Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Mối quan hệ giữa quốc hội với chính phủ theo pháp luật hiện hành thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.84 KB, 9 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. Khái quát về vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội và chính

Trang 1
Trang 1
Trang 1

phủ
1. Vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội
2. Vị trí, tính chất và chức năng của Chính phủ
II. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ - Thực trạng và giải

Trang 1
Trang 2
Trang 2

pháp

1. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ trong tổ chức
2. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ trong hoạt động lập

Trang 2
Trang 3

pháp
3. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ trong lĩnh vực giám sát Trang 5
4. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ trong việc quyết định Trang 7
những vấn đề quan trọng của đất nước
KẾT LUẬN



Trang 8

LỜI MỞ ĐẦU
Bộ máy nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được chia thành bốn
hệ thống các cơ quan (quyền lực, hành chính, xét xử, kiểm sát) và cơ quan chủ tịch nước.
Trong đó, Quốc hội và Chính phủ là hai cơ quan vô cùng quan trọng, nắm trong tay khá
nhiều quyền lực của nhân dân và đất nước. Quốc hội đại diện cho nhân dân còn Chính
phủ là cơ quan mang quyền thực thi pháp luật trong quốc gia. Hai cơ quan này thực hiện
nhiều những nhiệm vụ khác nhau nhưng đều cùng một mục đích là xây dựng một đất
nước phát triển toàn diện và vững mạnh. Giữa hai cơ quan trên có sự ràng buộc, liên quan
lẫn nhau và có ảnh hưởng rất lớn đến hướng phát triển của quốc gia. Sự gắn kết và thống

1


nhất giữa Quốc hội và Chính phủ được thể hiện ở nhiều lĩnh vực, hoạt động và các vấn đề
quan trọng khác nhau. Để tìm hiểu sâu sắc về mối quan hệ này, nhóm chúng em xin được
lựa chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ theo pháp luật hiện hành Thực trạng và giải pháp”.
NỘI DUNG

I.

Khái quát vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội và Chính phủ
1. Vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng “Quốc

hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
của nước Cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 83 – Hiến pháp 1992). Chức
năng của Quốc hội cũng được quy định rất cụ thể trong điều này, qua đó chức năng của

Quốc hội bao gồm những phương diện sau: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền
lập hiến và lập pháp; Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối
ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc
chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và những
hoạt động của công dân; Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động của Nhà nước” nhằm đảm bảo cho những quy định của Hiến pháp và pháp
luật được thi hành triệt để và thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, có hiệu
lực và hiệu quả.

2. Vị trí, tính chất và chức năng của Chính phủ
Điều 109 – Hiến pháp 1992 đã khẳng định vị trí của Chính phủ: “Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Khẳng định này nhằm đề cao vị trí của Chính phủ
trong bộ máy nhà nước, tạo thế chủ động cho Chính phủ trong hoạt động quản lý nhà
nước. Hoạt động quản lý nhà nước của Chính phủ được thể hiện ở những điểm sau:
- Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước.
- Bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở.
- Bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

2


- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
- Bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

II.

Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ - Thực trạng và giải pháp
Trên cơ sở xác định vị trí, tính chất, chức năng của Quốc hội và Chính phủ, ta có


thể thấy rằng giữa Chính phủ và Quốc hội có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau,
đồng thời có sự phân công, phối hợp một cách hợp lý, tạo hiệu quả hoạt động cho các cơ
quan nhà nước cũng như quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Mối quan hệ giữa
Quốc hội với Chủ tịch nước được thể hiện trong các lĩnh vực sau:
1. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ trong tổ chức
Theo quy định của Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001, Luật tổ chức
Chính phủ năm 2001, Quốc hội thành lập ra Chính phủ tại kỳ họp I của mỗi khoá Quốc
hội: Thủ tướng do Quốc hội bầu theo sự giới thiệu của Chủ tịch nước; các phó Thủ tướng,
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn
việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Thủ tướng Chính phủ là đại biểu Quốc hội, các
thành viên khác không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội.
Khoản 7 – Điều 2 - Luật tổ chức Quốc hội 2001 quy định: Quốc hội có quyền bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, phó Chủ tịch nước, chủ thịch Quốc hội, các phó
Chủ tịch Quốc hội và các uỷ viên Ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh
án Toà án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, phê chuẩn đề
nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng,
Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về
danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng an ninh, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những
người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Theo Hiến pháp 1992, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan
hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy,
Chính phủ có thể hoạt động độc lập trong các lĩnh vực hành chính Nhà nước.
Tuy nhiên, trên thực tế việc tổ chức còn tồn tại nhiều bất cập. Cụ thể: 2/3 số thành
viên của Chính phủ là đại biểu Quốc hội, điều này khiến cho hoạt động giám sát của Quốc
hội với Chính phủ chưa thực sự khách quan. Hay trên thực tế số lượng đại biểu kiêm
nhiệm nhiều hơn đại biểu chuyên trách đã khiến cho các đại biểu vì công việc chuyên

3



môn mà phải dồn hết tâm sức và dường như không còn thời gian để thực hiện nhiệm vụ
đại biểu nữa.
Từ thực trạng trên, chúng em xin đưa ra một số giải pháp khắc phục để hoàn thiện
việc tổ chức:
Hiến pháp 1992 cần sửa đổi và quy định Thủ tướng Chính phủ là đại biếu Quốc
hội, các thành viên khác của Chính phủ không phải là đại biểu Quốc hội, quy định này sẽ
giúp cho hoạt động kiểm tra, giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ đảm bảo tính chặt
chẽ, khách quan, hiệu quả của Chính phủ và Quốc hội sẽ cao hơn vì thành viên của Chính
phủ không phải gánh vác hai vai trò vừa là đại biểu Quốc hội vừa là thành viên Chính
phủ.
Cần nhận thức rõ vị trí vai trò của Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất nhưng không phải là cơ quan toàn quyền. Mục tiêu hướng tới là cần xây
dựng một Quốc hội “thực quyền” chứ không phải “toàn quyền”, để làm được điều đó cần
phải chuyển phương thức hoạt động của Quốc hội từ một Quốc hội tham luận sang một
Quốc hội tranh luận. Một Quốc hội hướng tới hoạt động thường xuyên với một bộ phận
đại biểu chuyên nghiệp. Quyền lực của Quốc hội phải là quyền lực có tính chi phối đối
với các lĩnh vực quyền lực nhà nước khác.
2. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ trong hoạt động lập pháp
Hoạt động lập pháp của Quốc hội ngày càng có chất lượng hơn bởi sự phối hợp chặt
chẽ giữa Quốc hội và Chính phủ. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp nhưng Chính phủ là cơ quan có sáng kiến lập pháp, tức là quyền trình dự án luật ra
trước Quốc hội. Hoạt động của chính phủ được thực hiên trên cơ sở những văn bản qui
phạm pháp luật do Quốc hội ban hành. Từ năm 1992 đến đầu năm 2000, theo số liệu đăng
ở Công báo, các cơ quan nhà nước ở trung ương đã ban hành 4869 văn bản pháp luật các
loại thì có đến 651 Nghị định, 838 quyết định và 182 chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
Trong đó, số lượng các dự án luật, pháp lệnh mà Chính phủ thông qua để trình Quốc hội,
UBTVQH ban hành không ngừng tăng nhanh; năm 2000 là 11 dự án (5 luật, 6 pháp lệnh);
năm 2001 là 22 dự án (11 luật, 10 pháp lệnh, 1 Nghị quyết); năm 2002 là 6 dự án (4 luật,
2 pháp lệnh); năm 2003 là 34 dự án (20 luật, 14 pháp lệnh) và 6 tháng đầu năm 2004 là 11

dự án (9 luật, 2 pháp lệnh) …
Quốc hội là cơ quan lập pháp duy nhất nhưng không trực tiếp soạn thảo nội dung
của tất cả các văn bản luật, pháp lệnh. Đa số văn bản luật, pháp lệnh do Quốc hội,

4


UBTVQH thông qua đều do Chính phủ soạn thảo. Như vậy, quyền lập pháp của Quốc hội
được thực hện trên cơ sở quyền trình dự án luật, pháp lệnh của chính phủ. Trong những
năm gần đây, hoạt động của Chính phủ đã tiến hành đều đặn, mỗi tháng họp 1 lần, kéo dài
trong khoảng 1 đến 2 ngày. Chính phủ có kế hoạch làm việc theo tháng; Thủ tướng và
Phó Thủ tướng có kế hoạch làm việc cụ thể theo tuần. Về mặt nội cdung, Chính Phủ, Thủ
tướng đã tập trung nhiều hơn vào việc xây dựng thể chế, thảo luận và thông qua các dự án
tại các phiên họp của Chính phủ.
Trong điều kiện chính trị của nước ta không có sự đối lập chính trị, vậy mối quan hệ
giữa Quốc hội với Chính phủ trong hoạt động nói chung, hoạt động lập pháp nói riêng
không có sự đối lập trong mục đích xây dựng và ban hành văn bản qui phạm pháp luật.
Luật do Quốc hội ban hành là thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách của
nhà nước. Chính phủ có vai trò đảm bảo tôn trọng, chấp hành Hiến pháp và pháp luật do
Quốc hội ban hành, đây là vai trò cực kì to lớn của Chính phủ trong nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiện nay, nhà nước ta đang phấn đấu thực hiện mục tiêu xây
dựng nhà nước Viện Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Có thể đưa ra một số giải pháp hoàn thiện mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ
trong qui trình lập pháp như sau:
- Đổi mới qui trình lập, thẩm tra chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
- Tăng cường tính chủ động của Chính phủ trong hoạt động xây dựng luật, pháp
lệnh.
- Tăng cường mối quan hệ giữa Hội đồng dan tộc và các Ủy ban của Quốc hội Hội
đồng dân tộc với các cơ quan của Chính phủ trong hoạt đông thẩm tra dự án luật, pháp
lệnh.

- Phân định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong qui trình lập pháp.
- Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ tham mưu, giúp việc cho Quốc hội, Chính
phủ trong qui trình lập pháp.
- Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin phục vụ công tác xây dựng pháp luật của
Quốc hội.

3. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ trong lĩnh vực giám sát:
Hoạt động giám sát của Quốc hội là hoạt động có tính tất yếu khách quan. Nhà nước
không thể tồn tại nếu không có pháp luật. Quốc hội thực hiện giám sát Chính phủ bằng
các hình thức: Xem xét, đánh giá báo cáo của Chính phủ tại các kỳ họp của Quốc hội; các

5


đại biểu thực hiện chất vấn của mình đối với các thành viên của Chính phủ tại kỳ họp
hoặc giữa hai kỳ họp của Quốc hội; Giám sát đối với các văn bản của Chính phủ. Ngoài ra
hoạt động giám sát của Quốc hội còn do cơ quan của Quốc hội đảm nhiệm đó là Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban khác của Quốc hội.
Theo Hiến pháp 1992 hình thức giám sát quan trọng nhất của Quốc hội là trong các
kỳ họp của Quốc hội. Quốc hội xem xét, thảo luận và đánh giá báo cáo hoạt động của
Chính phủ tại kỳ họp, hàng năm Chính phủ phải báo cáo công tác của mình trước Quốc
hội ít nhất một năm một lần, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công
tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội về lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước
trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên thì trong thực tế thì các báo cáo của Chính phủ nội
dung vẫn còn chung chung, chưa nêu ra được vấn đề cụ thể, nguyên nhân cũng như cách
thức giải quyết. Các báo cáo còn chưa thật sự khách quan; chưa phản ánh, đánh giá hết
tình hình tham ô, tham nhũng, lãng phí…cũng như thực trạng cải cách hành chính hiện
nay khi mà tình trạng đơn thư khiếu nại tố cáo ngày càng gia tăng.
Hình thức giám sát thứ hai của Quốc hội với Chính phủ là thông qua vai trò của đại
biểu Quốc hội. Đó là một phương thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với

Chính phủ, tại kỳ họp Quốc hội xem xét việc trả lời chất vấn của Thủ tướng Chính phủ
hoặc các thành viên khác của Chính phủ. Tuy nhiên trong thực tế vấn còn những hạn chế:
Thứ nhất, trong các kỳ học không phải đại biểu nào cũng thực hiện chất vấn mà chỉ có
20% - 25% được sử dụng quyền. Thứ hai, thời gian để chất vấn và trả lời chất vấn thường
không đủ để giải trình hết những vấn đề mà cử tri và đại biểu quan tâm. Thứ ba,các đại
biểu Quốc hội chưa thực hiện đúng các quy định của pháp luật về hoạt động chất vấn… ví
dụ: khi các đại biểu không đồng ý với trả lời chất thì Quốc hội không thảo luận lại. Thứ
tư, các thành viên Chính phủ khi trả lời chất vẫn còn chung chung chưa đi thẳng vào trọng
tâm.
Hình thức giám sát thứ ba của Quốc hội đối với Chính phủ là giám sát đối với các
văn bản của Chính phủ. Quốc hội có quyền tối cao đối với nghị quyết, nghị định của
chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Quốc hội giám sát các văn bản
do Chính phủ ban hành. Tuy nhiên thực tế các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng
Chính phủ bị Quốc hội và cơ quan của Quốc hội phát hiện sai trái và bãi bỏ không nhiều

6


vì số lượng văn bản lớn, phạm vi rộng… còn nhiều văn bản thì vượt quá thẩm quyền, nội
dung chồng chéo, mâu thuẩn… mà chưa được phát hiện kịp thời.
Ngoài hoạt động của Quốc hội còn do các cơ quan Quốc hội đảm nhiệm đó là Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban khác của Quốc hội. Theo quy
định tại Luật tổ chức Quốc hội điều 23 và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội tại khoản
5, điều 7 thì xét thấy nếu cần thiết, Quốc hội thành lập Uỷ ban lâm thời để nghiên cứu,
thẩm tra hoặc điều tra một vấn để nhất định. Nhưng thực tế Quốc hội chưa thực hiện…
Bên cạnh đó vẫn còn những yếu kém xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Thứ nhất, phải
giám sát nhiều đối tượng, phạm vi quá rộng, không thấy rõ trọng tâm của việc giám sát
Chính phủ. Thứ hai, kỹ năng, nguồn lực, phương tiện hỗ trợ cho hoạt động giám sát còn
yếu và thiếu…Thứ ba, các đại biểu chủ yếu là kiêm nhiệm không đủ thời gian và kỹ năng
cần thiết để thực hiện giám để giám sát hiệu quả cao. Thứ tư, bộ máy giám sát chưa thực

sự phát huy hết khả năng… Thứ năm, nhiều cơ quan nhà nước chưa nghiêm túc thực hiện
pháp luật chưa coi trọng hoạt động giám sát của Quốc hội….
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của
Quốc hội đối với Chính phủ thì cần thực hiện một số giải pháp như sau:
Trước hết với hình thức giám sát tại các kỳ họp Quốc hội, cần phải nâng cao chất
lượng xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, nhất là báo cáo của Chính phủ về thực
hiện các nhiệm vụ hàng năm. Phải có quy định về yêu cầu nội dung, hình thức, thời gian
báo cáo, quy định về trách nhiệm đối với nội dung báo cáo khi trình Quốc hội.
Với hình thức giám sát thông qua hoạt động của Đại biểu Quốc hội, cần nâng cao
hơn nữa năng lực của các đại biểu Quốc hội, số đại biểu hoạt động chuyên trách. Đại biểu
phải có kỹ năng tiếp xúc cử tri, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng nhân dân, năng lực
tham gia tranh luận, thảo luận tại các kỳ họp và trình bày được ý kiến của mình tại Quốc
hội. Đặc biệt với hoạt động chất vấn, các đại biểu cần đặt câu hỏi cần ngắn gọn, súc tích,
rõ ý, nội dung câu hỏi chất lượng; yêu cầu người trả lời làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm,
giải pháp khắc phục. Với người bị chất vấn cần trả lời đi thẳng vào nội dung, tránh việc
đọc lại báo cáo; phải nhận thức được thiếu sót của mình, có biện pháp khắc phục.
Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 đã góp phần giúp cho hoạt
động giám sát của đại biểu Quốc hội đạt hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, nếu như thành lập
Ủy ban giám sát là cơ quan hoạt động chuyên trách trong lĩnh vực giám sát, thường xuyên

7


báo cáo hoạt động trước Quốc hội thì hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đối với các
cơ quan Nhà nước sẽ đạt hiệu quả tốt hơn.
Đặc biệt trong mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ thì cần tăng cường hoạt
động giám sát đối với lĩnh vực ngân sách.
4. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ trong việc quyết định những vấn đề
quan trọng của đất nước
Nhìn lại thực trạng trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước,

chúng ta cần xét đến trong hai hoạt động là đối nội và đối ngoại.
Về đối nội, đầu tiên trong lĩnh vực tài chính ngân sách, Điểm 4 Điều 84 Hiến pháp
năm 1992 ( sửa đổi 2001) quy định Quốc hội “quyết định dự toán ngân sách nhà nước và
phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước”, còn Chính phủ
có quyền “trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước, dự kiến phân bổ ngân sách trung
ương và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương, tổng quyết toán
ngân sách hàng năm” (Luật tổ chức Chính phủ năm 2001). Việc quy định cụ thể quyền về
ngân sách nhà nước đối với Quốc hội và Chính phủ giúp Quốc hội thực hiên hoạt động
quản lí, giám sát việc chi tiêu của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm đẩy mạnh
hoạt động chống tham nhũng.
Quốc hội còn quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, tôn giáo, dân tộc và những công trình quan trọng của quốc gia. Đặc
biệt đối với vấn đề về chính sách dân tộc cũng thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa Quốc
hội và Chính phủ. Chính phủ có mối quan hệ mật thiết với Hội đồng dân tộc của Quốc
hội, trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý
kiến của Hội đồng dân tộc, chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự các phiên họp
của Chính phủ khi bàn việc thực hiện các chính sách dân tộc.
Về đối ngoại, tại Điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định Quốc hội
“quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện
pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia”(Khoản 12), “quyết định
chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước
trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia
nhạp theo đề nghị của Chủ tịch nước”(Khoản 13). Trên cơ sở đó, Chính phủ thống nhất
quản lí công tác đối ngoại của nhà nước, ký kết, tham gia, phê duyệt các điều ước nhân
danh Chính phủ, chỉ đạo các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

8


KẾT LUẬN

Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ đã được xem xét, phân tích trên nhiều
tiêu chí một cách rõ ràng, rành mạch và logic thông qua những ý đã nêu trên. Vấn đề đặt
ra là sự nghiên cứu toàn diện cho mỗi bước đi, mỗi định hướng của Quốc hội cũng như
Chính phủ. Những hướng đi đúng đắn, tích cực của hai cơ quan này sẽ có ý nghĩa vô cùng
lớn đối với vận mệnh của quốc gia, đó là thúc đẩy sự phát triển một cách toàn diện nhất
của đất nước; cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân; đồng thời tạo nên mối quan hệ
gắn bó, thống nhất giữa các cơ quan chính quyền nhằm hình thành sự nhất quán trong sự
phát triển của đất nước. Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần có những
phương thức cũng như kế hoạch nhằm phát huy thế mạnh của hai cơ quan đứng đầu cũng
như cơ quan đại diện cho toàn thể nhân dân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.Công an
nhân dân, Hà Nội (2013).
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ sung
năm 2001.
3. Luật tổ chức Quốc hội năm 2001.
4. Luật tổ chức Chính phủ năm
5. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện hành – Thực trạng
và phương hướng hoàn thiện, Trần Thị Hiền, Hà Nội (2012).
6.
7.

9



×