Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Sự tương thích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam về quyền trẻ em 8đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.82 KB, 10 trang )

Lời mở đầu ……………………………………………………………………………. 3
Nội dung ………………………………………………………………………………. 3
I.

NHỮNG VẤN ĐỀ
EM………………



LUẬN



BẢN VỀ

QUYỀN TRẺ 3

1. Khái niệm trẻ em và quyền trẻ em……………………………………………

3

2. Sự điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề quyền trẻ em………………………..

4

II. SỰ TƯƠNG THÍCH GIỮA QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP 4
LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TRẺ EM…………………………………...
1. Quyền trẻ em trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em…………..

4


2. Quyền trẻ em trong lĩnh vực dân sự…………………………………………...

6

3. Quyền trẻ em trong lĩnh vực lao động…………………………………………

7

4. Quyền trẻ em trong lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội, y tế……………..

8

5. Quyền trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình…………………………..

9

6. Quyền trẻ em trong lĩnh vực khác…………………………………………

9

Kết luận………………………………………………………………………………... 10

Mục Lục

1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. Luật BVCS&GDTE
2. CRC

3. ICCPR
4. ICESCE
5. PLQT
6. PLVN
7. ILO
8. Luật HN&GĐ
9. NCTN
10. BLDS
11. BLHS
12. BLLĐ
13. LĐTE

: Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004;
: Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc;
: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị;
: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa;
: Pháp luật quốc tế;
: Pháp luật Việt Nam;
: Tổ chức lao động quốc tế.
: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
: Người chưa thành niên.
: Bộ luật dân sự
: Bộ luật hình sự
: Bộ luật lao động
: Lao động trẻ em

2


LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước
về Quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990. Từ đó đến nay, mặc dù còn nhiều khó khăn, Việt Nam
đã đạt nhiều tiến bộ trong việc đưa tinh thần và nội dung của Công ước vào chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội và luật pháp quốc gia. Ví dụ như Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em, Luật phổ cập giáo dục, Luật lao động, Luật dân sự, Luật tố tụng hình sự... được ban hành
hay sửa đổi đều quan tâm thích đáng đến quyền lợi của trẻ em. Bên cạnh đó, pháp luật Việt
Nam vẫn còn hạn chế, thực trạng đất nước chưa thể đáp ứng được đầy đủ các Điều ước quốc tế
về quyền trẻ em. Nhóm em chọn đề tài 09: “Bình luận sự tương thích giữa các quy định của
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền trẻ em.” Thông qua đó, chúng ta sẽ hiểu rõ
hơn về các quyền trẻ em cũng như bảo vệ trẻ em – thế hệ tương lai của đất nước.
NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TRẺ EM
1. Khái niệm trẻ em và quyền trẻ em
 Khái niệm trẻ em
Theo Điều 1 Công ước CRC, trẻ em được định nghĩa là “những người dưới 18 tuổi, trừ
khi pháp luật quốc gia quy định khác”. Còn Việt Nam hiện nay, chưa có một định nghĩa thống
nhất về trẻ em trong toàn bộ hệ thống pháp luật. Thông thường, chỉ thấy một số ngành luật
nhắc đến khái niệm trẻ em và các quy định này không thống nhất giữa tất cả các ngành luật.
Nếu dựa theo quy định tại điều 1 Luật BVCS&GDTE thì: “Trẻ em quy định trong luật này là
công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Trong khi đó, BLLĐ 2012 dùng thuật ngữ người chưa
thành niên là người dưới 18 tuổi (Điều 161). Do đó, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, khái
niệm trẻ em sẽ được phân tích trên cơ sở văn bản pháp luật liên quan. Điều này PLVN phù hợp
với quy định của Công ước CRC, nhưng sự không thống nhất về độ tuổi trẻ em trong hệ thống
pháp luật Việt Nam sẽ gây khó khăn trong việc xác định, bảo vệ trẻ em.
 Khái niệm quyền trẻ em
Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành
mạnh và an toàn. Để đảm bảo điều đó, nhiều văn kiện quốc tế lớn (mà tiêu biểu là CRC) đã
quy định về các quyền trẻ em.
Trên cơ sở quy định của PLQT, Việt Nam đã nội luật hóa quy định về quyền trẻ em trong
các văn kiện này để ghi nhận và bảo vệ các quyền trẻ em trong hàng loạt các văn bản pháp luật

trong nước, đặc biệt là thông qua Luật BVCS&GDTE năm 2004. Nhìn chung, theo các văn
bản pháp lý nước ta (phù hợp PLQT) xác định quyền trẻ em bao gồm bốn nhóm quyền:
- Quyền được sống: bao gồm quyền trẻ em được sống và được đáp ứng những nhu cầu để
tồn tại, như mức sống đủ, có nơi ở, dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe.
- Quyền được bảo vệ: đòi hỏi trẻ em phải được bảo vệ, chống tất cả các hình thức lạm
dụng và bóc lột, trong đó có vấn đề lạm dụng về kinh tế.
- Quyền được phát triển gồm những thứ trẻ em cần có đề phát triển đầy đủ nhất như:
quyền giáo dục, vui chơi, các hoạt động văn hóa, tiếp cận thông tin.

3


- Quyền được tham gia vào các hoạt động xã hội: cho phép trẻ em đóng góp một vai trò
tích cực trong cộng đồng và đất nước, gồm sự tự do diễn đạt và bày tỏ quan điểm.
2 Sự điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề quyền trẻ em
 Pháp luật quốc tế về quyền trẻ em và những cam kết của Việt Nam
Ngoài hai văn kiện pháp lý quốc tế là ICCPR và ICESCR quy định chung về quyền của
con người trong đó có quyền của trẻ em thì Công ước về quyền trẻ em (CRC) là văn kiện quốc
tế cơ bản và toàn diện nhất về quyền trẻ em. Bên cạnh CRC, trong khuôn khổ pháp lý quốc tế,
quyền trẻ em còn chịu sự điều chỉnh của nhiều văn kiện quốc tế khác, trong đó tiêu biểu bao
gồm: hai nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về sử dụng trẻ em trong các cuộc
xung đột vũ trang và về buôn bán trẻ em, bóc lột và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (cùng
được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 2000), các Công ước và khuyến nghị có liên
quan của ILO (mà tiêu biểu là Công ước số 138 về tuổi lao động tối thiểu và Công ước số 182
về xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất), các tuyên bố, hướng dẫn, quy tắc
chuẩn tối thiếu của Liên hợp quốc về tư pháp NCTN và một số văn kiện quốc tế khác…
Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục đối tượng dễ bị tổn
thương là trẻ em, Việt Nam đã hoàn tất việc phê chuẩn các văn kiện pháp lý quốc tế toàn cầu
đặc biệt quan trọng liên quan đến quyền trẻ em như: ICCPR, ICESCR, CRC, hai nghị định
thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em (được Đại hội đồng Liên hợp quốc

thông qua năm 2000), Công ước về cấm và hành động ngay để xóa bỏ các hình thức lao động
trẻ em tồi tệ nhất 1999 và Công ước về tuổi lao động tối thiểu 1973.
 Pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền trẻ em.
Hệ thống các văn bản PLVN có chức năng cụ thể hóa nội dung của CRC khá đồ sộ, tinh
thần cũng như các nội dung cơ bản của CRC đã được thể hiện tương đối trọn vẹn trong các
văn bản pháp luật trong nước: Hiến pháp 1992; Luật phổ cập giáo dục tiểu học 1991; Luật
giáo dục năm 2005; BLLĐ 2012, Luật HN&GĐ2000; Luật nuôi con nuôi 2010; BLDS 2005;
Luật quốc tịch 2010; BLHS 1999 , văn bản pháp luật hành chính, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ
luật tố tụng dân sự… và đặc biệt là Luật BVCS&GDTE 2004 – nòng cốt pháp luật trong nước
quy định về quyền trẻ em.
II. SỰ TƯƠNG THÍCH GIỮA QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TRẺ EM
Tính tương thích của PLVN hiện hành với PLQT về quyền trẻ em thể hiện xuyên suốt
hệ thống pháp luật Việt Nam, từ đạo luật gốc là Hiến pháp cho tới các Bộ luật như Bộ luật lao
động, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự và các văn bản pháp luật chuyên ngành như Luật
HN&GĐ, Luật BVCS&GDTE… Song bên cạnh đó, PLVN còn một số hạn chế, chưa thể
hiện hết tinh thần của các công ước quốc tế.
1. Quyền trẻ em trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em
Không phân biệt đối xử và lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em là hai nguyên tắc được quy
định tại Điều 4 và Điều 5 Luật BVCS&DGTE tương ứng với Điều 2 và 3 của CRC cũng quy
định. Đặc biệt, các quyền cơ bản của trẻ em trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ

4


em được quy định tại Luật BV, CS&GD trẻ em có sự tương thích rất cao với các quy định về
quyền trẻ em trong CRC. Cụ thể:
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng của trẻ em: Tương ứng với các Điều 8, 18, 20, 24
của CRC thì Điều 12 của Luật BVCS&GDTE quy định trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi
dưỡng để phát triển thể chất, tinh thần và đạo đức. Để bổ sung cho điều này Điều 7, 24 Luật

BVCS&GDTE đã có các quy định liện quan đến vấn đề này. Giúp cho việc thực hiện quyền
này của trẻ em được đảm bảo hơn.
- Quyền sống chung với cha mẹ của trẻ em: Điều 13 Luật BVCS&GDTE đã cụ thể hóa
Điều 9 của CRC với nội dung: trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ, không ai có quyền
buộc trẻ em phải cách ly cha mẹ (trừ trường hợp vì lợi ích của trẻ). Để cho quyền này được
đảm bảo trên thực tế, Điều 25 Luật BVCS&GD trẻ em và các quy định trong Nghị định
36/2005/NĐ-CP đã quy định về Trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em sống chung với cha mẹ
- Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự của trẻ em:
Điều 14 của Luật BV, CS&GD trẻ em đã đưa nội dung của các Điều 16, 31, 34, 35, 36 của
CRC thành quy định: trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng,
thân thể, nhân phẩm và danh dự. Điều 7 của Luật cũng nghiêm cấm các hành vi xâm phạm đến
quyền trên của trẻ em còn Điều 24 thì quy định trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội
phải bảo vệ quyền này của trẻ em. Nghị định 36/2005/NĐ-CP cũng đã hưỡng dẫn cụ thể về
quyền này.
- Quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em: Được quy định tại Điều 25 CRC và Điều
15 của Luật BVCS&GDTE 2004 và các Điều 7, 27 Luật BVCS&GDTE và Điều 12, 18 của
Nghị định 36/2005/NĐ-CP cũng quy định cụ thể và chi tiết về các quyền này.
- Quyền học tập của trẻ em: việc phổ cập giáo dục cho trẻ em và việc giáo dục cho trẻ
em phải được hướng tới những điều tốt đẹp cho các em cũng như xã hội được quy định tại
điều 28, 29 Công ước CRC và điều 28 Luật BVCS&GDTE, Luật phổ cập giáo dục, Luật giáo
dục 2005. Tuy nhiên, theo quy định của PLQT thì miễn phí học phí cho tất cả trẻ em
nhưng PLVN chỉ quy định miễn giảm học phí cho các trường hợp thuộc đối tượng ưu tiên
và nghèo, cận nghèo... Đây cũng là nét đặc thù của PLVN, do điều kiện kinh tế VN chưa phát
triển cao như các nước EU, Mỹ,… nên Nhà nước không đảm bảo miễn học phí cho tất cả trẻ
em được.
Trên thực tế, việc thực hiện phổ cập giáo dục ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn
nhất là ở các khu vực dân tộc miền núi. Việc trẻ em không đến trường mà ở nhà phụ giúp gia
đình diễn ra rất phổ biến. Mặt khác ở nhiều nơi cơ sở vật chất để đáp ứng cho việc giáo dục
cho trẻ em còn thiếu thốn, không đáp ứng được nhu cấu học tập cũng như sinh hoạt văn hóa
của các em.

- Ngoài ra còn có các quyền khác như: Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ
thuật, thể dục, thể thao, du lịch của trẻ em (quy định tại Điều 31, 29, 7 Luật BV, CS&GD trẻ
em và Điều 5 Nghị định 36/2005, các Điều này tương ứng với Điều 31 CRC); Quyền được
phát triển năng khiếu của trẻ em; Quyền sở hữu tài sản của trẻ em; Quyền được tiếp cận thông
tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội của trẻ em;…..

5


Từ những dẫn chứng trên ta có thể thấy các quy định của PLVN về quyền trẻ em trong
lĩnh vực BVCS&GDTE có độ tương thích rất lớn với các quy định của CRC. Đa số nếu
không nếu là tất cả các quyền của trẻ em trong CRC đều được Việt Nam nội luật hóa vào trong
Luật BV, CS&GD trẻ em. Việc này cũng thể hiện cam kết quốc tế khi Việt Nam phê chuẩn
CRC. Tuy nhiên, hệ thống luật pháp, chính sách và khung pháp lý để bảo vệ, chăm sóc trẻ
em chưa thực sự đầy đủ, đồng bộ. Chế tài xử phạt các hành vi vi phạm quyền trẻ em chưa
đủ mạnh. Một số nhóm đối tượng trẻ em đặc biệt chưa được đưa vào Luật BVCS&GDTE,
như trẻ em bị lạm dụng, bạo lực, trẻ em bị tai nạn thương tích, trẻ em bị ảnh hưởng từ các vụ
ly hôn, con nuôi, trẻ em di cư, bị buôn bán, trẻ em sống trong các hộ nghèo... Thiếu các số liệu
đáng tin cậy liên quan đến trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt. Thiếu các quy trình tư pháp thân
thiện với trẻ em. Mặc dù nhà nước, các ngành, các cấp đã liên tục nỗ lực thực hiện các hành
động bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ en từ việc xây dựng chính sách chủ trương, chương trình
hành động, dự án, kế hoạch, thành lập tổ chức bộ máy… nhưng cho đến nay tất cả các khâu
trọng yếu trên vẫn còn nhiều hạn chế.
2. Quyền trẻ em trong lĩnh vực dân sự
- Quyền được sống của trẻ em: trẻ em khi sinh ra đều có quyền được sống và được đáp
ứng những nhu cầu để tồn tại. Điều 6 Công ước CRC và PLVN đều có những quy định cụ thể
qua các quyền được đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe,… Song trên thực tế, trẻ em sinh ra
bị bỏ rơi, bị để chết còn nhiều.
- Quyền được khai sinh và có quốc tịch của trẻ em: Tương ứng với nội dung của Điều 7
CRC, Điều 11 Luật BV CS&GD TE và điều 29 BLDS quy định trẻ em có quyền được khai

sinh và có quốc tịch. Nếu trẻ em chưa xác định được cha, mẹ nếu có yêu cầu thì được cơ quan
có thẩm quyền giúp đỡ để xác định cha, mẹ. Cụ thể hóa cho quy định này thì Nghị định
36/2005/NĐ-CP đã có hướng dẫn để thực thi các quy định trên thực tế.
- Quyền giám hộ: công ước CRC qui định cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ của người
giám hộ đối với trẻ em tại Điều 5. Theo đó, công ước cũng thể hiện nội dung chính: trẻ em
không thể bị tách rời bởi các bậc cha mẹ, trừ khi điều đó do các nhà chức trách có thẩm quyền
tiến hành vì lợi ích của trẻ. Như vậy, việc giám hộ cho trẻ có vai trò cực kì quan trọng, và trẻ
em có quyền được có người giám hộ. Cụ thể hóa quyền quan trọng này của trẻ em, BLDS
2005 đã có những qui định chi tiết về giám hộ, tại khoản 2 điều 58 qui định những chủ thể cần
người giám hộ, trong đó có trẻ em. Đặc biệt với người được giám hộ chưa đủ 15 tuổi hoặc
người chưa thành niên (trẻ em) được qui định cụ thể tại điều 61, 65.
Hơn nữa, các chế định như thừa kế, hợp đồng cũng có qui định về người giám hộ đối với
chủ thể là trẻ em, đảm bảo cho trẻ em được thụ hưởng toàn bộ quyền mà chúng đáng được
hưởng
- Quyền được nhận làm con nuôi: có thể nói, đây là 1 trong những quyền rất quan trọng
đối với trẻ em, khi các em rơi vào hoàn cảnh không có người chăm sóc. PLQT cực kì coi trọng
vấn đề con nuôi. Điều 21 Công ước CRC đã có những qui định chi tiết về nghĩa vụ của quốc
gia thành viên để trẻ em có được cuộc sống tốt nhất sau khi được nhận làm con nuôi.Việt Nam
coi trọng vấn đề này rất nhiều, Luật nuôi con nuôi đã được ra đời để chứng minh cho tầm quan

6


trọng đó, BLDS cũng có những quy định về quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận
làm con nuôi (Điều 44)
BLDS và các văn bản pháp luật khác đã chi tiết, cụ thể hóa, đưa những qui định về quyền
trẻ em của pháp luật quốc tế vào trong bộ luật dân sự một cách hài hòa, dễ thực hiện.
Tuy nhiên PLVN vẫn còn 1 số hạn chế như Luật quốc tế rất coi trọng chế định pháp luật
về hộ tịch của trẻ em. Cònluật dân sự của Việt Nam chưa coi trọng thích đáng vấn đề này. Về
quyền được nhận làm con nuôi, chính là vấn đề còn nhiều điều phải giải quyết. qui định khung

nền của luật dân sự được cụ thể hóa trong luật nuôi con nuôi. Nhưng quyền này của trẻ đang bị
lợi dụng để xảy ra nhiều việc buôn bán trẻ sinh lợi diễn ra gần đây trên thực tiễn
3. Quyền trẻ em trong lĩnh vực lao động
Căn cứ vào các công ước quốc tế của ILO và các văn kiện quốc tế khác về quyền trẻ em,
PLVN có những quy định khá phù hợp với PLQT trong lĩnh vực lao động và với điều kiện
phát triển của mình. Như quy định về độ tuổi lao động là đủ 15 tuổi trở lên, công ước 138 của
ILO cũng quy định “Tuổi tối thiểu vào làm việc sẽ không được dưới độ tuổi học chương trình
giáo dục bắt buộc và bất kỳ trường hợp nào cũng không được dưới 15 tuổi”(khoản 3 Điều 2);
Công ước cũng cho phép sử dụng trẻ em từ 13 tuổi đến 15 tuổi với những công việc nhẹ nhàng
(Điều 7), BLLĐ 2012 và các văn bản hướng dẫn của Việt Nam cũng có quy định như vậy. Hay
nội luật hóa công ước 182 về Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức LĐTE
tồi tệ nhất cũng như các văn kiện quốc tế khác (Công ước về lao động Cưỡng bức, Công ước
bổ sung của Liên Hợp Quốc về Xóa bỏ buôn bán nô lệ và các hình thức tương tự như nô lệ) ,
PLVN cũng có hình thức nghiêm cấm, xử lí hình thức LĐTE tồi tệ nhất như BLHS Việt Nam
đã quy định về các tội danh liên quan đến hành vi quan hệ tình dục với trẻ em, chứa chấp mại
dâm và môi giới mại dâm, sử dụng trẻ em sẽ là tình tiết tăng nặng, những quy định nhằm hỗ
trợ nạn nhân là trẻ em...; hay cấm lạm dụng LĐTE, sử dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc,
nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại, làm công việc trái với quy định của pháp luật về lao
động (Luật GDCS&BVTE) cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành,…; BLLĐ 2012 đã có
những quy định cấm cưỡng bức lao động tại Điều 8, đảm bảo thực hiện tốt các cam kết quốc
tế.
PLVN đã có những quy định khá rõ cũng như có các chế tài nhằm bảo vệ trẻ em một
cách tốt nhất khỏi tình trạng lạm dụng lao động trẻ em cũng như đảm bảo thực hiện tốt các
cam kết quốc tế. Tuy nhiên trên thực tế, nước ta vẫn chưa ngăn chặn được việc lạm dụng
LĐTE dưới 15 tuổi. Theo thống kê 2012 của Bộ LĐ-TB&XH, có khoảng hơn 26.000 LĐTE.
Hàng ngàn trẻ em phải vất vả làm đủ mọi nghề để phụ giúp gia đình và nuôi sống bản thân.
Nhiểu công việc quá sức lực và lứa tuổi của các em như bốc vác, phục vụ trong các nhà hàng,
phải làm việc trong môi trường hóa chất độc hại... Để đảm bảo quyền trẻ em trong lĩnh vực lao
động, PLVN cần hoàn thiện hơn, có những biện pháp bảo vệ trẻ em như xây dựng chương
trình quốc gia về xóa bỏ lao động trẻ em. Bên cạnh xóa đói giảm nghèo, việc hỗ trợ trẻ em

nghèo đến trường sẽ có thêm các giải pháp như: Hướng trẻ em đang làm việc quay trở lại học
nghề để chọn những công việc có môi trường làm việc an toàn hơn, đảm bảo trẻ em được trang

7


bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, học vấn trước tuổi trưởng thành và trước khi bước vào thị trường
lao động…
4. Quyền trẻ em trong lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội, y tế
Theo quy định tại điều 33 Công ước CRC, phải thực hiện mọi biện pháp thích hợp, bảo
vệ trẻ em khỏi bị lôi kéo vào việc sử dụng bất hợp pháp các chất ma túy và kích thích thần
kinh để ngăn ngừa việc sử dụng trẻ em vào việc sản xuất, buôn bán bất hợp pháp các chất đó;
bảo vệ trẻ em trước mọi hình thức bóc lột và lạm dụng tình dục như xúi giục, ép buộc trẻ em,
lợi dụng trẻ em tham gia các hoạt động tình dục… Đảm bảo thực hiện tốt Công ước, Luật
BVCS&GDTE đã quy định những biện pháp nghiêm cấm việc lôi kéo trẻ em đánh bạc, cho trẻ
em uống rượu, hút thuốc, dùng chất kích thích có hại cho sức khoẻ; việc dụ dỗ, dẫn dắt trẻ em
mại dâm, bán hoặc cho trẻ em sử dụng những văn hoá phẩm đồi truỵ, đồ chơi hoặc chơi trò
chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Đặc biệt BLHS cũng quy định những chế
tài nghiêm khắc đối với với hành vi phạm tội xâm hại đến trẻ em và các quyền trẻ em. Nhìn
chung, các tội phạm xâm hại đến trẻ em trong BLHS phần lớn đều thuộc loại tội có tình tiết
tăng nặng. Cụ thể một số tội danh như : Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256), tội
hiếp dâm trẻ em (Điều 112)….Như vậy, trong lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội ở trẻ em,
PLVN đã có sự phù hợp với PLQT . Luật đã đưa ra được các quy định nhằm bảo đảm các
quyền cho trẻ em được sống trong môi trường lành mạnh và an toàn. Đây là cơ sở để đảm bảo
cho việc bảo vệ trẻ em một cách toàn diện nhất khỏi những nguy cơ xâm hại từ môi trường
đầy rẫy những tệ nạn bên ngoài.
Trong lĩnh vực y tế, điều 24 Công ước CRC đưa ra các quy định và các biện pháp đảm
bảo các điều kiện tốt nhất cho sức khỏe của trẻ em. Đây là các quy định rất thiết thực nhằm
nâng cao sức khỏe cho trẻ em nói riêng và chất lượng cuộc sống của con người Việt Nam nói
chung, yêu cầu quốc gia tham gia công ước cần có những chính sách thực tế nhằm đảm bảo

những nhu cầu thiết yếu trên. Nội luật hóa các quy định của công ước, Điều 9 Luật
BVCS&GDTE và các văn bản hướng dẫn thi hành đều quy định trẻ em có quyền được chăm
sóc bảo vệ sức khỏe. trẻ em được y tế cơ sở quản lý sức khỏe, được tiêm chủng phòng bệnh
phòng dịch, được khám chữa bệnh. Ngoài ra pháp luật cũng quy định cha mẹ, người thân,
người nuôi dưỡng trẻ em có nghĩa vụ thực hiện những quy định về kiểm tra sức khỏe và tiêm
chủng theo kế hoạch của y tế cơ sở, chăm lo sức khỏe khi ốm đau, và thực hiện các yêu cầu
của thầy thuốc trong khi khám chữa bệnh cho trẻ em.
Kể từ khi ban hành và triển khai thực hiện Luật BVCS&GDTE, Việt Nam đã có những
thay đổi đáng kể và đã đạt được những tiến bộ vượt bậc trong việc thực hiện các Mục tiêu đặt
ra. Cụ thể như chúng ta đã giảm hơn một nửa tỉ lệ đói nghèo từ 58% năm 1990 xuống còn
19.5% năm 2004. Tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ dưới năm tuổi cũng giảm rõ rệt. Tỉ lệ tiêm
chủng luôn đạt mức cao. Khoảng 95% trẻ trong độ tuổi đi học được đến trường. Bên cạnh
những thành tựu chúng ta đã đạt được thì vẫn còn những mặt tồn tại như: tỷ lệ suy dinh dưỡng
ở trẻ em vẫn ở mức rất cao tới 25%, trẻ em vùng sâu vùng xa, trẻ em dân tộc thiểu số khoảng
35-40%. Tỷ lệ trẻ tử vong ngay trong tháng đầu tiên sau khi sinh chiếm từ 50-70% tử vong trẻ
sơ sinh. Ước tính tỉ lệ tử vong bà mẹ là 150 trên 100,000 ca đẻ sống. Gấp 4 lần ở người đồng

8


bào Dân Tộc. Tỷ lệ dân sử dụng nước sạch tăng từ 72% (1993) lên 85% (2004). Tuy nhiên, chỉ
có 61% dân số được sống trong điều kiện vệ sinh tốt. đây là những mặt hạn chế còn tồn tại, đặt
ra yêu cầu nhà nước và toàn xã hội cần có những biện pháp thiết thực hơn nữa để quyền trẻ em
được đảm bảo như trong công ước quốc tế mà chúng ta đã tham gia.
5. Quyền trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
Theo công ước CRC, kết hôn trước 18 tuổi là vi phạm nhân quyền, mà đối ượng chủ yếu
là các bé gái. Việc kết hôn sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe sinh sản cũng như sức
khỏe của các bé này do tâm sinh lí vẫn chưa phát triển đầy đủ. Để bảo vệ trẻ em,Luật HN&GĐ
quy định tuổi kết hôn là nữ phải đủ 18 tuổi, nam đủ 20 tuổi và có những quy định nghiêm cấm
và các chế tài xử lí hành vi vi phạm như trong BLHS những hành vi tảo hôn và tổ chức tảo

hôn bị phạt cảnh cảo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai
năm.
Tuy nhiên, hiện trạng tảo hôn vẫn đang diễn biến khá phức tạp nhất là vùng thiểu số.
Những quy định của pháp luật vẫn chỉ trên giấy tờ, chưa đi sâu vào nhân dân. Bên cạnh việc
nội luật hóa các quy định quốc tế, chúng ta cũng nên chú trọng để các quy định đó đi vào thực
tiến đời sống.
6. Quyền trẻ em trong lĩnh vực khác
Ngoài các quyền cơ bản thuộc các lĩnh vực trên, PLQT và PLVN còn ghi nhận một số
quyền sau của trẻ em:
- Quyền tự do biểu đạt, tự do tư duy, tôn giáo, tín ngưỡng, kết giao, hội họp một cách hòa
bình. Các quyền tự do này được pháp luật quốc tế quy định cụ thể tại các điều 13, 14, 15, 17
CRC. Tương ứng với nội dung các điều trên của CRC, Điều 20-Luật BV,CS&GD trẻ em Việt
Nam quy định, trẻ em có quyền được tiếp cận thông tin phù hợp với sự phát triển của trẻ, được
bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về những vấn đề mình quan tâm cũng như được tham gia hoạt
động xã hội phù hợp với nhu cầu và năng lực của mình.
-Quyền của các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt như: trẻ em mồ côi không nơi nương tựa,
trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em khuyết tật, trẻ em nhiễm HIV/AIDS…CRC đã ghi nhận quyền của
những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại các điều 19,20,21,22,23,25. Cụ thể, các điều này quy
định về quyền của trẻ em bị lạm dụng, sao nhãng; trẻ em bị mất môi trường gia đình, trẻ em tị
nạn, trẻ em khuyết tật. Tương ứng với nội dung các điều 19,29,21,23 CRC, Luật BVCS&GD
trẻ em Việt Nam đã dành hẳn một chương quy định về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt. Cụ thể, từ điều 51 đến điều 58 đã quy định quyền cho các nhóm trẻ em: trẻ
em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, trẻ em là nạn nhân của
chất độc hóa học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp
xúc với chất độc hại, trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại
tình dục; trẻ em nghiện ma túy; trẻ em vi phạm pháp luật
Như vậy, dựa trên những quy định của PLQT, các quyền của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
đã được PLVN cụ thể hóa cho phù hợp với tình hình xã hội Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho trẻ em này thực hiện những quyền cơ bản của mình.


9


Nhìn chung, quy định PLVN đạt tới sự tương thích cao đối với PLQT về quyền trẻ em,
từ các quy định trong Đạo luật gốc cho tới quy định trong các văn bản luật chuyên ngành, từ
các quy định chung đề cập tới nguyên tắc bảo vệ quyền trẻ em cho tới các quy định cụ thể về
các quyền trẻ em cùng nghĩa vụ của các chủ thể liên quan…đều đảm bảo không xâm phạm
đến tinh thần mà CRC hướng tới. Tuy vậy, khung pháp lý hiện thời của Việt Nam dù đạt tới sự
tương thích cao vẫn tồn tại không ít thách thức đối với nhà nước và các nhà lập pháp trong
việc hoàn thiện và củng cố khung pháp lý quy định về quyền trẻ em. Thực tế đã chỉ ra rằng, sự
hoàn thiện của hệ thống pháp luật, tương thích cao với pháp luật quốc tế chỉ thực sự phát huy
hiệu quả khi khung pháp lý đó cho phép giải quyết tốt nhất, kịp thời nhất những biến đổi phức
tạp, đa dạng của quan hệ pháp luật trên thực tiễn. Xem xét thực tế tình hình bảo vệ quyền trẻ
em ở Việt Nam trong thời gian trở lại đây, không ít các vấn đề cần kịp thời được bổ sung, hoàn
thiện, nhằm hướng đến việc bảo đảm tốt nhất các nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho PLQT
về quyền con người được quy định trong CRC, đó là: Nguyên tắc xác định vị thế bình đẳng
của trẻ em với người lớn về phương diện chủ thể của quyền; nguyên tắc không phân biệt đối
xử; nguyên tắc tôn trọng ý kiến, quan điểm của trẻ em và đặc biệt là nguyên tắc “lợi ích tốt
nhất dành cho trẻ em”.
Để đảm bảo quyền trẻ em một cách tốt nhất, hiểu quả nhất cần tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật vệ bảo vệ trẻ em; củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà n ước về
bảo vệ, chăm sóc trẻ em từ trung ương đến cơ sở; xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành trong
đó xác định rõ trách nhiệm của các ngành, các tổ chức trong việc thực hiện công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em. Phát triển đội ngũ cán bộ xã hội, cộng tác viên, tình nguyện viên đến tận
thôn, bản, khu, ấp…; tăng cường năng lực và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ
em; nghiên cứu sửa đổi độ tuổi của trẻ em theo hướng trẻ em là người dưới 18 tuổi trong
BLHS hoặc bảo đảm không có sự phân biệt trong chính sách xử lý liên quan đến người NCTN
từ đủ 16 tuổi trở lên NCTN là trẻ em
KẾT LUẬN
PLVN đã có những quy định hầu như là phù hợp với PLQT về quyền trẻ em. Trẻ em

chiếm 33% tổng dân số Việt Nam, là lực lượng lao động chính của đất nước trong tương lai
gần, và chăm lo cho sự phát triển của trẻ em là chăm lo cho tương lai của đất nước, của dân
tộc. Vì vậy, hệ thống pháp luật Việt Nam cần phải hoàn thiện và đi vào thực tiễn đời sống để
đảm bảo các quyền của trẻ em được thực hiện đầy đủ và bảo vệ một cách tốt nhất trẻ em – đối
tượng dễ bị tổn thương.

10



×