Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tố tụng dân sự nhóm t1 người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.25 KB, 10 trang )

Bài tập nhóm tháng 1
A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, trong pháp luật dân sự và pháp luật TTDS nước ta, chế định người đại
diện được coi là một chế định quan trọng, có ý nghĩa lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. BLTTDS đã có những quy định cụ thể, rõ ràng về
người đại diện của đương sự trong TTDS. Trong đó nêu rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của
người đại diện của đương sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự đã được đề cao,
qua đó giúp cho người đại diện của đương sự chủ động trong việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ tố tụng của mình.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái niệm, đặc điểm, phân loại người đại diện của đương sự
1.Khái niệm.
Theo bộ luật dân sự thì đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện)
nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập,
thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.( khoản 1 Điều 139 BLDS).Trong
pháp luật TTDS hiện hành chưa có quy định cụ thể về khái niệm người đại diện của
đương sự mà chỉ quy định: “Người đại diện trong TTDS bao gồm người đại diện theo
pháp luật và người đại diện theo ủy quyền” (khoản 1 Điều 73 BLTTDS). Tuy nhiên, từ lý
luận và các quy định của pháp luật hiện hành, ta có thể hiểu rằng: “Người đại diện của
đương sự là người tham gia tố tụng thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố
tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án”
2.Đặc điểm.
Thứ nhất, người đai diện của đương sự là cá nhân có đủ năng lực hành vi tố tụng
dân sự.
Thứ hai, người đại diện là người nhân danh, thay mặt đương sự thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự.
Thứ ba, để đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc được khách quan, trong một số
trường hợp hạn chế đại diện ủy quyền
3. Phân loại
Có rất nhiều tiêu chí khác nhau được dùng để phân loại người đại diện của đương sự


như:

Nhóm 03 –TL4 – N02

Page 1


Bài tập nhóm tháng 1
Dựa vào vị trí của người được đại diện, người đại diện được phân thành người đại
diện cho nguyên đơn, người đại diện cho bị đơn và người đại diện cho người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
Dựa vào chủ thể được đại diện, người đại diện được phân ra thành người đại diện
cho cá nhân, người đại diện cho cơ quan tổ chức.
Dựa vào căn cứ xác lập thì người đại diện được phân ra thành người đại diện theo
pháp luật và người đại diện theo ủy quyền, người đại diện do Tòa án chỉ định.
II. Pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành quy định về người đại diện của đương sự
1.Căn cứ phát sinh.
1.1.Người đại diện theo pháp luật
Theo Điều 140 BLDS năm 2005 quy định: “Đại diện theo pháp luật là đại diện
do pháp luật quy định hoặc do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định”. Theo đó,
người đại diện theo pháp luật của đương sự trong là người tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết
định của cơ quan có thẩm quyền. Theo điều 141 BLDS 2005 thì người đại diện theo
pháp luật của đương sự trong TTDS gồm:
-Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
-Người giám hộ đối với người được giám hộ;
-Người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
-Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
-Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;

-Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác.
1.2. Người đại diện theo ủy quyền.
Theo pháp luật dân sự thì “Đại diện ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy
quyền giữa người đại diện và người được đại diện” (Khoản 1 Điều 142 BLDS 2005). Và
BLTTDS năm 2004 cũng quy định “Người đại diện theo ủy quyền được quy định trong
BLDS là người đại diện ủy quyền trong TTDS; đối với việc ly hôn, đương sự không được
ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng” (Khoản 3 Điều 73 BLTTDS
2004).

Nhóm 03 –TL4 – N02

Page 2


Bài tập nhóm tháng 1
Như vậy, có thể hiểu người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS là
người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo sự
ủy quyền của đương sự. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của đương sự không
thể trực tiếp tham gia TTDS mà ủy quyền cho luật sư hoặc người khác (trừ trường hợp
không được làm người đại diện theo ủy quyền của đương sự) tham gia tố tụng thì người
này là ngượi đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS.
Từ đó, có thể thấy quan hệ đại diện theo ủy quyền trong TTDS được xác lập theo
ý chí của đương sự, được thể hiện bằng sự ủy quyền giữa người được đại diện và người
đại diện. Về nguyên tắc, việc ủy quyền giữa đương sự và người đại diện phải được lập
thành văn bản, văn bản đó phải nêu rõ nội dung ủy quyền, phạm vi ủy quyền và trách
nhiệm của người đại diện theo ủy quyền. Văn bản ủy quyền chỉ được coi là hợp pháp nếu
văn bản đó được xác nhận tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu đương sự là cá
nhân, văn bản ủy quyền phải được chứng thực tại UBND xã, phường, thị trấn hoặc tại cơ
quan công chứng. Nếu đương sự là pháp nhân, văn bản ủy quyền phải được pháp nhân kí
và đóng dấu pháp nhân.

1.3. Người đại diện theo Tòa án.
Trong trường hợp pháp luật không quy định hoặc có quy định nhưng người đại
diện theo pháp luật lại rơi vào trường hợp bị cấm đại diện thì Tòa án có thể chỉ định một
người đại diện theo pháp luật cho đương sự. Trong đại diện theo sự chỉ định của Tòa án,
tuy đương sự cũng là người bị hạn chế năng lực hành vi tố tụng dân sự nhưng khác với
đương sự trong đại diện theo quy định của pháp luật, đương sự được chỉ định người đại
diện theo quyết định của Tòa án là người không có người đại diện (người đại diện theo
pháp luật của họ đã chết hoặc không đủ điều kiện để làm người đại diện) hoặc đã có
người đại diên cho họ nhưng người đại diện của họ lại thuộc một trong các trường hợp
phải thay đổi người đại diện tại khoản 1 Điều 75 BLTTDS. Ví dụ theo điểm a khoản 1
Điều 75, Điều 76 thì trong các trường hợp ly hôn giữa người vợ và người chồng bị hạn
chế năng lực hành vi tố tụng, Tòa án sẽ chỉ định cha, mẹ của người chồng mất năng lực
hành vi tố tụng dân sự làm người đại diện.
2.Quyền và nghĩa vụ.
2.1.Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật
- Cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình:
Trong TTDS, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh của NĐD theo pháp luật của ĐS

Nhóm 03 –TL4 – N02

Page 3


Bài tập nhóm tháng 1
được hình thành trên cơ sở nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh của ĐS bời vì NĐD
của ĐS là người thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của ĐS.
- Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp
chứng cứ cho mình để giao nộp cho Toà án: Chứng cứ trong vụ việc dân sự do cá nhân,
cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý. Vì vậy, NĐD theo pháp luật của ĐS có quyền yêu cầu
cá nhân, cơ quan lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp

cho Tòa án. Trong trường hợp đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà cá nhân, cơ quan
vẫn không cung cấp chứng cứ thì họ có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thấp chứng cứ
(Đ94).
-

Đề nghị Toà án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể

thực hiện được hoặc đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định,
định giá; khiếu nại với Viện kiểm sát về những chứng cứ mà Toà án đã xác minh, thu
thập do đương sự khác yêu cầu: Đây là các trường hợp người đại diện của đương sự
không thể tự mình thực hiện việc thu thập chứng cứ, thì có thể sử dụng quyền này để đề
nghị cơ quan tiến hành tố tụng là Toà án, Viện kiểm sát, với tư cách là các cơ quan quyền
lực nhà nước, thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho việc thu thập chứng cứ để giải quyết vụ
việc;
-

Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất

trình hoặc do Toà án thu thập: Do thu thập chứng cứ là quyền của nhiều chủ thể tham gia
tố tụng dân sự nên để đảm bảo tính khách quan và công bằng trong quá trình giải quyết,
người đại diện theo pháp luật, có quyền được biết và xem xét các chứng cứ khác không
phải do mình thu thập để có thể chuẩn bị cho các bước tiếp theo của quá trình tố tụng,
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người được đại diện;
Đề nghị Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Trong các
trường hợp nhằm giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản,
bảo vệ bằng chứng hoặc để đảm bảo thi hành án, NĐD theo pháp luật của ĐS có quyền
đề nghị Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hoà giải do Toà án tiến
hành: Quyền tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án là quyền của đương sự nên NĐD
theo pháp luật của ĐS có quyền thay mặt ĐS mà mình đại diện tiến hành giải quyết vụ án. Mặt

khác, trước khi Tòa mở phiên tòa sơ thẩm hòa giải còn là thủ tục bắt buộc. Tòa án có một vai trò
quan trọng, tạo điều kiện để các bên đương sự gặp gỡ, hòa giải.
Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình.
Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quền và lợi ích hợp pháp của mình.
Nhóm 03 –TL4 – N02

Page 4


Bài tập nhóm tháng 1
-

Tham gia phiên toà: Khi tham gia phiên tòa, NĐ D hợp pháp của ĐS có quyền

tranh luận, đưa ra những chứng cứ, chứng minh của mình để bảo vệ quyền lợi của ĐS.
Yêu cẩu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy
định của Bộ luật này: Để giải quyết đúng đắn các vụ việc dân sự, NĐ D hợp pháp của
ĐS có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.
Đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau
hoặc với nhân chứng. Quy định này nhừm bảo đảm công bằng, minh bạch trong việc
giải quyết vụ án dân sự.
Tranh luận tại phiên toà: Đây là hoạt động trung tâm của phiên Tòa. Mục đích
của tranh luận là làm rõ hơn các tình tiết, sự kiện của vụ án. Tạo điều kiện cho các đương
sự tự chứng minh bằng các chứng cứ, lý lẽ của mình;
Được cấp trích lục bản án, quyết định của Toà án.
Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật
này.
-

Phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để kháng


nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật.
Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án và chấp hành các quyết định của
Toà án trong thời gian giải quyết vụ án.
Tôn trọng Toà án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà.
Nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.
Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
2.2. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền
Do xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự, đương sự có thể ủy quyền
người đại diện một phần hoặc toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của mình. Việc đại diện
theo ủy quyền được thực hiện thông qua Hợp đồng ủy quyền hoặc văn bản ủy quyền.
“Người đại diện theo ủy quyền trong TTDS sẽ thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS theo
nội dung văn bản ủy quyền”. Như vậy, có thể khẳng định Người đại diện theo ủy quyền
của đương sự chỉ được thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng thay cho đương sự
trong phạm vi ủy quyền.
2.3. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo quyết định của Tòa án
Người đại diện của đương sự do Tòa án chỉ định tham gia TTDS sau khi có quyết
định của Tòa án chỉ định họ, phạm vi tham gia tố tụng của họ không bị hạn chế trong các
loại việc.

Nhóm 03 –TL4 – N02

Page 5


Bài tập nhóm tháng 1
Theo điều 140 BLDS thì: “Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy
định hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định” nên người đại diện của dương sự do Tòa
án chỉ định được thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự mà họ đại

diện như người đại diện theo pháp luật nhưng chỉ trong phạm vi mà Tòa án chỉ định.
Như vậy, người đại diện do Tòa án chỉ định là người đại diện theo pháp luật, họ cũng có
những quyền và nghĩa vụ như người đại diện theo pháp luật nhưng tùy vào từng vụ án,
tùy theo nội dung trong quyết định chỉ định người đại diện của Tòa án.
3. Những trường hợp không được làm người đại diện.
3.1. Những trường hợp không được làm người đại diện theo pháp luật.
Trước hết, để một người có thể làm người đại diện thì người đó phải là cá nhân có
năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ, nhằm bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự mà họ đại diện. Như vậy, những người không có năng lực hành vị tố tụng
dân sự thì không thể làm đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự được.
Tuy vậy, có những người đảm bảo đầy đủ điều kiện trên nhưng họ vẫn không
được làm người đại diện theo pháp luật của đương sự do thuộc một trong các trường hợp
sau:
-Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện mà
quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được
đại diện;
-Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương
sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp
pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án ( Khoản 1 Điều 75 BLTTDS 2004)
Ví dụ, trong vụ án về tranh chấp tài sản thừa kế, anh A và người em ruột B ( là người
chưa thành niên) cùng là đương sự thì anh A sẽ không được làm người đại diện theo
pháp luật cho người em chưa thành niên của mình.
3.2. Những trường hợp không được làm người đại diện ủy quyền.
Giống như đại diện theo pháp luật, một người sẽ không được làm đại diện theo ủy
quyền cho đương sự nếu họ “cũng là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại
diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của
người được đại diện”; hoặc “họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân
sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với
quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án” (khoản 1, 2
Nhóm 03 –TL4 – N02


Page 6


Bài tập nhóm tháng 1
Điều 75 BLTTDS). Bên cạnh đó, trong đại diện theo ủy quyền, pháp luật tố tụng dân sự
còn qui định “cán bộ, công chức trong các ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an không
được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư
cách người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp
luật” (khoản 3 Điều 75 BLTTDS).
4.Chấm dứt đại diện và hậu quả pháp lý.
4.1. Chấm dứt đại diện theo pháp luật và hậu quả pháp lý.
Theo quy định tại Điều 77 BLTTDS thì “người đại diện theo pháp luật trong tố
tụng dân sự chấm dứt việc đại diện theo quy định của BLTTDS”.
Thứ nhất, đối với đại diện theo pháp luật của đương sự là cá nhân, quan hệ đại diện sẽ
chấm dứt khi:
-Người được đại diện đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục.
Khí đó, người đại diện đã đầy đủ năng lực hành vi dân sự để tự mình thực hiện các
quyền, nghĩa vụ tố tụng và có khả năng tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hành
vi của mình. Do đó, quan hệ đại diện không cần thiết phải tiếp tục tồn tại.
-Người được đại diện hoặc người đại diện chết; khi một người chết sẽ làm chấm dứt tư
cách chủ thể mọi quan hệ pháp luật của họ trong đó có quan hệ đại diện.
-Người đại diện mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Trong trường hợp này người đại diện không có khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi của mình nên cũng không thể làm người đại diện theo pháp luật của đương sự.
-Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Thứ hai, đối với đại diện theo pháp luật của đương sự là pháp nhân, quan hệ đại diện sẽ
chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt. Pháp nhân chấm dứt khi pháp nhân hợp nhất, sáp
nhập, chia, giải thể và bị tuyên bố phá sản theo quy định của luật phá sản. Khi đó quan
hệ đại diện của pháp nhân đương nhiên sẽ không còn tồn tại.

Việc chấm dứt đại diện theo quan hệ pháp luật trong TTDS sẽ dẫn tới hậu quả
pháp lý như sau: Trong trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật mà người được đại
diện đã thành niên hoặc khôi phục năng lực hành vi dân sự thì người đó tự mình tham
gia tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng dân sự theo thủ tục
BLTTDS 2004 quy định (khoản 1 Điều 78 BLTTDS).
4.2. Chấm dứt đại diện theo ủy quyền và hậu quả pháp lý.

Nhóm 03 –TL4 – N02

Page 7


Bài tập nhóm tháng 1
Thứ nhất, đại diện ủy quyền đối với đương sự là cá nhân, quan hệ đại diện sẽ chấm dứt
khi:
-Thời hạn ủy quyền hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành;
-Người ủy quyền hủy việc ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền.
Trong trường hợp này quan hệ ủy quyền chấm dứt theo ý chỉ của các chủ thể khi xuất
hiện điều kiện để họ hủy bỏ hoặc từ chối việc ủy quyền.
-Người ủy quyền hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết. Các sự việc này
đều làm cho việc ủy quyền trở nên không thể thực hiện được, quan hệ đại diện phải
chấm dứt.
Thứ hai, đại diện ủy quyền đối với đương sự là pháp nhân, quan hệ đại diện chấm dứt
khi:
-Thời hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành.
-Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hủy bỏ việc ủy quyền hoặc người được ủy
quyền từ chổi việc ủy quyền.
-Pháp nhân chấm dứt hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết.

Sau khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, đương sự hoặc người thừa kế của đương
sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc ủy quyền cho người khác đại diện tham gia tố tụng
theo thủ tục do BLTTDS 2004 quy định (Khoản 2 Điều 78 BLTTDS).
III. Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật
về người đại diện trong TTDS.
1.Những hạn chế, bất cập của pháp luật TTDS về người đại diện của đương sự.
Pháp luật TTDS đã quy định khá đầy đủ về quyền, nghĩa vụ của người đại diện
của đương sự. Các quy định này chính là cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết các vụ việc
dân sự đồng thời là cơ sở để người đại diện của đương sự thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật TTDS còn chưa thực sự đầy đủ và
chi tiết dẫn đến việc thực hiện không thống nhất và còn nhiều vướng mắc.
Thực tế về việc chấm dứt đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự: Người đại
diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền trong TTDS chấm dứt việc đại diện
theo quy định của BLDS (Điều 78 BLTTDS).Một trong những căn cứ để chấm dứt đại
diện theo pháp luật của cá nhân là “người đại diện đã thành niên hoặc năng lực hành vi
Nhóm 03 –TL4 – N02

Page 8


Bài tập nhóm tháng 1
đã được khôi phục”. Trong thực tế nhiều vụ việc khi mới đưa ra xét xử, đương sự mới là
người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự, Tòa án đã triệu tập cha,
mẹ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật của đương sự.
Do xét xử trong thời gia kéo dài nên trong một số vụ việc đương sự đã thành niên hoặc
năng lực hành vi dân sự đã khôi phục, khi đó tư cách người đại diện theo pháp luật của
cha, mẹ chấm dứt. Tuy nhiên, nhiều trường hơp trên thực tế Tòa án vẫn tiếp tục triệu tập
cha, mẹ của đương sự tham gia tố tụng với tu cách người đại diện theo pháp luật của
đương sự. Còn đối với đại diện theo ủy quyền, do không hiểu biết sâu sắc về pháp luật
nên trong một số trường hợp giấy ủy quyền không ghi rõ thời hạn, điều kiện chấm dứt

việc ủy quyền, vượt quá yêu cầu đại diện, gây khó khăn, tranh chấp và gây thiệt hại cho
người được đại diện.
Về việc xác định tính hợp pháp về hình thức của đơn khởi kiện do người đại diện
theo ủy quyền đứng tên khởi kiện: Về hình thức, nội dung đơn khởi kiện, tại Điểm 1
Khoản 2 Điều 164 BLTTDS quy định: “Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc
điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì phải đóng dấu ở phần cuối đơn”. Trong khi
đó Điều 161 BLTTDS ghi nhận “cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông
qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi hiện) tại
Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là khi áp dụng cả hai điều luật này thì “người đại diện hợp
pháp” sẽ được hiểu như thế nào? “Người đại diện hợp pháp bao gồm người đại diện
theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền hay người”người đại diện hợp pháp ở
đây được hiểu chính là người đại diện theo pháp luật? Và khi nguyên đơn lập hợp đồng
ủy quyền cho người được ủy quyền thay mặt mình giải quyết tranh chấp cả trong giai
đoạn tiền tố tụng và trong quá trình tố tụng tại Tòa án; người đại diện theo ủy quyền làm
đơn khởi kiện và ký tên trong đơn khởi kiện thì đơn khởi kiện này có được coi là hợp
pháp không?
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự
trong TTDS.
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Cụ thể sửa đổi bổ
sung Điều 76 BLTTDS về việc “chỉ định người đại diện cho đương sự”.Về thẩm quyền
chỉ định người đại diện; tiêu chuẩn người đại diện; thủ tục để khắc phục những tranh
chấp nảy sinh do việc chỉ định người đại diện;
Nhóm 03 –TL4 – N02

Page 9


Bài tập nhóm tháng 1
Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ can bộ Tòa án. Phải bổ xung những cán bộ

Tòa án có năng lực thông qua cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm thích hợp. Đẩy mạnh công
tác đào tạo,bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ Tòa án thông qua
các chương trình đào tạo ngắn hạn, dài hạn...
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Thường
xuyên phát động các phong trào, cuộc thi tìm hiểu về pháp luật dưới nhiều hình thức
khác nhau, trong đó ưu tiên sử dụng các Phương tiện truyền thông trên truyền hình báo
đài....
IV – Kết Luận
Thực tế cho thấy rằng các quy định của pháp luật TTDS về vấn đề này còn chưa
thực sự hoàn thiện dẫn đến việc thực hiện gặp nhiều vướng mắc cũng như không thống
nhất. Vì vậy việc nghiên cứu nhằm sửa đổi bổ sung là rất cần thiết nhằm hoàn thiện hơn
nữa các quy định về “người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự”.

Nhóm 03 –TL4 – N02

Page 10



×