên,
hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ
Việt Nam.
7. Điều 77 – Công ước Luật biển 1982
ĐIỀU 77. Các quyền của các quốc gia ven biển đối với thềm lục địa
1. Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về
mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình.
2. Các quyền nói ở khoản 1 có tính chất đặc quyền, nghĩa là các quốc gia ven biển

không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa,
thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng
của quốc gia đó.
3. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào sự
chiếm hữu thực sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào.
4. Các tài nguyên thiên nhiên ở phần này bao gồm các tài nguyên thiên nhiên khoáng
sản và các tài nguyên thiên nhiên không sinh vật khác của đáy biển và lòng đất dưới đáy
biển, cũng như các sinh vật thuộc loại định cư, nghĩa là những sinh vật nào, ở thời kỳ có thể
đánh bắt được, hoặc nằm bất động ở đáy, hoặc lòng đất dưới đáy; hoặc là không có khả
năng di chuyển nếu không có khả năng tiếp xúc với đáy hay lòng đáy dưới đáy biển.

7


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình luật biển quốc tế, TS. Lê Mai Anh ( chủ
biên), Nxb CAND, Hà Nội, 2004;
2. Giáo trình luật quốc tế ,TS Nguyễn Thị Kim Ngân - TS Chu Mạnh Hùng ( đồng
chủ biên), Nxb Giáo Dục Việt Nam, Hà Nội , 2010;
3. Luật biển Việt Nam 2012;
4. Công ước Luật biển 1982;
5. Trường Đại học Luật Hà Nội, đặc san Luật biển tháng 8 – 2012, xác định vùng
biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia, Th.s Lê Thị Anh Đào;
6. Tuyên bố của chính phủ năm 1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp và vùng đặc quyền
kinh tế.

8




×