Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bài tập nhóm tháng số 2 luật hôn nhân và gia đình chấm dứt việc nuôi con nuôi và một số giải pháp hoàn thiện về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.59 KB, 14 trang )

MỞ BÀI
Nuôi con nuôi một hiện tượng xã hội một chế định pháp lý đã xuất hiện từ
lâu trong lịch sử pháp luật Việt Nam.Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha
mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm co nuôi...dựa trên ý chí
chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi
Chấm dứt việc nuôi con nuôi là căn cứ làm chấm dứt quan hệ cha mẹ và
con, quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, hiện nay việc chấm dứt nuôi con nuôi
còn diễn ra khá phổ biến, chấm dứt nuôi con nuôi đồng nghĩa với việc quan hệ
nhân thân và tài sản giữa cha mẹ và con chấm dứt,kéo theo đó là những hậu quả
nhất định. Pháp luật quy định cụ thể hóa về vấn đề này trong luật nuôi con nuôi
2010, xong bên cạnh đó còn có những hướng giải quyết, những quy định chưa
thực sự phù hợp với trên thực tế. Với bài tập nhóm “Chấm dứt việc nuôi con
nuôi và một số giải pháp hoàn thiện về vấn đề này” của chúng em có thể phần
nào hiểu rõ hơn về vấn đề này
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi
Chấm dứt việc nuôi con nuôi chỉ đạt ra trong những điều kiện hoàn cảnh
nhất dịnh, xuất phát từ yêu cầu của các bên chủ thể và phải được tòa án quyết
định.Việc nhân con nuôi phải có sự đồng công nhận của vơ quan nhà nước có
thẩm quyền thì mới có giá trị pháp lý. Do đó việc chấm dứt nuôi con nuôi cũng
phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, vì việc nhận con nuôi
hay chấm dứt nuôi con nuôi có ảnh hưởng sâu sắc đến quyền lợi ích của hai phía
đó là người nhận con nuôi và người con nuôi. Chấm dứt việc nuôi con nuôi được
áp dụng trong trường hợp việc nuoi con nuôi đã được thực hiện, đã có hiệu lực,
tức là quan hệ cha mẹ và con giữa người nuôi va con nuôi đã được thiết lập.
Chấm dứt nuôi con nuôi tức là chấm dứt quan hệ cha mẹ và con đó giữa hai bên


Chấm dứt nuôi con nuôi là việc chấm dứt quan hệ giữa cha mẹ và con do
tòa án quyết định theo yêu cầu các chủ thể mà pháp luật quy định.


Theo quy định tại điều 25 luật nuôi con nuôi năm 2010 theo đó có thể xác
định căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi:
Thứ nhất. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt
việc nuôi con nuôi
Thứ hai, Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng
sức khỏe nhân phẩm, danh sự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi
hoặc con nuôi có hành vi phá tài sản của cha mẹ nuôi
Thứ ba, Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính
mạng sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi, ngược đãi, hành hạ con nuôi
Thứ tư, Vi phạm các quy định tại điều 13 của luật nuôi con nuôi
1.2. Thủ tục và đường lối giải quyết
Chấm dứt nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lí , sẽ làm chấm dứt quyền cũng
như nghĩa vụ giữa người nuôi và người được nhận nuôi. Vì vậy chấm dứt nuôi
con nuôi phải tuân theo đầy đủ trình tự, thủ tục được qui định trong, Luật nuôi
con nuôi 2010 cũng như Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật tố tụng dân sự 2004
Điều 25 luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định những căn cứ chấm dứt
việc nuôi con nuôi khi có yêu cầu của những người quy định tại Điều 26 luật
nuôi con nuôi như sau
1. Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ
nuôi con nuôi
Đối với căn cứ này, cần đặt ra vấn đề cần giải quyết là:
Hành vi tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi của cha mẹ nuôi và
con nuôi đã thành niên phải đảm bảo sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí.
Tuy nhiên, sự tự nguyện này có cần thiết từ hai bên chủ thể (có sự thoả thuận của
cha mẹ nuôi và con nuôi) hay chỉ cần một bên chủ thể (hoặc bên cha mẹ nuôi
2


hoặc bên con nuôi). Thậm chí về phía cha mẹ nuôi nếu một bên cha nuôi hoặc
mẹ nuôi muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi còn bên kia không đồng ý chấm

dứt quan hệ nuôi con nuôi thì có thể chấm dứt việc nuôi con nuôi không? Và
chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi với cả cha, mẹ nuôi hay chỉ với người muốn
chấm dứt quan hệ đó?
Luật nuôi con nuôi không quy định cụ thể về việc nếu là vợ chồng nhận
nuôi con nuôi thì có bắt buộc có sự đồng ý của hai vợ chồng hay không, trước đó
Nghị định số 83/CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ quy định nếu người nuôi
con nuôi có vợ hoặc chồng thì trong đơn xin nhận nuôi phải có chữ kí của cả hai
vợ chồng. Điều này dẫn đến cách hiểu là có thể cả hai vợ chồng nhận nuôi con
nuôi và họ trở thành cha mẹ nuôi của đứa trẻ hoặc chỉ một bên vợ hoặc chồng
muốn nhận nuôi con nuôi còn bên kia chỉ đồng ý cho vợ hoặc chồng mình nhận
nuôi con nuôi và như vậy chỉ phát sinh quan hệ nuôi con nuôi giữa đứa trẻ với
một bên vợ hoặc chồng (là cha nuôi hoặc mẹ nuôi) còn người kia không đương
nhiên trở thành mẹ nuôi hoặc cha nuôi của đứa trẻ mà chỉ có thể trở thành cha
dượng hoặc mẹ kế của nó mà thôi. Từ sự phân tích trên đây, có thể nhận thấy, khi
chấm dứt việc nuôi con nuôi có thể xảy ra các trường hợp cụ thể là: Cha mẹ nuôi
và con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi; chỉ cha
nuôi hoặc mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi
con nuôi còn quan hệ nuôi con nuôi vẫn tồn tại giữa con nuôi và người còn lại
hoặc đương nhiên chấm dứt quan hệ bố dượng mẹ kế với đứa trẻ.
Ngoài ra, nếu chỉ một bên chủ thể là cha nuôi, mẹ nuôi hoặc người con
nuôi muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi thì quan hệ nuôi con nuôi có được
chấm dứt hay không? Tức là ở đây chỉ có sự tự nguyện của một bên chủ thể.
Theo quan điểm của chúng tôi, việc nhận nuôi con nuôi là nhằm gắn bó tình cảm
giữa cha mẹ và con, nếu một bên nhận thấy không thể đạt được mục đích ấy và

3


muốn chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi thì nên chấm dứt mối quan hệ này. Điều
này hoàn toàn hợp lý.

2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
nhân phẩm, danh dự của cha, mẹ nuôi; ngược đãi hành hạ cha, mẹ nuôi hoặc có
hành vi phá tán tài sản của cha, mẹ nuôi
Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009 đã quy định về các tội
danh này. Trong thực tế chúng ta gặp những trường hợp người con nuôi có hành
vi ngược đãi, hành hạ cha, mẹ nuôi như đối xử tồi tệ; gây nên sự đau đớn về thể
xác và tinh thần cho cha, mẹ nuôi. Cần lưu ý rằng chỉ trong trường hợp người
con nuôi có hành vi vi phạm đối với cha mẹ nuôi thì mới được coi là căn cứ để
chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. Nếu hành vi vi phạm đối với người khác thì
không được coi là căn cứ chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. Chính những hành vi
này đã phá vỡ mục đích của việc nuôi.
Chủ thể có quyền yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi
Điều 26 Luật nuôi con nuôi 2010 qui định về tổ chức, cá nhân có quyền yêu
cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. Các tổ chức, cá nhân đó bao gồm: cha mẹ nuôi,
con nuôi đã thành niên,cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con, cơ quan lao
động, thương binh, xã hội và hội liên hiệp phụ nữ.
Qui định các chủ thể có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi tại điều
26 tương ứng với qui định về các căn cứ chấm dứt việc nuôi con tại điều 25 của
Luật Nuôi con nuôi 2010, và các qui định này là hoàn toàn hợp lí.
Cha mẹ nuôi hoặc con nuôi đã thành niên đương nhiên có quyền yêu cầu
chấm dứt việc nuôi con nuôi khi có sự tự nguyện từ cả hai phía. Cha mẹ đẻ hoặc
người giám hộ của con nuôi cũng có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi
nếu con nuôi chưa thành niên, chưa thể tự mình yêu cầu tòa án và hơn hết là để
bảo đảm quyền và lợi ích của con nuôi. Trong thực tế có rất nhiều trường hợp
con nuôi bị đối xử tồi tệ, bị hành hạ đánh đập, việc nuôi con nuôi không nhằm
4


tạo ra gia đình cho con nuôi mà nhằm mục đích riêng của cha mẹ nuôi mà mục
đích này lại không tốt, con nuôi lại không biết mình có quyền yêu cầu và không

dám lên tiếng, khi đó, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ phải có sự can thiệp.
Bên cạnh chủ thể là cá nhân, luật cũng qui định cả tổ chức có quyền yêu cầu
chấm dứt việc nuôi con nuôi, đó là cơ quan lao động, thương binh, xã hội - cơ
quan trực tiếp quản lý các vấn đề về hôn nhân gia đình và hội phụ nữa, một tổ
chức chính trị- xã hội quan trọng. Khi có một trong các căn cứ để chấm dứt việc
nuôi con nuôi thì các tổ chức này có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con
nuôi. Qui định này góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của cả hai bên, cha mẹ nuôi
và con nuôi. Bên cạnh trường hộ cha mẹ nuôi ngược đãi con nuôi thì con nuôi
không thực hiện đúng nghĩa vụ, có hành vi không tốt, ngược đãi cha mẹ nuôi
cũng tồn tại. Các tổ chức sẽ đứng ra thay mặt để yêu cầu tòa án, đồng thời có sự
tư vấn, hướng dẫn cụ thể để cha mẹ nuôi, con nuôi hiểu và xem xét kĩ càng quyết
định chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Chủ thể có thẩm quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi
Nếu như điều 9 Luật nuôi con nuôi 2010 qui định nhiều chủ thể có thẩm quyền
đăng kí nuôi con nuôi thì Điều 10 chỉ qui định một chủ thể duy nhất có thẩm
quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi, đó là Tòa án. Việc chấm dứt
nuôi con nuôi phải được thể hiện bằng bản án hoặc một quyết định của Tòa án.
Đây sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc nhất để giải quyết các vấn đề sau khi chấm
dứt việc nuôi con nuôi. Nếu qui định chủ thể có thẩm quyền đăng kí thì cũng có
thẩm quyền chấm dứt sẽ gây ra nhiều bất cấp. Việc đăng kí nhận nuôi con nuôi
ban đầu hoàn toàn do tự nguyện nên sẽ dễ dàng hơn việc chấm dứt. Nếu giao cho
các cơ quan này sẽ dẫn đến chồng chất nhiệm vụ, quá trình giải quyết không đạt
hiệu quả, không minh bạch. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu nuôi con nuôi thuộc
về tòa án là hợp lí, tòa án sẽ có thời gian xem xét, giải quyết các trường hợp
chấm dứt nuôi con nuôi tốt hơn các cơ quan có thẩm quyền đăng kí.
5


Thủ tục:
Cả Luật nuôi con nuôi 2010 và Luật hôn nhân gia đình 2000 đều không

qui định cụ thể về trình tự, thủ tục chấm dứt nuôi con nuôi. Như vậy có nghĩa là
việc chấm dứt nuôi con nuôi sẽ được thực hiện theo qui định của bộ luật tố tụng
dân sự 2004 sửa đổi, bổ sung 2011. Nói chung, việc chấm dứt quan hệ cha mẹ
nuôi - con nuôi dù có tính chất chế tài hay không thì đều phải được thực hiện
bằng con đường tư pháp. Khi có đơn yêu cầu tòa án sẽ xem xét hồ sơ, chứng cứ
có liên quan, nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu thì sẽ thụ lý và giải quyết. Nếu hồ
sơ sai sót thì sẽ thông báo cụ thể và gửi trả hồ sơ. Tuy nhiên, bên cạnh đó có một
trường hợp đáng chú ý là nếu như việc chấm dứt nuôi con nuôi là sự tự nguyện
của cả hai bên hay không hay vẫn chỉ cần đơn của một bên? Đây cũng là điểm
mà pháp luật chưa qui định rõ ràng.
1.3. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi
Điều 27 luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định:
“1.Khi chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quyết định của toà án, các quyền
và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi cũng chấm dứt; nếu con nuôi chưa
thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì toà án ra quyết định
giao người đó cho cha mẹ đẻ hoặc cá nhân, tổ chức trông nom nuôi dưỡng.
2. Trong trường hợp con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản
đó; nếu con nuôi có công sức đóng góp vào khối tài sản chung của gia đình cha
mẹ nuôi thì được trích chia một phần từ khối tài sản chung đó theo thoả thuận
giữa con nuôi và cha mẹ nuôi; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu toà án
giải quyết.
3. Khi việc nuôi con nuôi chấm dứt, theo yêu cầu của cha mẹ đẻ hoặc của
người đã làm con nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc người
đã làm con nuôi được lấy lại họ, tên mà cha mẹ đẻ đã đặt.”
6


Như chúng ta đã biết, khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập về nguyên
tắc các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con sẽ phát sinh (khoản 1 điều 24 luật

nuôi con nuôi), bao gồm quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Vậy, khi chấm
dứt việc nuôi con nuôi thì đương nhiên quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản
giữa cha mẹ và con cũng chấm dứt.
Quan hệ nhân thân
Các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa cha mẹ và con như nghĩa vụ và
quyền của cha mẹ và con (Điều 34); nghĩa vụ và quyền của con (Điều 35); nghĩa
vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng (Điều 36); nghĩa vụ và quyền giáo dục con
(Điều 37); đại diện cho con (Điều 3), sẽ chấm dứt. Khi trở thành con nuôi người
khác thì người con nuôi này có thể sẽ thay đổi họ tên của mình, do đó, khi chấm
dứt việc nuôi con nuôi người con nuôi có thể được lấy lại họ, tên mà cha mẹ đẻ
đã đặt theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp người con nuôi chưa thành niên hoặc đã thành niên bị
tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình thì toà án ra quyết định giao người đó cho cha mẹ đẻ hoặc cá
nhân, tổ chức trông nom nuôi dưỡng. Với quy định này trên thực tế không phải
tất cả mọi trường hợp đều diễn ra một cách hoàn chỉnh toàn mỹ, trải qua nhiều
trình tự thủ tục nhất định thậm chí có trường hợp sau khi chấm dứt chưa có tổ
chức hay cá nhân nào nhận chăm lo nuôi dưỡng, nếu như trong khoảng thời gian
chấm dứt chưa có ai nhận chăm sóc thì quyền và lợi ích của những người con
nuôi này sẽ như thế nào, ai sẽ chịu trách nhiệm về khoảng thời gian đó. Do vậy
mà nó có thể ảnh hưởng tới sức khỏe tính mạng và lợi ích của người con nuôi.
Quan hệ tài sản
Các quyền và nghĩa vụ tài sản giữa cha mẹ và con như bồi thường thiệt hại
do con gây ra (Điều 40); quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 60); quyền quản lý,
định đoạt tài sản riêng của con (Điều 44,45,46) sẽ chấm dứt. Nếu con nuôi có tài
7


sản riêng thì được nhận lại tài sản đó, nếu có công sức đóng góp vào khối tài sản
chung của gia đình cha mẹ nuôi thì được trích chia một phần từ khối tài sản

chung đó theo thoả thuận hoặc do toà án giải quyết.
việc chấm dứt nuôi con nuôi cùng với đó là quyền và nghĩa vụ tài sản
chấm dứt, trường hợp mà người con nuôi không có tài sản tự nuôi sống mình, họ
bị mất năng lực hành vi dân sự, khoảng thời gian mà chưa có cá nhân tổ chức
nhận nuôi dưỡng thì cuộc sống của con nuôi không được đảm bảo,
2. Thực trạng
Khi áp dụng những vấn đề trên lý luận trong Luật nuôi con nuôi 2010 vào
trong thực tiễn, chúng ta đã gặp phải những vấn đề, những hạn chế cần giải
quyết. Sau đây là một số thực trạng mà nhóm đã thu thập được trong thực tế về
việc thi hành Luật nuôi con nuôi 2010
Về các căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi
Thứ nhất, khoản 1 Điều 25 Luật nuôi con nuôi 2010 có quy định: “Con
nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi”.
Theo quy định này thì người con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện
yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên căn cứ này không phù hợp với
mục đích và bản chất của việc nuôi con nuôi. Bởi vì khi nhận nuôi con nuôi, cả
hai bên đều có mục đích là nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con. Quan hệ cha
mẹ và con là một quan hệ bền vững, chặt chẽ, không thể chấm dứt một cách dễ
dàng, đơn giản cho nên phải có những lý do nhất định thì các bên mới yêu cầu
chấm dứt nuôi con nuôi. Vì vậy, quy định này không phù hợp với thực tiễn.
Trong thực tiễn xét xử có thể xảy ra trường hợp cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi
tự nguyện và yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi, tuy nhiên, đối chiếu với quy định
của pháp luật thì chưa có cơ sở nào để giải quyết
Ví dụ: Vợ chồng ông A trong hoàn cảnh quá khó khăn đã đồng ý cho con
mình ( là N) làm con nuôi của vợ chồng ông B. Việc nhân con nuôi đã được đăng
8


ký theo thủ tục luật định. Sau này, vợ chồng ông A đã có kinh tế khá giả hơn do
làm ăn buôn bán nên muốn nhận lại N. Cả hai bên vợ chồng ông A và vợ chồng

ông B đều tự nguyện và có yêu cầu chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. Căn cứ
theo quy định tại Điều 25 Luật nuôi con nuôi 2010 thì không có căn cứ để chấm
dứt việc nuôi con nuôi trong trường hợp này, vì giữa cha mẹ nuôi và con nuôi
hoàn toàn không có mâu thuẫn, không có các dấu hiệu được quy định tại khoản
2, khoản 3, khoản 4 Điều 25. Mặt khác, ta cũng không thể áp dụng quy định của
khoản 1 trong trường hợp này vì không phải là N tự nguyện chấm dứt mà là ông
bà A – cha mẹ đẻ của N – yêu cầu chấm dứt.
Thứ hai, căn cứ được quy định tại khoản 2 Điều 25: “Con nuôi bị kết án
về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá
tán tài sản của cha mẹ nuôi” có thể coi là lỗi của người con nuôi đối với cha mẹ
nuôi. Tuy nhiên, trên thực tế, có trường hợp con nuôi có những hành vi nói trên
đối với thân nhân của cha mẹ nuôi, đối với các thành viên khác trong gia đình
của cha mẹ nuôi, hoặc hành vi đối với người khác… dẫn tới việc cha mẹ nuôi
không muốn tiếp tục quan hệ với con nuôi. Trong khi đó, pháp luật hiện nay
không quy định về vấn đề phát sinh thêm này. Vì vậy, pháp luật cần điều chỉnh
để làm tăng quyền lợi hợp pháp của cha mẹ nuôi.
Thứ ba, căn cứ được quy định tại khoản 4 Điều 25: “Vi phạm quy định tại
Điều 13 của Luật này”. Đây là quy định mới của pháp luật, tuy nhiên xem xét thì
chúng ta thấy được nội dung Điều 13 có nhiều căn cứ có thể hủy ( ví dụ khoản 2
Điều 13: “Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi”), nhưng cũng có
nhiều căn cứ là chấm dứt. Hai trường hợp này là không đồng nhất, song vì Luật
Nuôi con nuôi vẫn chưa quy định trường hợp hủy việc nuôi con nuôi nên khó có
thể áp dụng cho chính xác trong thực tiễn. Vướng mắc này cần được hoàn thiện

9


kịp thời, đảm bảo được quyền lợi của các bên, đặc biệt là đối với trẻ em được
nhận nuôi

Về thủ tục và đường lối giải quyết việc chấm dứt nuôi con nuôi:
Về đường lối giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi, pháp luật hiện hành
không co quy định cụ thể. Vì vậy, pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể về từng
trường hợp giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi để bảo vệ quyền, lợi ích
chính đáng của các bên, đặc biệt là của con nuôi chưa thành niên. Trước đây,
Nghị quyết 01/1988 hướng dẫn Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 đã quy định các
trường hợp chấm dứt việc nuôi con nuôi tại mục c điểm 6.
Về hậu quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi:
Quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt có các hậu quả pháp lý là: Quan hệ nhân
thân và quan hệ tài sản.
Về quan hệ nhân thân, trong thực tiễn hầu như không xảy ra vướng mắc
đáng kể.
Về quan hệ tài sản, Luật con nuôi 2010 quy định: “Trong trường hợp con
nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản đó; nếu con nuôi có công sức
đóng góp vào khối tài sản chung của gia đình cha mẹ nuôi thì được trích một
phần từ khối tài sản chung đó theo thỏa thuận giữa con nuôi và cha mẹ nuôi;
nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.”. Thực tiễn giải quyết
đã nổi lên một số vấn đề:
Theo quy định tại khoản 5 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là
loại việc dân sự. Nhưng trong thực tiễn xét xử do có tranh chấp nên tòa án giải
quyết theo thủ tục vụ án dân sự. Vì thế quy định của luật chưa thật phù hợp với
thực tiễn, khi giải quyết các tranh chấp trong thực té sẽ không có cơ sở pháp lý
để giải quyết, như vậy sẽ khó khăn cho cơ quan nhà nước trong quá trình giải
quyết, đồng thời không đảm bảo được quyền lợi của các bên liên quan.

10


Như đã phân tích ở trên những căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi tại
Điều 25 Luật nuôi con nuôi 2010 thì những căn cứ này có những điểm chưa rõ

ràng, gây nên nhiều cách hiểu khác nhau trong cùng một điều luật và không đầy
đủ. Điều đó sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi
trong thực tiễn. Vì vậy cần quy định một cách rõ ràng, cụ thể các căn cứ chấm
dứt việc nuôi con nuôi để dễ dàng trong việc áp dụng.
Như đã nói ở trên, pháp luật hiện hành không có quy định nào về việc
hủy nuôi con nuôi, nhưng vấn đề này vẫn xảy ra trong thực tiễn xét xử. Thực tế,
khi xác lập quan hệ nuôi con nuôi vẫn xảy ra việc vi phạm các điều kiện nuôi
con nuôi và các bên yêu cầu Tòa án giải quyết để hủy quan hệ nuôi con nuôi.
Bản chất việc hủy quan hệ nuôi con nuôi và chấm dứt nuôi con nuôi là khác
nhau, về cả căn cứ, trình tự và hậu quả pháp lý.
Ví dụ: Vợ chồng chị H nhận cháu K 10 tuổi làm con nuôi. Tuy nhiên, khi
làm thủ tục nhận con nuôi không có sự đồng ý của cháu K. Khi lớn lên, vì một số
lý do mà K không muốn tiếp tục làm con nuôi của vợ chồng chị H nữa. K đã yêu
cầu Tòa án giải quyết hủy việc nuôi con nuôi giữa K và cha mẹ nuôi là vợ chồng
chị H với căn cứ là khi nhận nuôi con nuôi không có sự đồng ý của mình. Tòa án
đã không giải quyết cho hủy việc nuôi con nuôi giữa K và vợ chồng chị H, vì
chưa có quy định nào của pháp luật về vấn đề này.
Hiện nay, luật nuôi con nuôi cũng không có quy định nào về hủy việc nuôi
con nuôi mặc dù vấn đề này có thể xảy ra trong thực tiễn xét xử, ví dụ trường
hơp nhận con nuôi vi phạm một trong các điều kiện của việc nuôi con nuôi như
vi phạm về độ tuôi sử dụng con nuôi vào mục đích mại dâm, mua bán ma túy.
Những hành vi này chưa được quy định cụ thể trong các trường hợp chấm dứt
nuôi con nuôi theo quy định tại điều 13 luật nuôi con nuôi 2010 nên không thể áp
dụng để giải quyết. Hành vi này nên quy định hủy việc nuôi con nuôi. Pháp luật

11


cũng chưa có quy định cụ thể giữa hủy việc nuôi con nuôi và chấm dứt việc nuôi
con nuôi

3. Giải pháp hoàn thiện
Vấn đề chấm dứt nuôi con nuôi còn tồn tại nhiều hạn chế, để hoàn thiện
pháp luật vấn đề này cần đưa ra một số giải pháp:
Quy định về sự tự nguyện chấm dứt nuôi con nuôi là chưa phù hợp bởi
trên thực tế khi nhận nuôi con nuôi, cả hai bên đều nhằm xác lập quan hệ cha mẹ
và con. Quan hệ dù là cha mẹ và con nuôi song vẫn được pháp luật bảo vệ, hơn
nữa quan hệ cha mẹ và con là bền vững, chặt chẽ, không thể chấm dứt một cách
dễ dàng, đơn giản. Việc chấm dứt xảy ra thường họ chịu tác động từ ảnh hưởng
khách quan từ bên ngoài, ít khi do chính bản thân họ tự nguyện chấm dứt đi một
quan hệ nhân thân bền vững.
Cần điều chỉnh lại về chủ thể có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con
nuôi đó là con nuôi đã thành niên mới có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con
nuôi. Cần điều chỉnh lại về độ tuổi này, bởi nếu như người con chưa thành niên
họ bị ngược đãi, đối sử thậm tệ do vậy mà họ có thể yêu cầu việc chấm dứt đó
lại, nếu họ không tự mình có quyền thì nên yêu cầu người giám hộ thực hiện
công việc này để đảm bảo lợi ích của người con nuôi.
Cần có những quy định cụ thể hơn về việc chấm dứt nuôi con nuôi khi con
nuôi bị mất năng lực hành vi dân sự, nếu như trong thời gian mà chấm dứt mà
chưa tìm thấy cha mẹ đẻ hay chưa có tổ chức cá nhân nào đứng ra nuôi dưỡng
hay thủ tục chưa xong thì trong khoảng thời gian đó cha mẹ nuôi sẽ tiếp tục nuôi
dưỡng cho đến khi người con nuôi có nơi ở mới, xong quy định này chỉ được
thực hiện tới một thời gian nhất định, quy định về khoảng thời gian cụ thể để
tránh việc các cá nhân, tổ chức lợi dụng việc chăm lo đó để trục lợi cho mình...
Quy định rõ hơn về mức độ ảnh hưởng, bị xâm hại của cha mẹ nuôi đối
với con nuôi và con nuôi đối với cha mẹ nuôi. Quy định rõ hơn về mức độ phân
12


tán tài sản là như thế nào, mức tối thiểu là bao nhiêu, vấn đề tài sản mà ảnh
hưởng tới sức khỏe của cha mẹ nuôi ra sao.

Hành vi nguy hiểm đến tính mạng của cha mẹ nuôi do cố ý gián tiếp,
không trực tiếp gây ra hậu quả lớn thì cũng nên xem xét đến yếu tố này, không
phải chỉ có lỗi cố ý mới chấm dứt việc nuôi con nuôi. trên thực tế có nhiều
trường hợp vì muốn chiếm tài sản của cha mẹ nuôi mà người con nuôi thuê
người cướp, trộm, giết chết cha mẹ nuôi để nhằm chiếm đoạt tài sản, do vậy mà
với hành vi nguy hiểm này cần phải chấm dứt nuôi con nuôi để tránh gây ra thêm
hậu quả. Quy định cụ thể hậu quả đó gây ra tối thiểu là bao nhiêu % về thân thể,
tài sản..
Cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ thỏa thuận chấm dứt việc nuôi con nuôi, vì lợi
ích tốt nhất của con nuôi; đối với con nuôi từ 09 tuổi trở lên, thì phải có ý kiến
của con nuôi
Việc chấm dứt nuôi con nuôi rất dễ dẫn đến việc tranh chấp như tranh
chấp giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi, giữa con đẻ
và con nuôi do vậy nên quy định trường hợp chấm dứt nuôic on nuôi là vụ án
dân sự thay vào đó là việc dân sự
Đường lối giải quyết việc nuôi con nuôi cần được quy định rõ ràng, quy
định cụ thể trong từng trường hợp từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng
pháp luật
Nên quy định vụ thể về thôi phục quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con.
Nếu giữa hai bên cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ đã thỏa thuận lựa chọn nuôi con nuôi
đầy đủ trước đó thì cha mẹ đẻ và con đã làm cho con nuôi không đương nhiên
khôi phục quyền và nghĩa vụ với nhau, quy định cụ thể về hệ quả pháp lý của
việc chấm dứt nuôi con nuôi tránh xảy ra tranh chấp

13


Quy định về hủy việc nuôi con nuôi, căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi một
số trường hợp không phải là chấm dứt nuôi con nuôi mà là hủy việc nuôi con
nuôi.

KẾT LUẬN
Nuôi con nuôi là căn cứ xác lập quyền nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con.
Việc chấm dứt nuôi con nuôi chấm dứt quyền nuôi dưỡng đó, quan hệ về nhân
thân và tài sản chấm dứt, Việc đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
phần nào giúp chúng ta nhìn nhận sự việc một cách toàn diện hơn về vấn đề này
Dù cố gắng đọc tìm hiểu tài liệu, vận dụng những kiến thức học tập cũng
như khả năng tư duy của các thành viên trong nhóm song bài viết vẫn không thể
tránh khỏi những sai xót nhất định, do vậy nhóm chúng em rất mong được các
thầy cô đóng góp ý kiến để cho bài viết thêm hoàn thiện. chúng em xin cảm ơn!

14



×