Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

BT cá nhân số 1 luật tài chính VN phân tích vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương trong hệ thống ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật h

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.47 KB, 4 trang )

Đề số 5 : Phân tích vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương trong hệ thống ngân
sách nhà nước theo quy định của pháp luật hiện này ? Cho ví dụ minh họa?
Bài làm.
Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương
bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng Nhân dân và Ủy
ban Nhân dân.
Mỗi cấp ngân sách đều giữ vai trò nhất định trong hệ thống NSNN. Trong
đó, “Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chiến
lược quan trọng của quốc gia và hỗ trợ những địa phương chưa cân đối được thu,
chi ngân sách”. (căn cứ vào Điểm b – Khoản 2 – Điều 4 – Luật Ngân sách nhà
nước 2002)
Bắt nguồn từ vị trí, vai trò của chính quyền trung ương được Hiến pháp quy
định đối với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước nên
ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo. Cùng với đó, ngân sách Trung ương
cũng phải giữ vai trò chủ đạo để có thể thực hiện được những nhiệm vụ của chính
quyền Trung ương, đồng thời điều đó thể hiện sự tập trung quyền lực thống nhất
của Nhà nước từ trung ương đến địa phương, đảm bảo sự cầm quyền của Nhà
nước, tránh sự phân tán ở địa phương. Chính vì vậy, ngân sách trung ương phải
thực hiện tất cả các chức năng về kinh tế, xã hội của đất nước còn ngân sách địa
phương chỉ thực hiện những nhiệm vụ cụ thể ở địa phương và phải chịu sự quyết
định trực tiếp của ngân sách trung ương.
Vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương được thể hiện trên hai phương
diện sau :
Thứ nhất, ngân sách trung ương được nhà nước sử dụng vào điều tiết các
hoạt động ở tầm vĩ mô :
1


Thể hiện vai trò chủ đạo của mình, ngân sách trung ương tập trung phần lớn các


nguồn thu quan trọng nhất và phải đảm đương các nhiệm vụ chi chủ yếu của quốc
gia được quy định tại Điều 30 – Luật Ngân sách nhà nước 2002.
- Các khoản thu của ngân sách trung ương bao gồm hai nhóm lớn là các khoản thu
được tập trung toàn bộ vào ngân sách trung ương và các khoản thu phân chia theo
tỉ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương:
+ Các khoản thu trung ương được hưởng toàn bộ gồm : những khoản thu từ thuế
gián thu có liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu, từ thuế đánh vào thu nhập của
các đơn vị hạch toán toàn ngành; từ các khoản thuế và thu từ dầu khí; từ tiền thu
hồi vốn, thu hồi tiền cho vay của ngân sách trung ương, thu nhập từ vốn góp của
Nhà nước và thu từ viện trợ không hoàn lại cho Chính phủ Việt Nam.
+ Các khoản thu trung ương và địa phương được hưởng theo tỉ lệ phần trăm gồm :
các loại thuế gián thu không liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu. một vài loại
thuế trực thu như thuế thu nhập doanh nghiệp ( trừ phần thuế trung ương đã thu
100% ), thuế thu nhập cá nhân.
Ví dụ : Theo Bản cân đối ngân sách nhà nước 2011, Tổng thu ngân sách nhà nước
năm 2011 là 595,000 tỉ đồng trong đó nguồn thu nội địa là 382,000 tỉ đồng; thu từ
xuất khẩu tương đương 64,2% tổng thu chân đối ngân sách nhà nước; thu từ nhập
khẩu là 138,700 tỉ đồng tương đương với 23,31% tổng thu cân đối ngân sách nhà
nước, từ dầu thô là 69,300 tỉ đồng tương đướng với 11,65% tổng thu cân đối ngân
sách nhà nước; và thu viện trợ không hoàn lại 5000 tỉ đồng.
- Các khoản chi của ngân sách trung ương gồm : Chi đầu tư phát triển, chi thương
xuyên, chi trả nợ của Chính phủ, chi viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của
Trung ương và chi bổ sung cho ngân sách địa phương được quy định cụ thể tại
Điều 31 – Luật Ngân sách nhà nước 2002 (Phụ lục).
Hoạt động điều tiết này được thực hiện thông qua việc thu ngân sách từ các
nguồn như thuế khóa, hoa lợi hành chính và hoa lợi thương mại hay các khoản vay
2


nợ của Nhà nước từ công chúng hoặc vay nợ nước ngoài để tài trợ cho các nhu cầu

thiết yếu và lớn lao của Nhà nước về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quốc phòng
an ninh và hoạt động của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, thông qua việc thu thuế thu
nhập cá nhân, ngân sách trung ương góp phần điều tiết một phần thu nhập của một
nhóm người này để san sẽ cho một nhóm người khác, góp phần đem lại sự công
bằng tương đối về thu nhập giữa các giai tầng xã hội, đồng thời tạo ra các công
trình công như hệ thống đường xá, cầu cống, công trình phúc lợi công cộng, hệ
thống quốc phòng an ninh.
Có thể lấy ví dụ trong bản Dự toán ngân sách nhà nước trung ương theo lĩnh
vực năm 2011 ( phụ lục ), khoản chi cho đầu tư phát triển là 78,800 tỉ đồng, trong
đó chi cho đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỉ lệ cao nhất, lên đền 72,220 tỉ đồng.
Hay như khoản dự toán để chi trả nợ và viện trợ năm 2011 là 86,000 tỉ đồng, trong
đó chi trả nợ là 85,000 tỉ và chi cho viện trợ là 1,000 tỉ đồng.
Hay như trong quá trình thực thi, theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước (KBNN), 6
tháng đầu năm 2010, Đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản, KBNN đã giải ngân
được 80.858 tỷ đồng, đạt 45,9% so với kế hoạch vốn giao KBNN kiểm soát, thanh
toán.
Thứ hai, ngân sách trung ương điều hòa ngân sách địa phương bằng cách chi bổ
sung cho ngân sách địa phương, giúp ngân sách địa phương hoàn thành các mục
tiêu kinh tế - xã hội của mình, đồng thời hỗ trợ vốn cho các địa phương gặp khó
khăn nhất là các địa phương miền núi, vùng dân tộc và thực hiện các chương trình
mục tiêu quốc gia, xóa đói giảm nghèo, thực hiện chế độ đối với gia đình chính
sách, người có công với cách mạng.
Việc ngân sách trung ương tài trợ cho ngân sách cấp dưới là việc làm thường thấy
ở hầu hết các quốc gia, thể hiện vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương.
Các khoản chi bổ sung cho ngân sách địa phương gồm : các khoản thu bổ sung để
cân đối thu, chi ngân sách địa phương và các khoản thu bổ sung có mục tiêu giúp
3


cho địa phương thực hiện những nhiệm vụ mà pháp luật quy định. Mục đích của

việc chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới là để giải quyết tình trạng căng thẳng của
ngân sách cấp dưới do nguồn thu không đáp ứng đủ nhu cầu chi tiêu. Qua đó, cân
đối được nhiệm vụ thu chi ở cấp ngân sách địa phương.
Có thể thấy, ở nước ta, hình thức tài trợ kinh phí từ trung ương cho địa phương
dưới dạng bổ sung cân đối thu chi ngân sách mang hơi hướng của tài trợ vô điều
kiện được áp dụng ở Mỹ; còn khoản bổ sung có mục tiêu có dáng dấp của hình
thức tài trợ bất đối ứng, một dạng tài trợ có điều kiện của Mỹ.
Ví dụ : Theo Bản cân đối nguồn thu chi dự toán NSTW và NSĐP năm 2011 (phụ
lục), trong nguồn chi bổ sung cho ngân sách địa phương, có hai khoản chi là Chi
bổ sung cân đối 93,779 tỉ đồng và chi bổ sung có mục tiêu 32,429 tỉ đồng.

4



×