Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Chứng minh rằng phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.23 KB, 9 trang )

Công pháp quốc tế - Bài tập lớn học kì

Mục lục
Đặt vấn đề………………………………………………………………………
Giải quyết vấn đề……………………………………………………………
I. Những quy định của pháp luật quốc tế về Tòa án công lý quốc tế…………
1. Khái niệm……………………………………………………………………..
2. Thành phần và cơ cấu tổ chức của Tòa án công lý quốc tế…………………
3. Chức năng của Tòa án công lý quốc tế………………………………………
4. Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế……………………………………….

Trần Thị Thu Giang – MSSV: 361056

1


Công pháp quốc tế - Bài tập lớn học kì

Đặt vấn đề
Thực tiễn hoạt động của Tòa án công lý quốc tế Liên hiệp quốc đã cho thấy
các kết quả xét xử thể hiện tại các bản án, ngoài chức năng giải quyết tranh chấp
mà tòa có thẩm quyền còn có ý nghĩa quan trọng trong thực thi luật quốc tế. Với
mong muốn được tìm hiểu rõ hơn về chức năng quan trọng đó em đã chọn đề tài “
Chứng minh rằng : Phán quyết của tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và quy
phạm tập quán” để thực hiện bài tập lớn học kỳ. Em rất mong nhận được sự chỉ
dẫn của các thầy cô giáo bộ môn để em có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.

Giải quyết vấn đề
I. Những quy định của pháp luật quốc tế về Tòa án công lý quốc tế.
1. Khái niệm


Trong đời sống quốc tế, tồn tại nhiều loại tòa án khác nhau như: Tòa án
công lý quốc tế của liên hiệp quốc, Tòa án nhân quyền Châu Âu, Tòa án luật biển,
Tòa án Châu Âu…Tuy nhiên, khi nói đến phán quyết của tòa án với vai trò là
nguồn bổ trợ của Luật quốc tế, chúng ta chủ yếu đề cập đến các phán quyết của tòa
án công lý quốc tế. Theo quy định tại Điều 92 Hiến chương Liên hợp quốc thì “
Tòa án quốc tế là cơ quan hành chính của Liên hợp quốc. Tòa án này hoạt động
theo một quy chế xây dựng trên cơ sở của Tòa án quốc tế thường trực. Quy chế
của Tòa án quốc tế kèm theo Hiến chương này là một bộ phận cấu thành của Hiến
chương.”
2. Thành phần và cơ cấu tổ chức của Tòa án công ký quốc tế.
Tòa án công lý quốc tế gồm 15 thẩm phán có các quốc tịch khác nhau. Thẩm
phán tòa án công lý được Đại hội đồng và Hội đông Bảo an Liên hiệp quốc bầu với
nhiệm kỳ 9 năm và cứ mỗi 3 năm bầu lại 1/3 số thẩm phán. Thẩm phán của Tòa
không được đảm nhiệm một chức vụ chính trị, hành chính hoặc nghề nghiệp nào
trong thời gian đương nhiệm.

Trần Thị Thu Giang – MSSV: 361056

2


Công pháp quốc tế - Bài tập lớn học kì
Các phụ thẩm có thể được tòa tự lựa chọn hoặc theo yêu cầu của các bên
tranh chấp tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp.
Ban thư ký là cơ quan hành chính thường trực của Tòa, gồm chánh thư ký,
phó tránh thư ký và các nhân viên. Chánh thư ký và phó chánh thư ký do tòa bầu ra
theo phương thức bỏ phiếu kín với nhiệm kỳ 7 năm. Các nhân viên thư ký do tòa
hoặc chánh thư ký đề cử.
3. Chức năng của Tòa án công lý quốc tế
Tòa án công lý quốc tế là cơ quan có chức năng giải quyết tranh chấp phát

sinh giữa các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc. Các quốc gia không phải thành
viên Liên hiệp quốc nhưng muốn tham gia Quy chế tòa án công lý quốc tế và đưa
tranh chấp ra tòa thì phải thỏa mãn những điều kiện do Đại hội đồng quyết định
trong từng trường hợp cụ thể theo kiến nghị của Hội đồng Bảo an. Ngoài chức
năng giải quyết tranh chấp quốc tế, tòa án công lý quốc tế còn thực thi một chức
năng quan trọng khác là đưa ra các kết luận tư vấn nếu các cơ quan của Liện hiệp
quốc hoặc các quốc gia thành viên có yêu cầu.
4. Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế
Phán quyết của tòa được thông qua khi đa số các thẩm phán có mặt và bỏ
phiếu tán thành. Trong trường hợp số phiếu thuận và chống ngang nhau thì phiếu
của Chánh án tòa án công lý quốc tế có tính quyết định.
Phán quyết của tòa có giá trị chung thẩm và bắt buộc đối với các bên tranh
chấp. Nếu một trong các bên không chịu thi hành phán quyết, phía bên kia có
quyền yêu cầu Hội đồng Bảo an can thiệp, buộc phải chấp hành. Về pháp lý, phán
quyết của tòa chỉ có giá trị bắt buộc trong mối quan hệ giữa các bên tranh chấp.
Tuy vậy, phán quyết cũng có tác động rất lớn tới thái độ của các quốc gia đối với
vấn đề mà tòa phân xử, ví dụ như các thành viên của điều ước quốc tế đa phương
không thể bỏ qua phán quyết của tòa liên quan đến việc giải thích điều ước đó.
Hơn thế, các chủ thể của Luật quốc tế hoàn toàn có thể chấp nhận và áp dụng từng
phần hay toàn bộ phán quyết của tòa với tư cách là tập quán quốc tế.

Trần Thị Thu Giang – MSSV: 361056

3


Công pháp quốc tế - Bài tập lớn học kì
Bản thân các phán quyết là kết quả của quá trình áp dụng pháp luật của tòa
án trong quá trình giải quyết tranh chấp quốc tế, và các quyết định tài phán này chỉ
có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Điều 59 Quy chế Tòa án quy định

“Quyết định của tòa án có giá trị bắt buộc chỉ đối với các bên tham gia vụ án và
chỉ đối với các vụ án cụ thể đó”. Tuy nhiên, các giải thích của các cơ quan tài phán
quốc tế chứa đựng một thẩm quyền đã được giải thích nhiều khi vượt ra khỏi phạm
vi các quốc gia tham gia vụ kiện. Từ một quy tắc, quy phạm chưa được giải thích
còn chung chung mơ hồ, khó hiểu, sau khi được giải thích, chúng được định hình
là các quy tắc, quy phạm đã được giải thích và có tác động nhất định cả với các
quốc gia ký kết điều ước nhưng không tham kiện. Chính vì thế mà các phán quyết
của Tòa có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành cũng như viện dẫn áp
dụng tập quán.

II. Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế có ý nghĩa trong quá trình hình
thành cũng như viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và quy phạm tập quán.
Trong thực tiễn hoạt động của mình, Tòa án quốc tế liên hiệp quốc không
chỉ xác nhận sự tồn tại thực tế của tập quán quốc tế mà còn đưa ra nhiều định nghĩa
và nguyên tắc mới trở thành cơ sở của luật tập quán và luật điều ước. Khẳng định
này được tổng kết từ thực tiễn của Tòa trong việc giải quyết tranh chấp về biển và
phân định biển.
Ví dụ: Vụ Ngư trường Anh – Na Uy ngày 18 tháng 12 năm 1951 về đường
cơ sở thẳng. Trước đại chiến thế giới lần thứ nhất, tàu thuyền đánh cá Anh thường
hay vào vùng nước của Na Uy đánh bắt cá gây ra nhiều xô xát với dân địa phương.
Sau nhiều đụng độ Anh quyết định đâm đơn kiện tại Tòa án pháp lý quốc tế. Họ
phản đối phương pháp mà Na Uy đã dùng kế hoạch định đường cơ sở lãnh hải.
Trên thực tế Na Uy đã không sử dụng phương pháp ngấn nước thủy triều thấp nhất
để xác định đường cơ sở lãnh hải của mình mà lại áp dụng từ năm 1869 phương
pháp đường cơ sở thẳng nối liền một số các điểm thích hợp chọn dọc theo bờ biển.
Bằng phương pháp này, lãnh hải của Na Uy đã mở rộng ra biển. Tòa án pháp lý
quốc tế đã xử cho Na Uy thắng cuộc, công nhận tính hợp lý của đường cơ sở thẳng
Trần Thị Thu Giang – MSSV: 361056

4



Công pháp quốc tế - Bài tập lớn học kì
Na Uy, áp dụng cho vùng bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm, có các chuỗi đảo chạy
qua, một khi đường này không chạy cách xa xu thế chung của bờ biển.
Phán quyết đã mở đầu cho việc Công nhận rộng rãi phương pháp đường cơ
sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Các tiêu chuẩn của đường cơ sở thẳng
qua Na Uy qua phán quyết của Tòa án đã trở thành các tiêu chuẩn chung được Luật
quốc tế thừa nhận và được điển chế hóa trong các công ước của Liên Hiệp Quốc về
luật biển công ước Giơnevơ năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp.
Phán quyết đã đặt nền móng cho việc thống nhất định nghĩa vịnh được ghi
nhận trong Điều 7 của công ước năm 1958 và Điều 10 của công ước năm 1982,
vịnh cấn được hiểu là một vùng lõm sâu rõ rệt vào đất liền mà chiều sâu của vùng
lõm đó so sánh với chiều rộng ở ngoài cửa của nó đến mức là nước ở vùng lõm đó
được bờ biển bao quanh và vùng đó lõm sâu hơn là một sự uốn cong của bờ biển.
Phán quyết đã đề cập khái niệm estopel trong luật quốc tế, sự im lặng của
Anh trong vòng 60 năm đã được coi như sự mặc nhiên thừa nhận hệ thống đường
cơ sở thẳng của Na Uy.
Phán quyết còn được coi như một ví dụ trong việc phát triển lí thuyết mới
của Luật Quốc tế. Hiệu lực của sự phản đối bền bỉ persistant objection thực tiễn
của thiểu số các quốc gia trong một thời gian dài được sự khoan dung của cộng
đồng quốc tế có thể trở thành nột quy phạm mới của luật quốc tế.
2. Vai trò của phán quyết đối với việc viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và
quy phạm tập quán.
Ngoài chức năng giải quyết tranh chấp, Tòa án Quốc tế đôi khi còn có chức
năng đưa ra kết luận tư vấn về một vấn đề nào đó khi chủ thể của Luật Quốc tế yêu
cầu. Khác với phán quyết, kết luận tư vấn của Tòa án Quốc tế không có giá trị bắt
buộc thi hành. Tuy vậy, cũng như các phán quyết, các kết luận tư vấn cũng có vai
trò nhất định trong quá trình viện dẫn áp dụng quy phạm điều ước và quy phạm tập
quán.

Vụ phán quyết thứ hai về biển cũng đã ghi nhận vai trò của phán quyết đối với quá
trình hình thành quy phạm tập quán.
Trần Thị Thu Giang – MSSV: 361056

5


Công pháp quốc tế - Bài tập lớn học kì
Ví dụ: Vụ eo biển Corfou ngày 9 tháng 4 năm 1949 (Anh – Albani). Ngày 22
tháng 10 năm 1946, tàu chiến Anh đi qua eo biển Corfou, bị dính mìn, 44 thủy thủ
chết và 42 bị thương. Anh gửi công hàm cho Albani thông báo sẽ tiến hành rà mìn
trong eo biển Corfou, eo biển nằm trong lãnh hải của Albani mà Anh cho là eo biển
Quốc tế nơi tàu thuyền có quyền qua lại. Albani phản kháng việc tàu quân sự nước
ngoài đi vào lãnh hải không xin phép trước và mọi sự rà mìn tại eo biển không có
sự đồng ý của Albani là vi phạm chủ quyền của quốc gia ven biển. Anh kiện Albani
ngày 22 tháng 5 năm 1947 trước Tòa án pháp lý quốc tế, đòi Albani phải chịu trách
nhiệm trước các thiệt hại mà Hải quân Anh phải chịu. Tòa đã công nhận “nguyên
tắc tự do thông thương hàng hải và nghĩa vụ của mọi quốc gia không được sử dụng
lãnh thổ của mình nhằm mục đích chống lại quyền của các quốc gia khác”. Tàu
chiến Anh được hưởng quyền qua lại không gây hại qua eo biển quốc tế với điều
kiện nó không tiến hành các hoạt động rà soát mìn trong lãnh hải Albani, hành
động được coi là sự can thiệp bị luật pháp quốc tế ngăn cấm, vi phạm chủ quyền
của quốc gia ven biển. Tòa đã đưa ra một quy chuẩn địa lý: eo biển nối hai phần
của biển cả là một eo biển quốc tế. Các phán quyết của Tòa án công lý quốc tế về
vụ eo biển cofou đã có những đóng góp trong việc giải thích và thúc đẩy pháp điển
hóa luật quốc tế đặc biệt là luật biển.
Phán quyết đã làm rõ khái niệm eo biển quốc tế và nguyên tắc quyền qua lại
eo biển quốc tế không gây hại. Quyền này được công ước Giơnevơ năm 1958 về
lãnh hải và vùng tiếp giáp công nhận và sau đó được phát triển điều chỉnh thành
quyền quá cảnh qua các eo biển quốc tế ghi trong công ước luật biển của Liên Hiệp

quốc năm 1982. Các eo biển quốc tế là các eo biển nối liền 2 phần của biển cả và
phục vụ cho hàng hải quốc tế.
Phán quyết còn đóng góp trong việc khẳng định nguyên tắc tôn trọng chủ
quyền quốc gia và việc cấm mọi sự can thiệp bằng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Ví dụ 3: Đối với phán quyết tại vụ thềm lục địa biển bắc năm 1969 của Tòa án
công lý quốc tế. Trong vụ này CHLB Đức kiện Hà Lan và Đan Mạch về vấn đề
phân chia thềm lục địa giữa 3 nước. Nước Đức phản đối việc áp dụng nguyên tắc
Trần Thị Thu Giang – MSSV: 361056

6


Công pháp quốc tế - Bài tập lớn học kì
đường cách đều và đã dấn tới kết quả thu hẹp khá nhiều phần thềm lục địa của
Đức, tỷ lệ với chiều dài bờ biển của nó, theo Đức Tòa án pháp lý quốc tế đã chấp
nhận nguyên tắc đường cách đều không phải là một nguyên tắc ưu tiên nó không
thể bắt buộc áp dụng cho nước Đức trên cơ sở luật điều ước ( vì quốc gia này
không phê chuẩn công ước Giơnevơ năm 1958 về thềm lục địa) cũng như trên cơ
sở luật tập quán, vì nguyên tắc này không được công nhận như một nguyên tắc của
luật được thực tiễn công nhận.
Trong phán quyết lịch sử của mình, Tòa án công lý quốc tế đã khôi phục và
phát triển thêm nguyên tắc kéo dài tự nhiên đã được tuyên bố Truman và công việc
chuẩn bị của ủy ban luật quốc tế cho hội nghị lần thứ nhất của liên Hiệp Quốc về
luật biển đề cập. Tòa thừa nhận các Điều 1 và Điều 3 của công ước Giơnevơ năm
1958 tạo thành chính sách chế độ pháp lý của thềm lục địa là một nguyên tắc có
tính tập quán của luật quốc tế. Đối với tòa không phải tính tiếp giáp, cũng không
phải tính kế cận có thể minh chứng cơ bản cho việc mở rộng thẩm quyền quốc gia
trên thềm lục địa nằm ngoài lãnh hải mà chính là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ
đất liền ra biển đã mang lại danh nghĩa quyền chủ quyền cho quốc gia ven biển
trên thềm lục địa đó. Tòa đã nêu ra được nguyên tắc “đất thống trị biển” và từ đó

nguyên tắc thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển. Chính
chủ quyền của quốc gia ven biển trên lãnh thổ đã vpso facto một cách đương nhiên
đem lại quyền chủ quyền cho họ trên phần thềm lục địa kéo dài tự nhiên của lãnh
thổ đất liền ra biển. Ngay cả khi một vùng đáy biển là gần lãnh thổ của một quốc
gia hơn là lãnh thổ của mọi quốc gia khác, người ta cũng không thể coi rằng nó
thuộc quốc gia này một khi nó không phải là phần mở rộng tự nhiên của lãnh thổ
đất liền của quốc gia đó ra biển. Tòa đã bác bỏ tính ưu tiên của nguyên tắc đường
cách đều ( trung tuyến) trong phân định. Tòa đã khái quát hóa và đề xuất các
nguyên tắc về thỏa thuận, nguyên tắc về kéo dài tự nhiên, nguyên tắc tính đến các
hoàn cảnh đặc biệt và nguyên tắc công bằng trong phân định biển, phán quyết của
tòa đã tạo bước ngoặt trong lịch sử phát triển của luật biển quốc tế.

Trần Thị Thu Giang – MSSV: 361056

7


Công pháp quốc tế - Bài tập lớn học kì
Tòa đã phân tích và nêu rõ các điều kiện để một nguyên tắc, một quy phạm
mang tính Điều ước có thể trở thành một nguyên tắc, một quy phạm tập quán.
Tóm lại, mặc dù phán quyết của Tòa án quốc tế có vai trò và ý nghĩa to lớn
trong quá trình phát triển của luật quốc tế cũng như trong thực tiễn quan hệ quốc
tế, chúng ta vấn khẳng định rằng các phán quyết của tòa không phải là nguồn của
luật quốc tế không được coi là nguồn vì tự bản thân các phán quyết của Tòa không
sinh ra quy phạm pháp lý có giá trị bắt buộc các chủ thể phải tuân theo, nguồn của
luật quốc tế phải được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các chủ thể luật quốc
tế. Các phán quyết này chỉ là phương tiện hỗ trợ cần thiết để xác định sự đúng sai
của các quốc gia khi áp dụng quy phạm luật quốc tế cụ thể nào đó. Nói cách khác
phán quyết của Tòa án quốc tế Liên Hiệp Quốc chỉ là phương tiện để giải thích một
cách chính xác và bảo vệ sự đúng đắn của quy phạm luật quốc tế, đồng thời các

phán quyết là phương tiện hỗ trợ để chỉ rõ, xác định sự tồn tại thực tế của quy
phạm tập quán quốc tế.

Kết thúc vấn đề
Tòa án Quốc tế là cơ quan tài phán do quốc gia và chủ thể luật quốc tế thỏa
thuận thành lập với chức năng chính là giải quyết tranh chấp quốc tế. Phán quyết là
kết quả giải quyết tranh chấp của tòa. Các phán quyết này là chung thẩm và có giá
trị bắt buộc chỉ đối với các bên tranh chấp. Mặc dù vậy, phán quyết của Tòa án
Quốc tế có vai trò rất quan trọng trong việc giải thích, làm sáng tỏ nội dung của
quy phạm pháp luật quốc tế và trong một số trường hợp phán quyết của Tòa án
Quốc tế còn là tiền đề cơ sở để hình thành nên quy phạm pháp luật quốc tế mới.

Trần Thị Thu Giang – MSSV: 361056

8


Công pháp quốc tế - Bài tập lớn học kì

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Những điều cần biết về luật biển – TS. Nguyễn Hồng Thao – nxb Công an
nhân dân – Hà Nôi 1997.
2. Giáo trình luật quốc tế - Trường Đại Học Luật Hà Nội – Nxb Công an nhân
dân
3. Tòa án công lý quốc tế - TS. Nguyễn Hồng Thao

Trần Thị Thu Giang – MSSV: 361056

9




×