Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

LVTS 2018 thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc xơ đăng, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.82 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HOÀNG NGUYÊN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN,
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
DÂN TỘC XƠ ĐĂNG, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI – 2018

1


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HOÀNG NGUYÊN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN,
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
DÂN TỘC XƠ ĐĂNG, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số

: 834.04.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS NGUYỄN THỊ SONG HÀ

HÀ NỘI – 2018

2


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, các quốc
gia trên thế giới trong đó có Việt Nam luôn tuân thủ định hướng lớn là: tôn trọng sự
đa dạng văn hóa, bảo vệ và tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng tinh thần
và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, trong đó có mục tiêu xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về bảo vệ, phát huy các giá
trị văn hóa. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ:
“Thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn,
phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Gắn kết chặt
chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn
hóa với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng
các giá trị văn hóa trong công chúng” [7] .
Trong suốt chiều dài lịch sử, văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số luôn
là di sản quý giá; góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng và thống nhất của nền
văn hóa Việt Nam. Trong bối cảnh cuộc sống hiện đại, việc giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa đồng bào các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ cấp thiết để phát triển bền
vững đất nước. Đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
giao lưu văn hóa với thế giới, cùng với việc mở cửa hội nhập quốc tế, bên cạnh

những mặt tích cực thì hàng ngày, hàng giờ văn hóa truyền thống đang bị tác động
mạnh mẽ bởi nhiều yếu tố. Do vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống là nhiệm vụ quan trọng vừa mang tính cấp bách, vừa mang ý nghĩa
chiến lược lâu dài.
Đối với tỉnh Quảng Nam, một địa phương có nền văn hóa khá phong phú, đa
dạng, là nơi có nhiều dân tộc thiểu số cư trú thì việc bảo tồn và phát huy giá trị văn

3


hóa truyền thống đang được các cấp ủy Đảng, Chính quyền đặc biệt quan tâm.
Xơ Đăng là một trong số các tộc người thiểu số đang sinh sống ở tỉnh Quảng
Nam, có dân số đứng thứ ba, sau người Kinh và Cơ Tu. Người Xơ Đăng có đời
sống văn hóa tinh thần phong phú, chứa đựng nhiều nhân văn và sâu sắc. Tuy nhiên,
cuộc sống hiện đại đã tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của các tộc người
nói chung, người Xơ Đăng nói riêng khiến cho nhiều giá trị văn hóa truyền thống
đặc trưng của tộc người này đã và đang có nhiều nguy cơ mai một, đánh mất bản
sắc riêng của mình. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu, lựa chọn để bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng trong bối cảnh đổi mới, hội nhập hiện
nay đang trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, phân tích các yếu tố tác động đến
chính sách bảo tồn, phát huy văn hóa của người Xơ Đăng, đề xuất các giải pháp đổi
mới, hoàn thiện chính sách, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Thực hiện chính sách bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam” làm
Luận văn cao học chuyên ngành Chính sách công của mình với mong muốn thực
hiện có hiệu quả hơn nữa chính sách bảo tồn, phát huy văn hóa của người Xơ Đăng
trong công cuộc xây dựng và phát triển địa phương hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số nói chung
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các tộc người ở Việt Nam từ lâu

đã được các nhà nghiên cứu quan tâm chú ý. Vì thế đã có nhiều công trình đã được
công bố liên quan đến vấn đề này. Chẳng hạn như tác giả Hoàng Vinh, năm 1997 đã
xuất bản cuốn sách “Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân
tộc”. Cuốn sách này có thể được coi là một công trình nghiên cứu mang tính lý luận
về giá trị văn hóa dân tộc khi tác giả đã đề cập khá chi tiết, cụ thể các quan niệm
của các tác giả nước ngoài và Việt Nam về giá trị văn hóa.
Đặc biệt, cuốn “Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt
Nam”, xuất bản năm 1996 của Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, nhóm tác giả phân
tích các giá trị văn hóa đặc sắc của các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam, qua đó

4


nhấn mạnh việc bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ cấp
thiết, có ý nghĩa chiến lược cần phải tiếp tục thực hiện thường xuyên và lâu dài.
Trên cơ sở dựa vào lý luận phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cuốn “Văn hóa các dân tộc Việt Nam
thống nhất mà đa dạng” của tác giả Nông Quốc Chấn, Huỳnh Khái Vinh (xuất bản
năm 2002, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia) là sự tiếp cận có hệ thống của các nhà
nghiên cứu trên nhiều góc độ: văn hóa, lịch sử và dân tộc học nhằm hướng tới sự
tương tác biện chứng giữa sự thống nhất và đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Bên cạnh đó, cuốn “Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người” của tác giả
Nguyễn Từ Chi (2003), Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội ấn hành lấy đối
tượng nghiên cứu là văn hóa và tộc người ở Việt Nam. Dưới góc nhìn văn hóa, bằng
cách tiếp cận nhiều chiều, với những cách lý giải khác nhau, tác giả giúp người đọc
hiểu thêm về những sự kiện, hiện tượng dân tộc học của Việt Nam. Cuốn sách có
thể được coi như là một trong những tác phẩm có cách tiếp cận sâu sắc và tỉ mỉ các
vấn đề tộc người từ nhiều góc độ.
Bài viết “Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa của các
dân tộc hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Huy được đăng trên Tạp chí Cộng Sản

số 20 năm 2003 đề cập khá chi tiết và cụ thể công tác bảo tồn phát huy bản sắc văn
hóa của các dân tộc ở nước ta thời gian qua.
Tác giả Đặng Nghiêm Vạn trong cuốn “Cộng đồng Quốc gia dân tộc Việt
Nam” xuất bản năm 2003 của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh đem đến người đọc một số vấn đề lý luận về cộng đồng quốc gia dân tộc và
cộng đồng tộc người; đồng thời giới thiệu sự tiến triển và đặc điểm của cộng đồng
quốc gia dân tộc Việt Nam và của các tộc người cấu thành.
Cuốn “Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam” (2006) và “Bảo
tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới
và hội nhập” (2010) của tác giả Ngô Đức Thịnh có thể xem là một đóng góp quan
trọng đối với sự nghiệp nghiên cứu và phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

5


Bên cạnh đó, còn có nhiều công trình nghiên cứu văn hóa tộc người và văn hóa
Việt Nam, văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. Những nghiên cứu trên góp
phần cung cấp cơ sở lý thuyết, thực tiễn trong quá trình thực hiện chính sách bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình Đổi mới và hội nhập.
2.2. Công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc Xơ đăng
Về văn hóa của người Xơ Đăng cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu
khoa học, hàng chục đầu sách, nhiều bài viết nghiên cứu ở những góc độ và phạm vi
khác nhau, chẳng hạn như Cuốn “Các dân tộc miền núi Nam Đông Dương” của
Bambo (tạp chí France - Asie số 40 - 50 năm 1950) được Nguyên Ngọc dịch ra
tiếng Việt vào năm 2003, trong đó có đề cập đến người Xơ Đăng. Hay như năm
1966, Bộ Quân lực Hoa Kỳ đã công bố cuốn sách “Những nhóm thiểu số ở Cộng
hòa miền Nam Việt Nam”. Cuốn sách này đã nghiên cứu tổng thể các tộc người sinh
sống ở Tây Nguyên, trong đó người Xơ Đăng đã được miêu tả nhiều ở khía cạnh về
lịch sử tộc người, quá trình định cư, chăm sóc sức khỏe, tổ chức xã hội, phong tục

tập quán, tôn giáo tín ngưỡng.
Năm 1970 cuốn sách Đồng bào các sắc tộc thiểu số ở Việt Nam của Nguyễn
Trắc Di và năm 1974 cuốn sách Cao nguyên miền Thượng của tác giả Toan Ánh Cửu Long Giang đã được ra mắt độc giả. Hai cuốn sách này cũng đã mô tả khá chi
tiết về địa bàn cư trú, lối sống và phong tục tập quán của người Xơ Đăng.
Tác giả Đặng Nghiêm Vạn cũng rất quan tâm nghiên cứu về người Xơ Đăng,
cụ thể trong các tác phẩm: Các dân tộc ở Gia Lai, Kon Tum (1981) và Người Xơ
Đăng ở Việt Nam (1998) … đã được tác giả miêu tả khá sinh động về nhiều vấn đề
trong văn hóa của tộc người Xơ Đăng, đặc biệt là giá trị văn hóa tinh thần, các nghi
lễ được người Xơ Đăng thực hành.
Cuốn sách Nghi lễ vòng đời của người Xơ Đăng của tác giả Phan Văn Hoàng
(2009), Lễ hội Tây Nguyên của Trần Phong (2008), Nhà rông Tây Nguyên của
Nguyễn Văn Kự, Lưu Hùng (2007), Văn hóa ẩm thực của người Xơ Đăng của
Nguyễn Thị Hòa (2016) đã khái quát khá đầy đủ và chi tiết về “Bức tranh văn hóa”
của tộc người Xơ Đăng ở Việt Nam. Đây được coi là nguồn tư liệu có giá trị giúp

6


cho người đọc, những nhà nghiên cứu văn hóa, quản lý văn hóa, các nhà nghiên cứu
dân tộc học, nhân học và chính quyền địa phương có được cái nhìn cụ thể đối với
tộc người này.
Gần đây, nhóm tác giả của Viện Dân tộc học đã công bố cuốn sách “Các dân
tộc ở Việt Nam – tập 3 – Nhóm ngôn ngữ Môn Khơ me” (Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, 2017) đã khái quát khá cụ thể các đặc điểm văn hóa, xã hội, kinh tế của
các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn Khơ me, trong đó có người Xơ Đăng. Trong
đó, nội dung các đặc trưng văn hóa truyền thống của người Xơ Đăng đã được nhóm
tác giả đề cập khá chi tiết. Cùng với đó là quá trình biến đổi, tiếp biến và giao thoa
văn hóa của tộc người cũng đang diễn ra mạnh mẽ để phù hợp với phát triển của xã
hội. Vì vậy cuốn sách có giá trị to lớn trong việc nhìn nhận các giá trị văn hóa mang
tính đặc trưng của tộc người này để từ đó lựa chọn và phát huy.

Không chỉ dừng lại ở nội dung sách, người Xơ Đăng trong những năm gần
đây còn được nghiên cứu sâu, dưới góc độ của luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và
nhiều bài báo đăng trên tạp chí chuyên ngành, chẳng hạn như: Nhà rông của người
Xơ Đăng ở huyện Đắk Tô, Tỉnh Kon Tum, của tác giả Rơ đăm Bích Ngọc, luận án
Tiến sĩ Văn hóa Dân gian, 2015; Nghi lễ cộng đồng của người Xơ Teng (một nhóm
người của tộc người Xơ Đăng) ở huyện Tumơrông, Tỉnh Kon Tum, của tác giả A
Tuấn, luận án Tiến sĩ Văn hóa Dân gian, 2015.
Tác giả Phạm Thị Trung với các bài viết: Tín ngưỡng linh hồn của người Xơ
Tăng (2010); Xu hướng biến đổi các yếu tố tác động biến đổi trong thực hành nghi
lễ truyền thống của người Xơ Teng xã Tumơrông, huyện Tumơrông, tỉnh Kon Tum,
(2017); Biến đổi trong thực hành các nghi lễ truyền thống của người Xơ Teng ở xã
Tumơrông, huyện Tumơrông, tỉnh Kon Tum (2017); Phát huy vai trò của phụ nữ
trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống (2016). Đây là
những tác phẩm, công trình nghiên cứu những đặc điểm chung về bản sắc văn hóa
của người dân tộc Xơ Đăng ở nước ta.

7


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ những nét đặc trưng giá trị văn hóa của dân tộc Xơ Đăng ở
tỉnh Quảng Nam; làm rõ các chính sách bảo tồn các giá trị văn hóa đã được thực
hiện đối với người Xơ Đăng, từ đó đề xuất một số giải pháp trong việc bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa phù hợp với thực tiễn phát triển của tộc người, của địa phương
trong đổi mới, hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách công trong lĩnh vực văn hóa làm
nền tảng lý luận để nghiên cứu chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam.

- Hệ thống hóa, làm rõ các đặc điểm và giá trị văn hóa truyền thống dân tộc
Xơ Đăng tỉnh Quảng Nam.
- Phân tích thực trạng văn hóa dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam; đánh giá
tình hình thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc
Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá
trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình thực hiện chính sách bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa truyền thống người Xơ Đăng các huyện miền núi tỉnh Quảng
Nam từ năm 2010 đến nay để qua đó nêu lên những vấn đề tích cực, hạn chế trong
quá trình thực hiện chính sách.
Thời điểm nghiên cứu được tác giả chọn mốc từ năm 2010 đến nay là vì:
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa chính thức có hiệu lực kể

8


từ ngày 01/01/2010. Thời gian này, tỉnh Quảng Nam đã tập trung nhiều nguồn lực
để thực hiện có hiệu quả việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đặc
biệt là văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thực hiện đạt mục tiêu Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XX, XXI đã đề ra.
Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống, đặc biệt là văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số khá rộng, trong khi
Quảng Nam là tỉnh có bề dày lịch sử lâu đời với những giá trị văn hóa phong phú,
đa dạng của nhiều tộc người khác nhau; do đó, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ,

luận văn xin được giới hạn nội dung nghiên cứu về tình hình thực hiện chính sách
bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam.
Để làm rõ được vấn đề nghiên cứu, tác giả luận văn tập trung khảo sát tư liệu ở các
địa bàn có dân tộc Xơ Đăng sinh sống, bao gồm 03 xã huyện Nam Trà My, 02 xã
huyện Phước Sơn, 02 xã huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn sẽ được tiếp cận theo hướng hệ thống hóa lý luận việc thực
hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ
Đăng, tỉnh Quảng Nam từ khâu hoạch định, xây dựng, thực thi đến đánh giá
chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống với sự tham gia của
các chủ thể chính sách.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập nguồn tài liệu thứ cấp: Tập hợp và phân tích các
nguồn tư liệu: Văn kiện, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, Bộ, Ngành ở
Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, sách báo, các báo cáo, tài
liệu thống kê của Ban, ngành, đoàn thể; tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp đến vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vùng đồng bào dân tộc
thiểu số ở Việt Nam nói chung, vùng tộc người Xơ Đăng tỉnh Quảng Nam nói riêng.
- Phương pháp điền dã, thực địa: Tiến hành đi cơ sở khảo sát thực tế tại
huyện Nam Trà My, Phước Sơn, Hiệp Đức tỉnh Quảng Nam nơi có người Xơ Đăng
sinh sống.

9


Để thực hiện luận văn này, tác giả đã thực hiện 04 cuộc điền dã tại thực địa,
mỗi đợt 5 ngày và tổ chức phỏng vấn sâu cán bộ cấp huyện, xã và người dân địa
phương với chủ đề là đời sống vật chất, tinh thần xã hội của người Xơ Đăng để có
được các tư liệu cần thiết, giúp tác giả luận văn có cái nhìn đúng đắn, khách quan về

quá trình thực hiện chính sách tại địa phương.
- Phương pháp phân tích: Luận văn sẽ phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành chính
sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở lý thuyết về thực hiện chính sách công, Luận văn sẽ nghiên cứu,
nêu một số quan điểm, định hướng và đề xuất các giải pháp triển khai thực hiện
hiệu quả chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ
Đăng, tỉnh Quảng Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các Ban, ngành có liên
quan trong quá trình tổ chức thực hiện cũng như hoạch định chính sách bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa của Việt Nam
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc Xơ Đăng tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Một số quan điểm và giải pháp tăng cường thực hiện Chính sách
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng tỉnh Quảng Nam.

10


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN, PHÁT
HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Giá trị văn hóa
Giá trị văn hoá được hiểu theo những ý nghĩa sau :
- Giá trị cũng như tập quán, chuẩn mực, tri thức... đều là sản phẩm của quá
trình tư duy, sản xuất tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn hoá.
Giá trị, giá trị văn hoá là một hình thái của đời sống tinh thần, nó phản ánh và kết
tinh đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của con người.
- Giá trị văn hoá do con người trong mỗi xã hội sáng tạo ra trong quá trình lịch
sử, nhưng một khi hệ giá trị văn hoá đã hình thành thì nó lại có vai trò định
hướng cho các mục tiêu, phương thức và hành động của con người trong các xã hội
ấy. Cũng như văn hoá, giá trị được sản sinh từ các mối quan hệ con người với tự
nhiên, với xã hội.
- Giá trị văn hoá của mỗi cộng đồng (tộc người, quốc gia...) bao giờ cũng tạo
nên một hệ thống, với ý nghĩa là các giá trị ấy nảy sinh, tồn tại trong sự liên hệ, tác
động hữu cơ với nhau. Hệ giá trị mang tính chất tương đối. Để đánh giá tính giá trị
hay phi giá trị, giá trị cao hay thấp thì phải đặt nó trong toạ độ về mặt không gian,
thời gian và chủ thể văn hoá
1.1.2. Giá trị văn hóa truyền thống
Trong quá trình hình thành và phát triển mình, mỗi dân tộc đều sáng tạo ra nền
văn hóa, trong đó có các giá trị văn hóa. Các giá trị văn hóa này được lưu truyền
trong xã hội qua các thời kỳ lịch sử và trở thành các giá trị văn hóa truyền thống. Giá
trị văn hóa truyền thống chính là những tư tưởng, biểu tượng, giá trị và chuẩn mực xã
hội hóa, những tác phẩm văn hóa được cộng đồng tin tưởng và mong muốn gìn giữ,
truyền đạt và noi theo.

11


Nói đến những giá trị văn hóa truyền thống là nói đến những giá trị tốt đẹp,
tiêu biểu cho một nền văn hóa được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Do đó, nói đến những giá trị văn hóa truyền thống cũng là nói đến những giá trị

văn hóa được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước của mỗi
dân tộc, nó có tính “di truyền xã hội”.
Giá trị văn hóa truyền thống dân tộc không phải là cái có sẵn từ khi dân tộc
hình thành mà nó được các thế hệ nối tiếp nhau làm nên. Các giá trị này biến đổi tùy
điều kiện tác động đến nó. Nhưng nếu giá trị văn hóa truyền thống biến đổi cơ bản về
chất thì nó sẽ không còn là truyền thống. Nói đến giá trị văn hóa là nói đến là nói đến
cái lâu dài, trải qua nhiều thời gian thử thách mà cốt lõi bản chất của nó luôn được
giữ vững. Giá trị văn hóa truyền thống là những giá trị ổn định, tốt đẹp, tiêu biểu cho
dân tộc, tạo nên bản sắc cho dân tộc đó. Chính vì thế, giá trị văn hóa truyền thống
luôn có tính bền vững, trở thành những nguyên lý đạo đức lớn để dân tộc đó phải dựa
vào để liên kết xã hội, tạo nên sức mạnh nhằm bảo vệ và xây dựng đất nước vì sự tiến
bộ của con người và xã hội.
1.1.3. Bảo tồn và phát huy
Có thể hiểu bảo tồn là các nỗ lực nhằm bảo vệ và gìn giữ sự tồn tại của di sản
theo dạng thức vốn có của nó. Hiện nay, trên thế giới có 02 quan điểm về bảo tồn
là: Bảo tồn nguyên vẹn và bảo tồn trên cơ sở kế thừa.
Bảo tồn nguyên vẹn có nghĩa là những sản phẩm của quá khứ nên được bảo
vệ một cách nguyên vẹn, như nó vốn có, nên phục hồi nguyên gốc các di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể.
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa có thể được hiểu là xem di sản như một ngành
công nghiệp, do đó để quản lý di sản thì chúng ta cần phải có cách thức quản lý
giống như quản lý của một ngành công nghiệp văn hóa.
Phát huy có nghĩa là cái hay, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm.
Cũng còn có ý nghĩa là những hành động nhằm đưa di sản văn hóa vào trong thực
tiễn xã hội, phát triển theo chiều hướng tiến bộ, mang lại những lợi ích vật chất và

12


tinh thần cho con người, là nguồn nội lực, tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát triển

của xã hội, thể hiện tính mục tiêu của văn hóa đối với sự phát triển xã hội.
Có thể nhận xét rằng, giữa bảo tồn và phát huy luôn có sự tương hỗ lẫn nhau
và là hai mặt của hoạt động. Thông thường bảo tồn đi kèm với khai thác, phát huy giá
trị của văn hóa, đặc biệt là các giá trị văn hóa truyền thống trong đời sống xã hội.
Phát huy có nghĩa là đưa các giá trị di sản để đưa giá trị văn hóa đến cộng đồng, tạo
mọi điều kiện để cộng đồng phát triển mạnh mẽ hơn nữa trên tất cả các mặt kinh tế xã hội. Nhờ đó, thực hiện tốt hơn công tác bảo tồn di sản văn hóa. Để đảm bảo sự
phát triển bền vững thì quan trọng nhất là giữa bảo tồn và phát huy cần tạo ra sự cân
bằng hợp lý.
1.1.4. Bản sắc văn hóa
Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ "bản sắc" thông thường dùng để chỉ tính
chất, màu sắc riêng tạo thành phẩm chất đặc biệt của một sự vật, tức là nói tới sắc
thái, đặc tính, đặc thù riêng của sự vật đó [27, tr.223] . Trong thực tế, nói đến "bản
sắc" nghĩa là nói đến cái riêng, cái rất riêng của một sự vật để phân biệt sự vật đó
với các sự vật khác trong thế giới khách quan.
Bản sắc văn hóa là đặc trưng riêng, là những cái cốt lõi của một cộng đồng văn
hóa trong quá trình lịch sử tồn tại và phát triển của mình, nhằm phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác. Bản sắc văn hóa tộc người được coi là những nét đẹp tinh hoa, đặc
trưng riêng được chắt lọc từ trong cuộc sống của cộng đồng, được cộng đồng thừa
nhận, là sự kết nối, gắn bó giữa con người với nhau, là tài sản vô giá của cộng đồng
dân tộc, tộc người tạo nên sức mạnh tinh thần mang tính đặc thù khác với tộc người
khác [11, tr.23] .
Bản sắc văn hoá là yếu tố mang sức mạnh tinh thần dân tộc, giúp dân tộc
vượt qua những thử thách của lịch sử, bởi vì “bản sắc dân tộc là tổng thể những
phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc sức mạnh tiềm tàng và sức sáng
tạo của một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc đó, giúp cho dân
tộc đó giữ vững được tính nhất quán, tính thống nhất và tính duy nhất, so với bản

13



thân mình trong quá trình phát triển” [1, tr.77-78] . Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc đã và đang được nhiều quốc gia dân tộc coi trọng.
1.1.5. Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:
"Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính
sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào
đó. Nội dung, bản chất và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của
quan điểm, đường lối, chủ trương, nhiệm vụ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa…" [26, tr.475] .
Các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước ban hành
những chính sách nhằm giải quyết những vấn đề mang tính cộng đồng thì được
gọi là chính sách công. Khoa học chính sách nghiên cứu nhiều loại chính sách
khác nhau, nhưng chú trọng nghiên cứu các chính sách công nhằm thực hiện đạt
mục tiêu góp phần nâng cao hiệu lực của chính sách và khẳng định hiệu quả
quản lí Nhà nước của chính sách đó.
Là một bộ phận của chính sách công, chính sách văn hóa được UNESCO định
nghĩa như sau: “Chính sách văn hóa là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động quyết
định các thực hành, các phương pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách
Nhà nước dùng làm cơ sở cho các hoạt động văn hóa” [18, tr.25] .
Chính sách văn hóa là một phạm trù rộng, bao gồm nhiều bộ phận chính sách
khác nhau gộp thành. Trong đó, chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa đóng vai
trò quan trọng, là tập hợp nhiều quyết định chính trị có nội dung liên quan nhằm lựa
chọn, đề xuất các mục tiêu, công cụ và giải pháp để thực hiện tốt việc bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa.
Chính sánh bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa được thực hiện trên cơ sở các chủ
trương, đường lối Đảng và Nhà nước, từ Hiến pháp đến văn kiện các kỳ Đại hội
Đảng, được cụ thể qua Nghị quyết các Hội nghị Trung ương Đảng, qua việc hoạch
định chiến lược phát triển văn hóa qua các thời kỳ, khi Luật Di sản văn hóa được

14



thông qua và các Thông tư, Nghị định hướng dẫn Luật di sản văn hóa được các cơ
quan có thẩm quyền ban hành.
1.1.6. Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
Là một khâu hợp thành chu trình chính sách, thực hiện chính sách bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa có vị trí rất quan trọng. Chu trình chính sách nếu khuyết
thiếu công đoạn này thì sẽ bị đứt gãy, không thể tồn tại vì thực hiện chính sách có
vai trò trung tâm, kết nối các bước trong chu trình chính sách thành một hệ thống
hoàn chỉnh.
Tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa để từng bước
thực hiện các mục tiêu chính sách và mục tiêu chung. Mục tiêu của chính sách bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực trong đời
sống xã hội. Thực tế, trong quá trình thực hiện chính sách này cho thấy muốn đạt
được mục tiêu của chính sách thì phải thông qua việc thực hiện chính sách, và các
mục tiêu của chính sách thì cần phải có quan hệ với nhau và ảnh hưởng đến các
mục tiêu chung.
Thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa còn để khẳng định
được tính đúng đắn, tính hợp lý của chính sách. Chính sách này khi triển khai rộng
rãi sẽ tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, và khi chính sách được xã hội chấp
nhận thì cho thấy tính xác thực, tính đúng đắn của chính sách.
Như chúng ta đều biết chính sách là do sự góp sức của một tập thể và do tập
thể đó hoạch định mà nên. Tuy vậy trong quá trình hoạch định chính sách chúng ta
cũng không tránh khỏi những ý kiến, những góp ý mang tính chất chủ quan, điều đó
sẽ làm ảnh hưởng tới hiệu quả chung trong quá trình thực hiện chính sách. Do vậy,
khi chính sách được thực thi thì những người hoạch định chính sách cần nghiên
cứu, xem xét và rút kinh nghiệm. Trên cơ sở đó, thực hiện chỉnh sửa để chính sách
ngày một đúng đắn, hoàn thiện hơn.
1.2. Vai trò của chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
Chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa nhằm đề ra các hướng đi, giải

pháp kết hợp hài hòa giữa chính sách phát triển văn hóa với các chính sách phát

15


triển kinh tế, xã hội, tài chính và du lịch. Bên cạnh đó, chính sách này còn có vai trò
quan trọng trong việc định hướng công tác quản lý, bảo tồn và gìn giữ các loại hình
văn hóa truyền thống, các lễ hội dân gian. Đây là một trong những chính sách quan
trọng có sự tác động mạnh mẽ, tích cực đến sự phát triển văn hóa nói riêng và phát
triển kinh tế - xã hội nói chung
Chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa chú trọng đến việc đãi ngộ xứng
đáng cho người làm công tác nghệ thuật, nghiên cứu, sưu tầm các giá trị văn hóa
truyền thống, phát huy nội lực sẵn có, đồng thời thu hút những tài năng trẻ trong việc
đào tạo nguồn lực hoạt động văn hóa nghệ thuật sau này. Chính sách này còn đóng
vai trò quan trọng trong việc mở rộng giao lưu văn hóa, tiếp nhận, chọn lọc các nền
văn hóa bên ngoài, góp phần tạo nên một nền văn hóa đa dạng, phong phú, “hòa
nhập” nhưng không “hòa tan”.
Như vậy, chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa có vai trò hết sức quan
trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện đạt mục tiêu
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn
diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ và
tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ, thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
1.3. Hệ thống chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách bảo tồn, phát huy giá
trị văn hóa
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Ngay sau khi giành được Chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến giữ
gìn di sản văn hóa dân tộc. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và công
bố Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam.

Trong thời kỳ Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có sự quan tâm đặc biệt đến
việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Hiến pháp
Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Điều 30 đã nhấn mạnh: Nhà nước và
xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế

16


thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy
mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn
hoá. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hoá phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín,
hủ tục.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) bao quát ở tầm chiến lược những vấn đề rất cơ bản của sự nghiệp phát triển văn
hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong tư
duy lý luận về văn hóa của Đảng, đề cập cụ thể đến những nhiệm vụ và phương
hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam.
Luật Di sản văn hóa ra đời năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là cơ sở
pháp lý cao nhất nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam. Để cụ thể
hóa thực hiện Luật Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nghiên cứu,
tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010, trong đó
quy định chi tiết thi hành Luật di sản văn hóa được sửa đổi bổ sung năm 2009.
Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành
Nghị quyết số 33-NQ/TƯ ngày 09/6/2014 “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã đề ra những quan
điểm, định hướng chiến lược của Đảng ta về văn hóa nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước trong thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế.
Trong các kỳ Đại hội Đảng lần thứ VI, VII. VIII, IX, XI đến Đại hội XII gần

đây nhất, nội dung xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn với
việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa ngày càng được Đảng và Nhà nước chú
trọng hơn bao giờ hết. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (Năm 2016) của
Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Vấn đề bảo
tồn, phát huy cácgiá trị văn hóa truyền thống dân tộc, đồng thời với đó là sáng tạo ra
các giá trị mới luôn được chú ý quan tâm hàng đầu. Văn kiện Đại hội Đảng khẳng
định: Tập trung huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá

17


trị văn hóa truyền thống dân tộc. Khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc. Các giải pháp được nêu rõ: xây
dựng cơ chế giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy Di sản văn hóa với phát
triển kinh tế xã hội. Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, chăm lo đội ngũ văn
nghệ sĩ và các Hội văn học, nghệ thuật [7] .
1.3.2. Chính sách của Nhà nước về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống của các dân tộc thiểu số
Trong bối cảnh Đổi mới và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay, nguy
cơ đồng hóa, mai một, thậm chí là mất bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc
thiểu số hiện hữu hơn bao giờ hết. Nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số, Chính phủ đã ban hành các chính sách
về bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số, cụ thể như: Luật Di sản văn hóa năm
2001 (sửa đổi bổ sung năm 2009); Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” và nhiều quy định cụ thể nhằm
bảo tồn, phát huy tốt hơn nữa các giá trị văn hóa, ghi nhận, đề cao, tôn vinh những
nét đẹp văn hóa truyền thống, quan tâm đến công tác đầu tư để công tác bảo tồn và
phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thực hiện có hiệu quả hơn.
Cùng với các chính sách trên, trong những năm gần đây, các chính sách bảo

tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số của Chính phủ được thông qua nhiều
đề án phát triển chung hay cho từng vùng, từng dân tộc cụ thể. Đặc biệt, trong
Chương trình mục tiêu quốc gia thực hiện từ năm 1995 đến nay của Đảng và Nhà
nước ta đã khẳng định ba mục tiêu trong số các mục tiêu của Chương trình là đầu tư
nghiên cứu điều tra, tư liệu hóa di sản văn hóa phi vật thể, đầu tư bảo tồn các làng
bản và phục hồi lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số.
Mục tiêu của chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc thiểu số nói
chung và văn hóa phi vật thể của dân tộc thiểu số nói riêng đã xác định rõ và đầy đủ
trong Quyết định 124/2003 của Thủ tướng Chính phủ: Bảo tồn và kế thừa có chọn
lọc, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống, xây dựng và phát triển những

18


giá trị mới về văn hóa, nghệ thuật của dân tộc thiểu số, phát hiện và bồi dưỡng đội
ngũ những người sáng tác văn học, nghệ thuật là người các dân tộc thiểu số; tổ chức
điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hóa nghệ thuật, bảo tồn và
phát huy các nghề thủ công truyền thống; phát triển các hoạt động văn hóa, nghệ
thuật lành mạnh; xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, mở rộng mạng
lưới thông tin ở vùng dân tộc thiểu số, góp phần nâng cao dân trí, xóa bỏ tập tục lạc
hậu, góp phần phát triển du lịch, xóa đói giảm nghèo.
Trong Chương trình mục tiêu Quốc gia 2001-2005, vấn đề “Bảo tồn di sản
văn hóa tiêu biểu và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở” đã được đặt ra, với tổng
kinh phí 1.600 tỷ đồng đã sưu tầm, khai thác và lưu giữ, in ấn, giới thiệu rộng rãi
các di sản đặc sắc của văn hóa các tộc người ở Việt Nam với mục đích bảo lưu và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của tộc người trong bối cảnh hội
nhập và toàn cầu hóa. Trong những năm gần đây đã có những đánh giá sâu sắc hơn,
tôn trọng và bảo vệ các giá trị văn hóa của tộc người thiểu số được thể hiện qua việc
Nhà nước đầu tư nhiều dự án điều tra, bảo quản và biên dịch sử thi Tây Nguyên từ
năm 2001-2007, sưu tầm và công bố hàng trăm tác phẩm sử thi của các tộc người

thiểu số ở Tây Nguyên. Cùng với đó, Nhà nước đã tổ chức sưu tầm, bảo tồn và khai
thác di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên rộng khắp ở 5 tỉnh Tây Nguyên và các
vùng phụ cận, đề xuất và được UNESCO công nhận văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên là di sản văn hóa của nhân loại.
Trong nhiều năm qua, Chính phủ từng bước cụ thể hóa các chủ trương của
Đảng qua các kỳ Đại hội thành các chính sách ưu tiên phát triển văn hóa vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Chỉ thị số 39/1998/CT-TTg ngày 03/12/199 của Thủ tướng
Chính phủ về đẩy mạnh công tác văn hóa – thông tin ở miền núi và vùng đồng bào
dân tộc thiểu số đã nêu rõ: “Coi trọng, bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống
và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các
dân tộc, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, mở rộng mạng lưới thông
tin ở vùng dân tộc thiểu số”; Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06/5/2009 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020;
Chỉ thị số 1971/CT-TTg ngày 27/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường

19


công tác dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh
phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “xây dựng nếp sống
văn minh trong vùng dân tộc và miền núi”; Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Thủ
tướng Chính phủ về công tác dân tộc đã quan tâm đến việc “Hỗ trợ việc sưu tầm,
nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam”.
Chủ trương bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của các tộc
người thiểu số được thể hiện rõ nét trong quan điểm của Đảng và Nhà nước. Các
văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, XI, XII về xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đàn bản sắc dân tộc là cơ sở quan trọng trong định
hướng chính sách quản lý nhà nước về văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số.

1.4. Các bước thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống
Việc thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống trải
qua 07 bước sau:
- Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa truyền thống
- Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa truyền thống
- Bước 3: Phân công, phối hợp thực hiện chính sách chính sách bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa truyền thống
- Bước 4: Duy trì chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
- Bước 5: Điều chỉnh chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống
- Bước 6: Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa truyền thống
- Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa truyền thống

20


1.5. Các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống
1.5.1. Tính chất của vấn đề chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống
Tính chất của vấn đề chính sách là yếu tố khách quan có ảnh hưởng trực tiếp
đến việc tổ chức thực thi chính sách nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn. Việc
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, đặc biệt trong xu thế đẩy mạnh
hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa đang là vấn đề rất bức thiết, đòi hỏi
các cấp, các ngành phải quan tâm đặc biệt.

1.5.2. Môi trường thực thi chính sách bảo tồn và phát triển di sản văn hóa
truyền thống
Với chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống thì môi trường
ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách chính là các hoạt động kinh tế, chính trị,
tình hình phát triển của xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường tự nhiên và quốc
tế... Tất cả những môi trường này đều có những tác động tích cực và tiêu cực đến
việc thực hiện chính sách.
1.5.3. Mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện chính sách bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa truyền thống
Mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện chính sách thể hiện sự thống nhất
hay không về lợi ích của các đối tượng trong quá trình thực hiện mục tiêu chính
sách. Nếu lợi ích của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách không mâu thuẫn
với nhau và với đối tượng thụ hưởng thì chính sách được triển khai thực hiện dễ
dàng và ngược lại, lợi ích của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách mâu
thuẫn với lợi ích của đối tượng thụ hưởng thì thực hiện chính sách sẽ khó khăn,
thậm chí còn thất bại.
1.5.4. Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách
Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách được hiểu là thực lực và tiềm
năng mà mỗi nhóm có được trong mối quan hệ so sánh với các nhóm đối tượng
khác. Tiềm lực của nhóm lợi ích được thể hiện trên các phương diện chính trị, xã
hội, kinh tế v.v... về cả quy mô và trình độ.
21


1.5.5. Đặc tính của đối tượng thực hiện chính sách
Đặc tính của đối tượng thực hiện chính sách công nói chung, chính sách bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống nói riêng là những đặc điểm, tính chất đặc
trưng mà các đối tượng có được từ bản tính cố hữu hoặc do môi trường sống tạo nên
trong quá trình vận động mang tính lịch sử. Những đặc tính này thường liên quan
đến tính tự giác, kỷ luật, tính sáng tạo, tính truyền thống, lòng quyết tâm… Đặc tính

này gắn liền với mỗi đối tượng thực hiện chính sách nên các chủ thể tổ chức điều
hành cần biết cách khơi gợi hay kiềm chế nó để có được kết quả tốt nhất cho quá
trình tổ chức thực hiện chính sách.
1.5.6. Thực hiện đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực hiện
chính sách
Mỗi bước trong quy trình đều có vị trí, ý nghĩa và tác động nhất định đối với
quá trình thực hiện chính sách. Trên thực tế, quy trình thực hiện chính sách được bắt
đầu từ việc tuyên truyền vận động về chính sách và thực hiện chính sách. Phổ biến,
tuyên truyền vận động thực hiện tốt sẽ củng cố thêm lòng tin của người dân vào
chính sách của nhà nước, tăng cường tính tự giác thực hiện chính sách của đối
tượng thụ hưởng và quyết tâm chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
tham gia tổ chức thực hiện chính sách. Phân công phối hợp giữa các cơ quan, tổ
chức ở Trung ương, của các cấp chính quyền địa phương cũng có vai trò quan trọng
trong tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống ....
1.5.7. Năng lực thực hiện chính sách của đội ngũ cán bộ công chức
Với chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống thì năng lực
thực hiện chính sách của cán bộ công chức là kiến thức, kỹ năng và thái độ của họ
trong thực hiện. Để có thể thực hiện chính sách một cách hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ
cán bộ công chức thực hiện chính sách phải nắm vững kiến thức chuyên môn, am
hiểu mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mô, tầm quan trọng của
chính sách đồng thời phải có kỹ năng tác nghiệp, phổ biến tuyên truyền chính sách,
có tinh thần, thái độ trách nhiệm trong thực hiện chính sách.

22


1.5.8. Các điều kiện vật chất để thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa truyền thống
Để quản lý được các hoạt động liên quan đến việc thực hiện chính sách nhà
nước phải chú trọng đầu tư nguồn lực vật chất cả về số lượng và chất lượng. Các

điều kiện vật chất ở đây được hiểu là hệ thống trang thiết bị, phòng nghiên cứu,
phòng thí nghiệm, nguồn tài chính phục vụ cho việc nghiên cứu. Đồng thời, nó cũng
là chế độ tiền lương, thưởng, các ưu đãi đối với các chuyên gia nghiên cứu và đội
ngũ cán bộ công chức trực tiếp thực hiện chính sách. Những điều kiện về vật chất
có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thực hiện chính sách, nó giúp cho thực hiện
chính sách được thuận tiện nhanh chóng, giúp cho các nhà nghiên cứu có thể triển
khai những ý tưởng sáng tạo của mình thành hiện thực, giúp cho đội ngũ cán bộ
công chức thực hiện chính sách cũng như nhà nghiên cứu yên tâm làm việc, tâm
huyết với nhiệm vụ được giao góp phần đạt được mục tiêu đã đề ra của chính sách.
1.5.9. Nhận thức của cộng đồng chủ thể văn hóa truyền thống
Trình độ hiểu biết và nhận thức của người dân có ảnh hưởng trực tiếp đến
việc thực thi chính sách. Trình độ hiểu biết và nhận thức của người dân mà cao thì
công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách của Đảng và Nhà nước tới người dân
được thực hiện một cách nhanh chóng và hiệu quả. Từ đó, người dân trở thành
một chủ thể thực hiện chính sách một cách chủ động, tự nguyện; qua đó nâng cao
hiệu quả thực thi các mục tiêu, giải pháp của chính sách.
1.6. Ý nghĩa và yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
1.6.1. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa truyền thống
- Biến chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống thành hiện
thực: Chính sách là công cụ để thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng. Do
đó, thực hiện chính sách chính là quá trình biến những ý đồ, định hướng từ các loại
văn bản hành chính thành các hành động cụ thể nhằm thực hiện đạt được các mục
tiêu đã đề ra. Thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
chính là việc chuyển những ý tưởng, những định hướng của Đảng và Nhà nước thành

23



những hành động, những việc làm, những giải pháp cụ thể. Trên cơ sở đó có các
phương pháp hợp lý để thực hiện tốt việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa đó.
- Từng bước thực hiện đạt các mục tiêu chính sách và mục tiêu chung: Mục
tiêu chính sách có liên quan đến nhiều hoạt động trên nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Do đó, để cùng một lúc giải quyết được hết các vấn đề có liên
quan là rất khó. Mục tiêu chính sách chỉ có thể đạt được bằng cách thực hiện đồng
thời các mục tiêu chính sách có mối quan hệ quan hệ chặt chẽ với nhau, co sự ảnh
hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến mục tiêu chung.
- Khẳng định tính đúng đắn của chính sách: Chính sách chỉ thật sự có hiệu lực,
hiệu quả khi được toàn xã hội thừa nhận và thực hiện, đặc biệt là sự thừa nhận của
các đối tượng được thụ hưởng từ chính sách.
- Giúp cho chính sách ngày càng hoàn chỉnh: Thực hiện chính sách bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa truyền thống là căn cứ xác thực nhất để có thể đánh giá tính
hiệu quả, phù hợp và các tác động của chính sách trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển
của xã hội. Thông qua thực hiện chính sách ta có thể thấy rõ được những ưu điểm, hạn
chế của chính sách hiện hành. Từ đó có những điều chỉnh để hoàn thiện chính sách
nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc quản lý và phát triển đất nước.
1.6.2. Những yêu cầu cơ bản trong tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa truyền thống
- Thực hiện đúng mục tiêu chính sách: Mỗi chính sách đều hướng đến mục
tiêu nhất định. Mục tiêu của chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống là giữ gìn sự nguyên vẹn và đầy đủ của các giá trị văn hóa của dân tộc, không
để mai một, tổn thất hoặc bị huỷ hoại. Việc thực hiện chính sách này sẽ đóng vai trò
quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, trình độ dân trí, góp phần giáo dục truyền
thống lịch sử, văn hóa cho thế hệ trẻ; giới thiệu tinh hoa, nét đẹp, bản sắc, tinh túy
văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với bạn bè quốc tế. Nếu mục tiêu này
không được thực hiện coi như chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống không thành công, thực chất là không được thực hiện.
- Đảm bảo tính hệ thống trong thực hiện chính sách: Hệ thống thực hiện


24


chính sách được quy định trong chủ trương của Đảng, các văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn triển khai thực hiện của Nhà nước và bắt buộc mọi công chức khi triển khai
thực hiện chính sách phải nghiêm chỉnh tuân theo, điều này được thể hiện rõ nhất ở
sự phân cấp thực hiện giữa các cơ quan đơn vị với nhau, giữa cơ quan cấp trên và
cơ quan cấp dưới, ở sự phối hợp trong công tác.
Thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cần phải bảo đảm tính
hệ thống, nghĩa là phải thực hiện đồng bộ và thống nhất các nhiệm vụ, các bước
trong tổ chức thực hiện chính sách nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
- Đảm bảo tính pháp lý, khoa học và hợp lý trong tổ chức thực hiện chính
sách: Thực hiện chính sách theo đúng pháp luật, đúng nội dung văn bản quy định,
đồng thời phải thực hiện một cách khoa học, hợp lý để chính sách phát huy hiệu quả
của nó. Trong tổ chức thực hiện chính sách nếu đảm bảo yêu cầu về tính pháp lý,
khoa học và hợp lý sẽ giúp nâng cao hiệu lực tổ chức thực hiện chính sách của các cơ
quan quản lý nhà nước, đồng thời còn củng cố niềm tin của các đối tượng được thụ
hưởng chính sách đối với Nhà nước.
- Đảm bảo lợi ích thực sự cho đối tượng thụ hưởng chính sách: Trong xã hội
thường tồn tại nhiều nhóm lợi ích và nhà nước là người bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá
nhân và tổ chức. Thông thường, nhà nước thường sử dụng chính sách công nhằm bảo
đảm về lợi ích cho các đối tượng được thụ hưởng chính sách trong xã hội. Điều này sẽ
góp phần củng cố sự tin tưởng của người dân vào các chính sách Nhà nước thông qua
chính sách công. Có thể nói, để cho các đối tượng thụ hưởng chính sách có được những
lợi ích thaath sự là yêu cầu quan trọng trong quá trình thực thi chính sách.
Tiểu kết Chương 1
Tại Chương 1, trên cơ sở lý thuyết về chính sách công đã được học, luận văn
đã tổng hợp những vấn đề lý luận chung về thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam, làm rõ những khái niệm về dân tộc, tộc
người, di sản văn hóa, giá trị văn hóa, văn hóa tộc người, vấn đề bảo tồn và phát


25


×