Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tìm hiểu pháp luật điều chỉnh hoạt động của cá nhân thực hiện hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh, bản th

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.68 KB, 16 trang )

Quan hệ kinh tế là quan hệ xảy ra phổ biến trong đời sống xã hội. Qua tiến trình
lịch sử, các quan hệ kinh tế dần phát triển và vận động theo quy luật xã hội, tạo nên tính
đa dạng và phức tạp của các quan hệ này. Từ khi nhà nước xuất hiện, nhà nước đã sử
dụng các thiết chế pháp lý để điều chỉnh những quan hệ này. Các hoạt động kinh tế
diễn ra sôi động, một mặt, kế thừa những yếu tố văn hóa truyền thống, mặt khác tiếp
thu các hình thức kinh doanh mới theo quá trình hội nhập quốc tế. Bên cạnh các chủ thể
khi tham gia hoạt động thương mại phải đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp
luật thì còn có những chủ thể không phải đăng kí kinh doanh mà vẫn được phép hoạt
động buôn bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Bài học kì này tôi xin phân tích đề tài:
“Tìm hiểu pháp luật điều chỉnh hoạt động của cá nhân thực hiện hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh”.
1. Khái niệm cá nhân thực hiện hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh
1.1. Định nghĩa
Theo khoản 1 Điều 3 Nghị định số 39/2007/NĐ- CP quy định chi tiết về cá nhân
oạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng kí kinh doanh thì cá nhân
thực hiện hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng kí
kinh doanh (CNHĐTM) là “cá nhân tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc
toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là
thương nhân theo quy định của Luật Thương mại”.
1.2. Đặc điểm của CNHĐTM
Thứ nhất, về điều kiện chủ thể
CNHĐTM là một hoặc một vài người thực hiện hoạt động buôn bán hàng hóa
hoặc cung ứng dịch vụ. Pháp luật Thương mại không có quy định nào liên quan tới điều
1


kiện về chủ thể để các chủ thể này được phép hoạt động thương mại thường xuyên, độc
lập không phải đăng kí kinh doanh. “Tuy nhiên, theo pháp luật dân sự và pháp luật bảo


vệ trẻ em thì chủ thể hoạt động kinh doanh này bắt buộc phải từ đủ 6 tuổi trở lên và
không hạn chế độ tuổi tối đa, phải có đủ nhận thức để tham gia hoạt động buôn bán
hàng hóa và cung ứng dịch vụ” [1]. Tuy nhiên, mặc dù pháp luật thương mại không
quy định cụ thể và rõ ràng, song những điều kiện có thể được xem xét dưới góc độ
pháp luật chuyên ngành khác mà CNHĐTM chịu sự điều chỉnh. Chẳng hạn, những cá
nhân bị mắc bệnh truyền nhiễm sẽ không được phép tham gia hoạt động kinh doanh các
mặt hàng về thực phẩm ăn uống; những cá nhân không có bằng lái xe mô tô, xe gắn
máy sẽ không được hoạt động kinh doanh vận chuyển bằng xe mô tô, xe gắn máy,…
Các CNHĐTM này thông thường không bắt buộc phải có những yêu cầu về trình độ
chuyên môn, giới tính, vốn cũng như quốc tịch.
Thứ hai, về địa điểm kinh doanh
Khác với các chủ thể đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật doanh
nghiệp và thương mại, ví dụ như loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, các CNHĐTM
không phải đăng kí kinh doanh, do đó họ sẽ không bị bắt buộc phải có trụ sở chính để
thực hiện các hoạt động mua bán hàng hóa cũng như cung ứng dịch vụ. Phần lớn, địa
điểm kinh doanh của các chủ yếu là lưu động hoặc bán cố định. Đặc điểm này bị chi
phối bởi tính chất nhỏ lẻ trong hoạt động buôn bán hàng hóa cũng như cung ứng dịch
vụ. Tuy nhiên, chính vì không bắt buộc có địa điểm kinh doanh rõ ràng nên vấn đề
khiếu nại, tố cáo đối với các hành vi vi vi phạm trong lĩnh vực thương mại của các chủ
thể này gặp nhiều khó khăn, nhất là bộ phận người tiêu dùng.
Thứ ba, về tính chất nhỏ lẻ, đơn giản
Các hàng hóa và dịch vụ mà CNHĐTM buôn bán, vận chuyển và cung cấp là
những hàng hóa, dịch vụ mang tính phổ biến và nhỏ lẻ, đó có thể là những sản phẩm
tiêu dùng, sinh hoạt hàng ngày như bánh, kẹo, nước uống, bóng bay,…;các dịch vụ bổ
2


trợ cuộc sống như sửa chữa đồng hồ, xe đạp, cắt tóc không đòi hỏi nguồn vốn cao. Hơn
nữa, để vận chuyển một cách dễ dàng, nên CNHĐTM thường mang theo số lương ít
hàng hóa. Còn đối với hoạt động cung ứng dịch vụ, CNHĐTM thường cung ứng những

dịch vụ đơn giản, phổ biến, thời gian thực hiện dịch vụ ngắn theo hình thức hợp đồng
miệng.
Thứ tư, về tính độc lập
Hoạt động kinh doanh của những CNHĐTM phải mang tính độc lập. Tức là tự
bản thân cá nhân này tham gia vào hoạt động kinh doanh, tự quyết định các mặt hàng,
dịch vụ cũng như địa điểm kinh doanh mà không bị chịu sự chi phối, điều hành của các
chủ thể kinh tế khác. Tức là, vừa là người đầu tư vốn, đồng thời vừa là người thực hiện.
Tự làm, tự hưởng theo công sức bản thân bỏ ra. Các CNHĐTM này không thuê nhân
công theo hợp đồng lao động nhưng có thể hợp tác dân sự với nhau, như hợp tác giữa
các thành viên trong gia đình.
Thứ năm, về tính thường xuyên
Hoạt động thương mại thường xuyên là những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
hợp pháp và được thực hiện hàng ngày [1]. Nó không phải là các hoạt động dân sự
mang tính mùa vụ. Bản thân CNHĐTM khi thực hiện nó sẽ được lặp đi lặp lại hàng
ngày, việc thực hiện hoạt động này là nguồn thu nhập chủ yếu của CNHĐTM này.
Thứ sáu, các CNHĐTM không phải đăng kí kinh doanh
Pháp luật thương mại không bắt buộc những chủ thể này phải đăng kí kinh
doanh.
Thứ bảy, CNHĐTM sẽ phải chịu trách nhiệm tài sản vô hạn
Do CNHĐTM tự bỏ vốn để đầu tư kinh doanh và có không chịu sự chi phối của
các chủ thể khác, do đó khi xảy ra những vấn đề pháp lý liên quan đến bồi thường thiệt
3


hại thì các CNHĐTM tự bỏ tiền của chính mình để khắc phụ những hậu quả pháp lý bất
lợi đó, nó khác với hình thức trách nhiệm hữu hạn của công ty cổ phần và công ty trách
nhiệm hữu hạn.
1.3. Cơ sở của việc điều chỉnh pháp luật về CNHĐTM
Các hoạt động thương mại diễn ra dưới các hình thức khác nhau của đời sống
kinh tế xã hội. Nhà nước thừa nhận các loại hình kinh doanh này và tạo một hành lang

pháp lý phù hợp cho chúng có môi trường phát triển. Các hình thức kinh doanh của
CNHĐTM mang tính nhỏ lẻ, dễ thay đổi theo quy luật cung cầu, khó kiểm soát hết các
hoạt động kinh doanh của các chủ thể này do đó pháp luật không đòi hỏi các chủ thể
này đăng kí kinh doanh [1]. Hơn nữa, các hình thức kinh doanh của cá nhân hoạt động
thương mại có nguồn gốc từ lâu đời trong lịch sử cũng như văn hóa của người Việt. Do
tập quán buôn bán nhỏ lẻ, không gian trao đổi hàng hóa thường không có địa điểm cố
định nên đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc kinh doanh theo hình thức này [1]; Hơn
thế nữa, số lượng các cá nhân hoạt động thương mại ngày càng tăng, khó có thể thống
kê được. Việc không bắt buộc các chủ thể này đăng kí kinh doanh góp phần giảm thiểu
các thủ tục hành chính trong quản lý kinh tế.
Mặt khác, Hiến pháp cũng thừa nhận quyền tự do kinh doanh của công dân, nên
vấn đề hoạt động kinh doanh của CNHĐTM được điều chỉnh chủ yếu trong Nghị định
số 39/2007/NĐ- CP ngày 16/03/2007. Ngoài ra, còn được đề cập trong Nghị định số
99/2011/NĐ- CP ngày 27/10/2011.
2. Các hoạt động kinh doanh của CNHĐTM
Có rất nhiều các căn cứ khác nhau để phân loại hoạt động kinh doanh của
CNHĐTM như địa điểm kinh doanh, hình thức kinh doanh, chủ thể kinh doanh hoặc
kết hợp các căn cứ như trên. Dựa trên quan điểm của Chu Tùng Anh [1] thì tôi sẽ phân
loại các hoạt động kinh doanh của CNHĐTM theo địa điểm kinh doanh và hình thức
kinh doanh như sau:
4


Thứ nhất, buôn bán rong
Buôn bán rong là các hoạt động mua, bán không có địa điểm cố định (mua rong,
bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả việc nhận sách báo, tạp chí,
văn hóa phẩm của các thương nhân được phép kinh doanh các sản phẩm này theo quy
định của pháp luật để bán rong (điểm a) khoản 1 Điều 3 Nghị định số 39/2007/NĐCP). Mặt hàng buôn bán rong không phải là đồ ăn, thức uống cũng như các vật dụng
nhỏ lẻ.
Ví dụ:

Hoạt động buôn bán các mặt hàng như bán sách báo, tạp chí, bán quần áo rong,
bán bóng bay, bán cá cảnh, chậu hoa cảnh loại nhỏ,…

Thứ hai, buôn bán vặt, bán quà vặt
Buôn bán vặt là là hoạt động mua, bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không có
địa điểm cố định (điểm b) khoản 1 Điều 3 Nghị định số 39/2007/NĐ- CP). Cách phân
loại này có thể bị nhầm lẫn giữa hình thức buôn bán rong, bởi lẽ nhà làm luật cũng
không chỉ ra được thế nào là “những vật dụng nhỏ lẻ”.
Bán quà vặt là hoạt động bán quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có hoặc
không có địa điểm cố định (điểm c) khoản 1 Điều 3 Nghị định số 39/2007/NĐ- CP).
Ví dụ:
Hoạt động buôn bán các mặt hàng như cam, quýt, mít, dừa,…;xôi, cháo, chè, trà
đá,…

Thứ ba, buôn chuyến
Buôn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để bán
cho người mua buôn hoặc người bán lẻ (điểm d) khoản 1 Điều 3 Nghị định số
39/2007/NĐ- CP).
5


Thứ tư, thực hiện các dịch vụ
Các dịch vụ được thực hiện bao gồm đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa
xe, trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc không
có địa điểm cố định (điểm đ) khoản 1 Điều 3 Nghị định số 39/2007/NĐ- CP).
Các hoạt động dịch vụ khác có thể là sơn móng tay, biểu diễn xiếc ngoài trời,
múa rối, xe ôm,…[1].

3. Phạm vi hoạt động của cá nhân hoạt động thương mại
3.1. Phạm vi hàng hóa, dịch vụ kinh doanh của cá nhân hoạt động thương

mại
Cá nhân hoạt động thương mại được phép kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ
theo quy định của pháp luật, trừ các loại hàng hóa, dịch vụ theo Khoản Điều 5 Nghị
định số 39/2007/NĐ- CP. Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 39/2007/NĐ-CP quy định:
“1. Cá nhân hoạt động tương mại được phép kinh doanh các loại hàng hóa, dịch
vụ theo quy định của pháp luật, trừ các loại hàng hóa, dịch vụ sau đây:
a) Hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh theo
quy định của pháp luật;
b) Hàng lậu, hàng giả, hàng không rõ xuất xứ, hàng quá thời hạn sử dụng, hàng
không bảo đảm điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật; hàng
không bảo đảm chất lượng, bao gồm hàng mất phẩm chất, hàng kém chất lượng, hàng
nhiễm độc và động, thực vật bị dịch bệnh;
c) Hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh
theo quy định của pháp luật”.

6


Theo cách phân loại của Chu Tùng Anh [1], về hàng hóa, CNHĐTM không được
phép kinh doanh các hàng hóa bị cấm kinh doanh và hàng hóa hạn chế kinh doanh. Các
hàng hóa bị cấm kinh doanh bao gồm: Vũ khí quân dụng dùng trong mục đích quốc
phòng và an ninh (Điều 5 của Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12); các chất ma túy
(Điều 61 Hiến pháp năm 1992, SĐBS năm 2001, Điều 194 Bộ Luật Hình sự năm
2009); các hóa chất độc hại (Khoản 1 Điều 7 Luật Hóa chất năm 2007, Thông tư số
10/2012/TT-BNNPTNT); các sản phẩm phản động và phi văn hóa; các loại pháo nổ
(Nghị định số 36/2009/NĐ-CP ngày 15/4/2009); các loại động vật- thực vật hoang dã,
quý hiếm (Khoản 9 Điều 12 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, khoản 3 Điều 7
Luật bảo vệ môi trường năm 2005); các loại thuốc chữa bệnh chưa được sử dụng tại
Việt Nam; các phế liệu nhập khẩu gây ô nhiễm (Khoản 8 Điều 7 Luật Bảo vệ môi
trường năm 2005); các loại hàng hóa không đạt tiêu chuẩn chất lượng như lương thực,

thực phẩm, đồ uống không đạt tiêu chuẩn vệ sinh, các loại hàng hóa không đạt tiêu
chuẩn chất lượng về thông số kĩ thuật, nguồn gốc, xuất xứ, nhãn mác và tính năng sử
dụng.
Các hàng hóa hạn chế kinh doanh bao gồm: Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể
thao, công cụ hỗ trợ; Vật liệu nổ công nghiệp, Nitrat Amôn (NH 4NO3) hàm lượng cao
từ 98,5% trở lên; Hàng hóa có chứa chất phóng xạ, thiết bị phát bức xạ hoặc nguồn
phóng xạ; Hóa chất bảng 2 và bảng 3 (theo Công ước quốc tế); Thực vật, động vật
hoang dã quý hiếm (bao gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến);
Thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác; Rượu các loại [1].

7


Các dịch vụ không được phép kinh doanh, là các dịch vụ mà nhà nước cấm và
các dịch vụ hạn chế kinh doanh. Các dịch vụ bị cấm kinh doanh là những dịch vụ đi
ngược lại những lợi ích của nhà nước, làm ảnh hưởng tiêu cực đối với các giá trị chuẩn
mực đạo đức cũng như các thuần phong mĩ tục của dân tộc. Các dịch vụ cấm kinh
doanh bao gồm: đẻ thuê (mang thai hộ), dịch vụ mại dâm (cung cấp, môi giới mại
dâm); buôn bán người; dịch vụ điều tra bí mật nhà nước, tổ chức, cá nhân (gián điệp,
thám tử); tổ chức đánh bạc, gá bạc dưới mọi hình thức; thuê giết người hoặc giết người
thuê; dịch vụ môi giới kết hôn hoặc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; dịch vụ cho
vay nặng lãi; các dịch vụ mang tính chất mê tín, dị đoan;… và các dịch vụ bắt buộc
phải đăng kí kinh doanh.
Các dịch vụ hạn chế kinh doanh là những dịch vụ không thiết yếu đối với đời
sống, khi kinh doanh những dịch vụ này bắt buộc phải đăng kí kinh doanh để cơ quan
chức năng có thể kiểm soát được các dịch vụ này: Kinh doanh vũ trường; Kinh
doanh massage, karaoke; Kinh doanh casino; trò chơi điện tử có thưởng bao gồm
trò chơi bằng máy jackpot, máy slot và các loại máy tương tự; Kinh doanh đặt
cược; Kinh doanh golf bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gold;…[2]
Trường hợp kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa,

dịch vụ kinh doanh có điều kiện, CNHĐTM mại phải tuân thủ các quy định của pháp
luật có liên quan đến việc kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ này.
CNHĐTM phải tuân thủ pháp luật về thuế, giá, phí và lệ phí liên quan đến hàng
hóa, dịch vụ kinh doanh. Trường hợp kinh doanh thực phẩm và dịch vụ ăn uống,
CNHĐTM phải bảo đảm đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về vệ sinh an
toàn thực phẩm đối với việc kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ này.
Nhà nước cũng nghiêm cấm CNHĐTM gian lận trong cân, đong, đo, đếm và
cung cấp các thông tin sai lệch, dối trá hoặc thông tin dễ gây hiểu lầm về chất lượng
của hàng hóa, dịch vụ hoặc bản chất của hoạt động thương mại mà mình thực hiện.

8


3.2. Phạm vi địa điểm kinh doanh của cá nhân hoạt động thương mại
Khoản 1 Điều 6 Nghị định đưa ra các trường hợp cấm kinh doanh tại các khu
vực, tuyến đường, địa điểm sau đây:
1) Khu vực thuộc các di tích lịch sử, văn hóa đã được xếp hạng, các danh lam
thắng cảnh khác;
2) Khu vực các cơ quan nhà nước, cơ quan ngoại giao, các tổ chức quốc tế;
3) Khu vực thuộc vành đai an toàn kho đạn dược, vật liệu nổ, nhà máy sản xuất
đạn dược, vật liệu nổ, doanh trại Quân đội nhân dân Việt Nam;
4) Khu vực thuộc cảng hàng không, cảng biển, cửa khẩu quốc tế, sân ga, bến tầu,
bến xe, bến phà, bến đò và trên các phương tiện vận chuyển;
5) Khu vực các trường học, bệnh viện, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng;
6) Nơi tạm dừng, đỗ của phương tiện giao thông đang tham gia lưu thông, bao
gồm cả đường bộ và đường thủy. Phần đường bộ bao gồm lối ra vào khu chung cư hoặc
khu tập thể; ngõ hẻm; vỉa hè, lòng đường, lề đường của đường đô thị, đường huyện,
đường tỉnh và quốc lộ dành cho người và phương tiện tham gia giao thông, trừ các khu
vực, tuyến đường hoặc phần vỉa hè đường bộ được cơ quan có thẩm quyền quy hoạch
hoặc cho phép sử dụng tạm thời để thực hiện các hoạt động thương mại;

7) Các tuyến đường, khu vực (kể cả khu du lịch) do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) hoặc cơ quan được Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền quy định và có biển cấm CNHĐTM thực hiện các hoạt
động thương mại;
8) Khu vực thuộc quyền sử dụng của tổ chức, cá nhân tuy không phải là khu vực,
tuyến đường, địa điểm cấm sử dụng làm địa điểm kinh doanh theo quy định từ phần 1.
đến phần 7. Trên đây nhưng không được sự đồng ý của tổ chức, cá nhân đó hoặc khu
vực đó có biển cấm CNHĐTM thực hiện các hoạt động thương mại.

9


Cá nhân hoạt động thương mại hoạt động trong phạm vi chợ, trung tâm thương
mại phải thực hiện các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo nội quy do
ban quản lý chợ, thương nhân kinh doanh chợ, trung tâm thương mại ban hành và được
cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (khoản 6 Điều 4 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP).
Nhà nước nghiêm cấm CNHĐTM chiếm dụng trái phép, tự ý xây dựng, lắp đặt
cơ sở, thiết bị, dụng cụ thực hiện các hoạt động thương mại và trưng bày hàng hóa ở bất
kỳ địa điểm nào trên đường giao thông và nơi công cộng; lối ra vào, lối thoát hiểm hoặc
bất kỳ khu vực nào làm cản trở giao thông, gây bất tiện cho cộng đồng và làm mất mỹ
quan chung. Trường hợp tiến hành hoạt động thương mại ở các khu vực, tuyến đường
hoặc phần vỉa hè đường bộ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy hoạch hoặc cho
phép sử dụng tạm thời thì ngoài việc tuân thủ quy định của Nghị định này, cá nhân hoạt
động thương mại phải bảo đảm thực hiện theo đúng quy hoạch và sự cho phép đó. Cá
nhân hoạt động thương mại phải tuân thủ mệnh lệnh hợp pháp của người thi hành công
vụ trong trường hợp được yêu cầu di chuyển hàng hóa; phương tiện, thiết bị, dụng cụ
thực hiện các hoạt động thương mại để tránh làm cản trở hoặc tắc nghẽn giao thông
trong trường hợp khẩn cấp hoặc vì lý do an ninh và các hoạt động xã hội khác theo quy
định của pháp luật. (Khoản 2, 3, 4 Điều 6 Nghị định số 39/2007/NĐ-CP)
Trong hoạt động thương mại, cá nhân hoạt động thương mại phải tuân thủ các

quy định của pháp luật về bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội (bao gồm cả các quy
định về thực hiện nếp sống văn minh), vệ sinh phòng bệnh, môi trường, phòng cháy,
chữa cháy, phòng, chống thiên tai và giao thông vận tải. Nghiêm cấm cá nhân hoạt
động thương mại thực hiện các hoạt động kinh doanh mà làm ảnh hưởng xấu đến môi
trường, sức khoẻ, an toàn và phúc lợi chung của cộng đồng, xâm phạm lợi ích của
người tiêu dùng, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc làm ảnh hưởng đến quyền bảo
mật thông tin cá nhân.
Khi kinh doanh lưu động, cá nhân hoạt động thương mại phải đặt, để các phương
tiện di chuyển, thiết bị, dụng cụ bán hàng và hàng hóa ngăn nắp, trật tự; phải có dụng
10


cụ đựng rác và chất thải phù hợp. Hơn nữa, các cá nhân hoạt động thương mại cũng
không được phép đeo bám, nài ép, chèo kéo, tranh giành, gây phiền hà cho khách và có
lời nói hoặc cử chỉ thô tục, bất lịch sự với khách; gây mất trật tự nơi công cộng hoặc
ảnh hưởng đến sự yên tĩnh chung trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 5 giờ sáng hôm
sau; In, vẽ, viết lên tường; treo (chăng, dựng) cờ, băng rôn, pa nô, áp phích, biển hiệu,
biển quảng cáo trái quy định của pháp luật, không phù hợp với thuần phong mỹ tục và
ảnh hưởng xấu đến mỹ quan chung; Sử dụng các phương tiện di chuyển, thiết bị, dụng
cụ thực hiện các hoạt động thương mại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn, vệ
sinh, ảnh hướng xấu đến mỹ quan chung; Đổ chất thải, phóng uế bừa bãi; vứt hoặc để
các phương tiện di chuyển, thiết bị, dụng cụ thực hiện các hoạt động thương mại, bao bì
và dụng cụ gói, đựng hàng khác, giấy, rác, hàng hóa, chất béo, mỡ động vật và các đồ
vật khác ra đường giao thông, xuống sông, cống rãnh hoặc bất kỳ khu vực nào gây ô
nhiễm môi trường, làm cản trở lưu thông, gây bất tiện cho cộng đồng; Nấu ăn, ngủ,
nghỉ ở phần đường bộ dành cho người và phương tiện tham gia giao thông; lối đi, chiếu
nghỉ cầu thang nhà chung cư; nhà chờ xe buýt; nơi hoạt động văn hóa, giải trí, vui chơi
công cộng làm ảnh hường xấu đến mỹ quan chung và trật tự, an toàn xã hội; Lợi dụng
trẻ em, người tàn tật để thực hiện các hoạt động thương mại,… [1]; (Điều 7 Nghị định
số 39/2007/NĐ-CP)


4. Quản lý hoạt động kinh doanh của CNHĐTM
4.1. Trách nhiệm của UBND cấp xã
1. Lập sổ theo dõi cá nhân hoạt động thương mại trên địa bàn quản lý (bao gồm
cá nhân hoạt động thương mại cư trú trên địa bàn và cá nhân ở nơi khác thường xuyên
đến địa bàn quản lý hoạt động thương mại) và tình hình hoạt động, chấp hành pháp luật
của các đối tượng này.

11


2. Tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách và quy định pháp luật liên quan
về quản lý cá nhân hoạt động thương mại tới đối tượng trực tiếp thực hiện, cán bộ quản
lý và toàn thể nhân dân trên địa bàn.
3. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý, các tổ chức và cá nhân có thẩm
quyền và trách nhiệm trong việc quản lý cá nhân hoạt động thương mại trên địa bàn.
4. Triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch và phân công trách nhiệm quản lý
hoạt động thương mại cụ thể của cá nhân hoạt động thương mại trên địa bàn theo
hướng dẫn và phân cấp của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên.
5. Thông báo công khai, rộng rãi các khu vực, tuyến đường, địa điểm cấm hoặc
cho phép cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại.
6. Triển khai thực hiện các giải pháp tổ chức hoạt động thương mại và hình thức
quản lý phù hợp, bảo đảm hoạt động bình thường của các khu vực, tuyến đường, địa
điểm cấm hoặc cho phép cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại; bảo đảm an
ninh, an toàn cho các hoạt động hợp pháp của cá nhân hoạt động thương mại trên địa
bàn quản lý.
7. Thực hiện các giải pháp tổ chức, quản lý bảo đảm cho cá nhân hoạt động
thương mại tuân thủ đúng các quy định về phạm vi hoạt động được quy định trong
Nghị định này; không tự ý bố trí sắp xếp và để cho cá nhân thực hiện các hoạt động
thương mại tại các khu vực, tuyến đường, địa điểm bị cấm theo quy định của Nghị định

này.
8. Thực hiện các quy định của pháp luật về thuế, phí và lệ phí đối với cá nhân
hoạt động thương mại trên địa bàn quản lý.
9. Kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân hoạt động thương
mại theo thẩm quyền.
10. Định kỳ hoặc đột xuất tổng hợp, báo cáo theo yêu cầu của cơ quan quản lý
nhà nước cấp trên về tình hình phát triển, tổ chức, quản lý và hoạt động của cá nhân
12


hoạt động thương mại trên địa bàn và kiến nghị các vấn đề liên quan đến việc quản lý
hoạt động của các đối tượng này.
(Điều 8 Nghị định 39/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính phủ)

4.2. Trách nhiệm của của các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện
1. Các Bộ, ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm
hướng dẫn cụ thể việc thực hiện quản lý nhà nước về các hoạt động thương mại của cá
nhân hoạt động thương mại theo quy định của Nghị định này.
2. Bộ Thương mại có trách nhiệm theo dõi, giám sát việc thực hiện Nghị định
này.
3. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (gọi tắt là Ủy ban nhân dân cấp huyện) thực hiện việc quản lý nhà nước về
các hoạt động thương mại của cá nhân hoạt động thương mại tại địa phương theo
hướng dẫn và phân cấp của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Cụ thể bao gồm các
công việc sau đây:
a) Chỉ đạo, hướng dẫn và đôn đốc, kiểm tra Ủy ban nhân dân cấp dưới trong việc
thực hiện các quy định về quản lý hoạt động thương mại của cá nhân hoạt động thương
mại trên địa bàn;
b) Xây dựng quy hoạch và kế hoạch, phân công trách nhiệm, phân cấp quản lý

hoạt động thương mại của cá nhân hoạt động thương mại trên địa bàn;
c) Kịp thời đưa ra các giải pháp tổ chức hoạt động thương mại và hình thức quản
lý phù hợp, bảo đảm hoạt động bình thường của các khu vực, tuyến đường, địa điểm
cấm hoặc cho phép cá nhân thực hiện các hoạt động thương mại;

13


d) Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân hoạt động thương mại vượt
thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp dưới;
đ) Định kỳ hoặc đột xuất tổng hợp, báo cáo theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà
nước cấp trên về tình hình phát triển, tổ chức, quản lý và hoạt động của cá nhân hoạt
động thương mại tại địa phương; kiến nghị các vấn đề liên quan đến việc quản lý hoạt
động của các đối tượng này.
4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy
quyền quy định thời gian và chỉ đạo việc lắp đặt biển cấm cá nhân thực hiện các hoạt
động thương mại tại các khu vực, tuyến đường theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 6
Nghị định này.
5. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể việc quy hoạch và cho phép cá nhân
sử dụng tạm thời các khu vực, tuyến đường và phần vỉa hè đường bộ trên địa bàn để
thực hiện các hoạt động thương mại phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương
nhưng không được làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn giao thông.
(Điều 9 Nghị định 39/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính phủ)

Kết luận
Các hình thức kinh doanh của cá nhân hoạt động thương mại này còn rất nhiều
hạn chế, trên cơ sở pháp lý lẫn thực tế cuộc sống. Do không phải đăng kí kinh doanh và
không có cơ chế giám sát nguồn thu nhập cho nên rất khó khăn trong việc thu thuế và
thu phí đối với những cá nhân này. Hơn nữa, các hoạt động kiểm soát kinh doanh của
cá nhân hoạt động thương mại này sẽ gặp nhiều khó khăn bởi phần lớn đều diễn ra kinh

doanh lưu động [1]. Chính vì lẽ đó, chính phủ cần đưa ra các biện pháp thiết thực và
hiệu quả hơn nữa để khắc phục những hạn chế còn tồn tại này.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Tìm hiểu pháp luật điều chỉnh hoạt động của cá nhân thực hiện hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký
kinh doanh;
Bài học kì thương mại I của Chu Tùng Anh;
(K35- Đại học Luật Hà Nội);
Lưu trữ: Kilobook.com.vn;

2.

Trình bày về những loại hàng hóa, dịch vụ không được phép quảng cáo
và không được phép khuyến mại;
Bài học kì thương mại II của Chu Tùng Anh
(K35- Đại học Luật Hà Nội);
Lưu trữ: Kilobook.com.vn;

3.

Nghị định số 39/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính phủ về cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải
đăng kí kinh doanh;


4.

Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng;

5.

Buôn bán rong không phải đăng ký kinh doanh
Website: vietbao.vn;

6.

Trách nhiệm của cá nhân hoạt động thương mại;
Website: hanoimoi.com.vn
15


16



×