Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

BÀI tập lớn học kỳ LUẬT NGÂN HÀNG (8 điểm) tìm hiểu hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng và những vấn đề thực tiễn pháp l

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.01 KB, 21 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Đối với một đất nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nhu cầu về
vốn của của các cá nhân, tổ chức để phục vụ sản xuất kinh doanh là rất lớn. Bằng hình
thức cho vay vốn thông qua các hợp đồng tín dụng, các tổ chức tín dụng đã đáp ứng
phần nào nhu cầu đó, đồng thời chứng minh vai trò quan trọng của mình đối với sự
phát triển của nền kinh tế nước nhà. Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, hoạt
động tín dụng của hệ thống ngân hàng những năm gần đây (đặc biệt trong năm 2012
trở lại đây) đã nảy sinh một số biểu hiện không lành mạnh, báo hiệu nguy cơ rủi ro thất
thoát vốn tín dụng từ các khoản nợ sau cho vay của các tổ chức tín dụng ngày càng
chồng chất.
Để giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn tầm quan trọng của hoạt động cho vay
theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng, cũng như nhìn nhận rõ hơn những
vấn đề thực tiễn pháp lí phát sinh của hoạt này trong thời gian gần đây, em xin được
phân tích đề tài: “Tìm hiểu hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức
tín dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý từ năm 2012 đến nay, đề xuất hướng giải
quyết để xử lý quản lí đối với các khoản nợ sau cho vay của tổ chức tín dụng.”
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. LÍ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA
TỔ CHỨC TÍN DỤNG.
1. Hợp đồng tín dụng.
a. Khái niệm.
Xét về bản chất, hợp đồng tín dụng là hợp đồng cho vay tài sản theo quy định
của Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS). Nó chỉ mang tên gọi là hợp đồng tín dụng trong
trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó chủ yếu là các ngân
hàng, ngoài ra còn bao gồm: quỹ tín dụng nhân dân, công ty tài chính, tổ chức tài
chính vi mô.
Hợp đồng tín dụng là là sự thoả thuận bằng văn bản giữa TCTD (bên cho vay)
với khách hàng là tổ chức, cá nhân (bên vay) nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ nhất
định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó TCTD (bên cho vay) chuyển
giao một khoản vốn tiền tệ cho khách hàng (bên vay) sử dụng trong một thời hạn nhất
định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn trả khoản tiền đó (tiền gốc) và lãi vay sau một


thời gian nhất định.
1


Trong quan hệ tín dụng, trước khi giải ngân, thì thế mạnh hoàn toàn thuộc về
TCTD và TCTD là người quyết định có hay không cho vay. Dấu ấn vẫn đang hiện hữu
trong Luật các TCTD năm 2010 để chỉ quá trình chuẩn bị giao kết hợp đồng, đó là
những cụm từ “cấp tín dụng” và “xét duyệt cấp tín dụng” hay là “yêu cầu khách hàng
cung cấp tài liệu chứng minh” tính khả thi của phương án vay vốn và khả năng trả nợ.
Tuy nhiên, ngay sau khi thực hiện hợp đồng, tức là sau khi TCTD giải ngân, thì xu thế
lại hoàn toàn đảo ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm vai trò chủ động trong việc trả
nợ. Mặc dù TCTD có khá nhiều quyền chi phối theo quy định của pháp luật về hợp
đồng tín dụng, nhưng vẫn trở thành bên thụ động.
b. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng mang một số đặc điểm sau:
+ Hình thức: Hợp đồng tín dung phải được thực hiện dưới hình thức là văn bản.
+ Nội dung: Nội dung của hợp đồng thể hiện sự đồng ý giữa bên cho vay chấp nhận
cho bên vay sử dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có
hoàn trả dựa trên sự tín nhiệm
+ Chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là TCTD, có đủ điều kiện luật định, còn bên vay
có thể là tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có đủ điều kiện vay vốn do pháp luật
quy định.
+ Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền, bao gồm tiền mặt và bút tệ.
Số tiền này được ghi rõ trong hợp đồng.
+ Hợp đồng tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho vay. Nếu
thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.
+ Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên cho
vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm cơ sở và tiền đề cho việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của bên vay.
2. Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.

a. Khái niệm.
2


Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện trong xã hội loài người
có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Trong pháp luật dân sự, hiểu theo
nghĩa chung nhất, cho vay là việc một người thỏa thuận để cho người khác được sử
dụng tài sản của mình trong một thời hạn nhất định với điều kiện có hoàn trả, dựa trên
cơ sở sự tín nhiệm của mình với người đó.
Theo quy định Điều 17 Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12
năm 2001 của Thống đống ngân hàng nhà nước, Về việc ban hành Quy chế cho vay
của tổ chức tín dụng đối với khách hàng: “Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách
hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung
về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất,
thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và
những cam kết khác được các bên thỏa thuận”.
Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng là một hoạt động
cho vay dựa trên hình thức pháp lí của quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với
khách hàng là hợp đồng tín dụng; tức là, một hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín
dụng cho khách hàng, trong đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận được ghi
nhận trong hợp đồng tín dụng giữa hai bên chủ thể trong quan hệ cho vay, với nguyên
tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Tổ chức tín dụng có quyền cho vay ngắn hạn, trung hạn,
dài hạn thông qua hợp đồng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh
doanh và đời sống.Khi cho vay, tổ chức tín dụng phải tuân thủ các nguyên tắc, quy chế
pháp lý về cho vay.
b. Đặc điểm.
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng luôn mang những yếu tố cấu thành cơ
bản của quan hệ cho vay nói chung. Ngoài những dấu hiệu chung của quan hệ cho vay,
hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng còn thể hiện ở những

dấu hiệu có tính đặc thù sau:
Thứ nhất, việc cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh
mang tính chức năng. Mặc dù theo luật Việt Nam hiện hành, các tổ chức khác không
phải là tổ chức tín dụng cũng có thể thực hiện việc cho vay đối với khách hàng như
một hoạt động kinh doanh nhưng hoạt động cho vay của tổ chức này hoàn toàn không
phải là nghề nghiệp kinh mang tính chức năng như đối với các tổ chức tín dụng.

3


Thứ hai, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng không chỉ là một nghề kinh
doanh mà hơn nữa còn là một nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện, thể hiện ở chỗ
hoạt động cho vay chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng phải thỏa mãn một số điều kiện
nhất định như phải có vốn pháp định, phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép
hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành việc đăng ký kinh doanh theo luật định.
Thứ ba, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ngoài việc tuân thủ các quy định
chung của pháp luật về hợp đồng, nó còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng
còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về Ngân hàng, kể cả tập quán thương
mại về ngân hàng.
c. Nguyên tắc của hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.
Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng phải tuân thủ những nguyên tắc cơ
bản sau:
+ Nguyên tắc tránh rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng.
+ Nguyên tắc phải sử dụng vốn vay đúng mục đích.
+ Nguyên tắc hoàn trả khoản tín dụng đúng hạn cả gốc và lãi theo thoả thuận.
d. Phân loại cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.
+ Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn:
- Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách
hàng với thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận là đến một năm. Hình thức
này chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của khách hàng trong hoạt động kinh

doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong một thời hạn ngắn.
- Cho vay trung và dài hạn: hình thức này khác cho vay ngắn hạn là với thời gian
thỏa thuận là từ trên một năm trở lên. Người đi vay sử dụng hình thức này để thỏa mãn
nhu cầu mua sắm tài sản cố định trong kinh doanh, thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu
dùng như mua sắm nhà ở, phương tiện đi lại…
+ Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay:
- Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ trả nợ
tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc của người thứ ba. Việc cho vay
này phải được bảo đảm dưới hình thức ký kết cả hai loại hợp đồng, bao gồm hợp đồng
tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay (hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp
đồng bảo lãnh).Pháp luật cũng cho các bên có thể thỏa thuận lập một hợp đồng nên
trong trường hợp này các thỏa thuận về bảo đảm tiền vay được xem là một bộ phận
hợp thành của hợp đồng có bảo đảm bằng tài sản.
4


- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ
hoàn trả tiền vay không được bảo đảm bằng các tài sản cụ thể, xác định của khách
hàng vay hoặc của người thứ ba. Thông thường các bên chỉ giao kết một hợp đồng duy
nhất là hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp tổ chức tín dụng cho vay có bảo đảm
bằng tín chấp thì vẫn phải xác lập một văn bản cam kết bảo lãnh bằng uy tín của mình
và gửi cho tổ chức tín dụng để khách hàng vay có thể được tổ chức tín dụng chấp nhận
cho vay.
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay kinh doanh: là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền vay
sử dụng vào mục đích thực hiện các công việc kinh doanh của mình. Nếu bên vay vi
phạm sử dụng vào những mục đích khác thì bên cho vay có quyền áp dụng các chế tài
thích hợp như đình chỉ việc sử dụng vốn vay hoặc thu hồi vốn vay trước thời hạn…
- Cho vay tiêu dùng: bên tham gia vay cam kết số tiền vay sẽ được sử dụng vào
việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua sắm đồ gia dụng, mua sắm

nhà cửa hoặc phương tiện đi lại, hay sử dụng vào mục đích học tập…
+ Căn cứ vào phương thức cho vay:
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn, khách hàng và TCTD làm thủ tục vay vốn
cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. TCTD áp dụng phương thức cho vay này khi
khách hàng vay có nhu cầu vay vốn không thường xuyên. Mỗi lần có nhu cầu vay vốn,
khách hàng lập hồ sơ vay vốn theo quy định.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Cho vay theo hạn mức tín dụng được áp dụng
đối với khách hàng vay có nhu cầu vay vốn thường xuyên và có đặc điểm sản xuất,
kinh doanh, luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng lần
+ Căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, nhu cầu vay vốn của
khách hàng, tài sản bảo đảm tiền vay, TCTD và khách hàng xác định và thoả thuận
một hạn mức tín dụng duy trì trong khoảng thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ
sản xuất, kinh doanh.
- Cho vay theo dự án đầu tư:TCTDcho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự
án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời
sống.
- Cho vay hợp vốn: Theo phương thức này, một nhóm TCTD cùng thực hiện cho
vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, một
tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp. Cho vay hợp vốn được thực hiện theo quy chế
5


này và quy chế đồng tài trợ của các TCTD do Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban
hành.
- Cho vay trả góp: Khi vay, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả
thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ
hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: TCTD chấp
nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để
thanh toán tiềm mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc

điểm ứng tiền mặt là đại lý của TCTD. Việc cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và
sử dụng thẻ tín dụng theo quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước về phát hành
và sử dụng thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:TCTD cam kết đảm bảo sẵn sàng cho
khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để đầu tư cho dự
án.TCTD và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng,
mức trả phí hco hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà TCTD thoả thuận bằng văn
bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách
hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về hoạt động
thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
3. Vai trò của hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.
Hoạt động cho vay này giúp cho bên vay giải quyết được những khó khăn kinh
tế trước mắt, giúp cho các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình…khắc phục được tình trạng
khó khăn về vốn, từ đó có thể đầu tư vào sản xuất kinh doanh…nhằm phát triển kinh
tế.
Đây là công cụ để thực hiện việc phân phối lại vốn tiền tệ nhằm phục vụ phát
triển kinh tế đất nước. Thông qua việc huy động vốn trong dân chúng để cho vay, các
TCTD có thể tạm thời điều tiết nguồn vốn trong xã hội từ nơi tạm thời thừa vốn sang
nơi tạm thời thiếu vốn, tức là điều tiết nguồn cung và cầu về vốn tiền tệ trong nhân
dân, đồng tiền được sử dụng một cách có hiệu quả hơn.
Thông qua việc cho vay theo hợp đồng tín dụng, Nhà nước thực hiện sự giúp đỡ
của mình về mặt tài chính đối với các đối tượng là người dân nghèo, điều kiện kinh tế
khó khăn, các đối tượng Nhà nước cần khuyến khích phát triển có lợi cho quốc kế dân
6


sinh bằng việc cho các đối tượng này vay với những ưu đãi nhất định về lãi suất, thời
hạn vay…
Cho vay thông qua hợp đồng tín dụng là một hoạt động cấp tín dụng của các

TCTD. Qua hoạt động này các TCTD có thể thu lại lợi nhuận cho mình thông qua việc
hưởng chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
II. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG.
1. Chủ thể của hợp đồng tín dụng.
a. Bên cho vay.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở thành chủ
thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các điều kiện sau:
- Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.
- Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
- Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.
- Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với
khách hàng.
Đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành chủ thể
cho vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn các điều kiện như có
giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có người
đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động cho vay là hoạt động ngân hàng
đươc phép thực hiện.
b. Bên vay.
Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên tắc, những
điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay trong mọi hợp đồng
tín dụng):
- Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với tổ chức là pháp nhân
hay không phải là pháp nhân thì phải có người đại diện hợp pháp có đủ năng lực
và thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó khi ký kết hợp đồng.
- Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.

7



Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện chung sau (những điều kiện này chỉ có tính
bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các bên thoả thuận rõ trong
hợp đồng tín dụng):
- Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả.
- Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của người thứ
ba trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.
2. Giao kết hợp đồng tín dụng.
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ –
pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng tín
dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:
Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện
dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong
muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có
nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo các giấy
tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng
vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi cho tổ chức tín dụng để xem xét, thẩm định và
được coi như bằng chứng đề nghị giao kết hợp đòng tín dụng.
Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây cho
thấy, có nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín dụng lại chính là tổ chức
tín dụng chứ không phải là khách hàng, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và mở
rộng thị trường tín dụng. Những tổ chức tín dụng đã từng đi tiên phong trong việc lựa
chọn phương thức này chính là các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp này, văn bản đề nghị là
thư chào mời được tổ chức tín dụng gửi cho tổ chức, cá nhân có khả năng tài chính
mạnh, có uy tín trên thương trường và có nhu cầu vay vốn thường xuyên (gọi là những
khách hàng tiềm năng) mà tổ chức tín dụng lựa chọn là bên đối tác. Trong thư chào
mời, bên đề nghị (tổ chức tín dụng) thường đưa ra những điều kiện có tính chất tổng

quát nhất kèm theo những ước khoản cụ thể để cho bên kia xem xét chấp nhận. Tuy
nhiên, do một thư chào mời có thể không nhất thiết phải là một văn bản dự thảo hợp
đồng nên trong thực tế, nếu bên tiếp nhận thư chào mời có hành vi chấp nhận toàn bộ

8


nội dung của thư chào mời đó thì không vì thế mà hợp đồng tín dụng được coi là đã
hình thành.
Thẩm định hồ sơ và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng:
Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ – pháp lý
do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay,
trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan trọng của giai
đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi hỏi bên cho vay là
tổ chức tín dụng phải triệt để tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính độc lập, phân định rõ
ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và khâu quyết
định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín dụng của khách hàng, bên cho vay có
toàn quyền quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp từ chối
cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và phải nêu rõ
lí do từ chối cho vay. Việc từ chối cho vay không có căn cứ xác đáng có thể là lí do để
khách hàng thực hiện hành vi đối kháng với tổ chức tín dụng theo quy định của pháp
luật.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do bên nhận đề
nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia với nội dung thể
hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó, hành vi chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý ký kết hợp đồng chứ
không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa các bên. Có nghĩa là việc giao kết
hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau khi các bên đã trải qua giai đoạn
thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng (bao gồm các điều
khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi) và người đại diện có thẩm

quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản hợp đồng tín dụng.
Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: đây là giai đoạn cuối cùng,
cũng là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai đoạn
này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng.Giai đoạn
này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký tên vào văn bản hợp
đồng tín dụng.
3. Hình thức của hợp đồng tín dụng.
Theo quy định tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín dụng đều
phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy định như
vậy là vì những ưu điểm sau đây:
9


- Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ thể
cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
tín dụng.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố công
khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho người
thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an
toàn trong trường hợp cần thiết.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ quan
có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn.
Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn bản
viết và văn bản điện tử.Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương tiện điện tử
dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản.Các hợp đồng
điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá trị chứng cứ
trong quá trình giao dịch.
4. Nội dung của hợp đồng tín dụng.
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ
tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp

luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng làm phát sinh
những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín dụng.
Theo quy định tại điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, nội dung của hợp đồng tín
dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:
- Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên cần ghi
rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì
hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực.
- Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải thỏa thuận
về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín dụng đáo
hạn.
- Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín
dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp
đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này
trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong
quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.

10


-

Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay. Đây là một điều khoản rất quan
trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì thế, các bên
phải thỏa thuận rõ ràng số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng (trả góp) hay
là trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu khoản vay được thỏa thuận
thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên cũng có thể dự liệu trước về khả năng điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính của bên vay khi trả nợ.
- Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên cần ghi
rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều khoản này trong
hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn cho

người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử dụng vốn
một cách tùy tiện vào mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để bảo đảm lợi ích
của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, pháp luật
cũng cho phép trong thời gian sử dụng vốn, các bên có quyền thỏa thuận lại về
mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử dụng vốn đã
thay đổi.
- Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều khoản mang
tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết
tranh chấp bằng con ¬đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn cơ quan tài
phán sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi
điều khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc xác định thẩm
quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được
thực hiện theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản
như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng rẽ
nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), hoặc lập thành một hợp đồng phụ đính
kèm theo hợp đồng chính.
5. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng
a. Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay:
- Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng hạn và địa điểm cho khách hàng
vay sử dụng (nghĩa vụ giải ngân).
- Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách hàng.
- Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả tiền phạt, tiền
bồi thường thiệt hại (nếu có).
11


b. Quyền và nghĩa vụ của bên vay:
- Quyền từ chối các yêu cầu không hợp lý của tổ chức tín dụng khi ký kết, thực
hiện và thanh lý hợp đồng tín dụng.

- Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ hoặc các vi
phạm hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.
- Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả và đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm hợp đồng tín dụng
và tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có).
6. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng.
a. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
- Chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự
- Mục đích và nội dung của HĐTD không trái pháp luật đạo đức và xã hội.
- Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng và tự do ý chí.
- Hình thức của HĐTD phải phù hợp với quy định của pháp luật ngân hàng.
b. Thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng.
Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ đó quyền
và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát sinh.Trên thực tế, pháp
luật của từng nước có những quy định rất khác nhau về thời điểm phát sinh hiệu lực
của HĐTD. Còn ở Việt Nam, theo Đ405 BLDS 2005 ta có thể lý giải rằng thời điểm
phát sinh hiệu lực của HĐTD là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong các điều khoản
của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên vào văn bản HĐTD.
c. Sự vô hiệu của hợp đồng tín dụng và các nguyên tắc xử lí hậu quả vô hiệu
Khi một HĐTD không thoả mãn một trong số các điều kiện có hiệu lực do pháp
luật quy định thì giao dịch đó bị coi là vô hiệu và sự vô hiệu này, về lí thuyết có thể
được nhìn nhận là ở trạng thái tuyệt đối hoặc tương đối.
Trong khoa học pháp lí, việc xác định trạng thái vô hiệu (tuyệt đối hoặc tương
đối) của các giao dịch pháp lí nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng nói
riêng thường dựa vào nguyên tắc cơ bản là:

12


HĐTD bị coi là vô hiệu tuyệt đối khi mục đích, nội dung, hình thức của hợp đồng
vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội và phương hại đến lợi ích
chung. Hậu quả pháp lý xảy ra là:Hợp đồng không phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm
kí kết; các bên phải phục hồi tình trạng ban đầu như trước khi kí kết hợp đồng.
HĐTD bị coi là vô hiệu tương đối khi chủ thể tham gia HĐ ko có năng lực hành
vi dân sự hoặc hợp đồng kí kết không có sự tự nguyện và đồng thuận giữa các bên kí
kết. Hậu quả pháp lý xảy ra cũng giống như đối với HĐTD vô hiệu tuyệt đối.
7. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng tín dụng.
a. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD
Trước khi đề cập đến các loại trách nhiệm pháp lý phát sinh do việc vi phạm
HĐTD ta tìm hiểu thế nào là vi phạm HĐTD và 1 hành vi phải thỏa mãn điều kiện gì
thì được coi là vi phạm hợp đồng.
Vi phạm HĐTD là hành vi của 1 bên hoặc cả 2 bên tham gia hợp đồng cố ý hoặc
vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong HĐTD và phải thỏa mãn các điều kiện:
- Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia HĐTD.
- Trái với các điều khoản đã cam kết trong HĐTD.
- Bên thực hiện hành vi có 1 lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý.
- Hành vi đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bên đối ước hoặc quyền và lợi
ích chung của toàn xã hội hoặc của tổ chức, cá nhân khác.
Tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp lý phát
sinh khi có việc vi phạm HĐTD:
- Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: nhằm để nâng cao tính kỷ luật hợp đồng nên
không cần phải chứng minh có thiệt hại vật chất xảy ra. Loại trách nhiệm này do
các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp luật.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐTD: được áp dụng khi có thiệt hại
vật chất thực tế và xác định được chứng minh bởi bên bị vi phạm. Số tiền bồi
thường thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua phán quyết của cơ quan tài

phán có thẩm quyền.
8. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
Một HĐTD chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về phương
diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài. Vì thế không phải cứ khi
nào có vi phạm hợp đồng thì có tranh chấp hợp đồng mà tuy vào hoàn cảnh cụ thể để
xác định đúng đắn và chính xác thời điểm phát sinh tranh chấp.
13


Theo pháp luật Viêt Nam, tranh chấp này sẽ được giải quyết bằng những con
đường sau đây:
- Tự thương lượng giữa các bên tranh chấp: theo quy định của pháp luật, trước hết
các bên có quyền tiến hành thương lượng với nhau nhằm tiến tới dung hòa lợi ích cho
cả 2 bên.
- Hòa giải giữa các bên tranh chấp thông qua trung gian: giải pháp này có thể
được các bên lựa chọn khi việc thương lượng không đạt kết quả. Việc quy định cơ chế
này nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên và để tránh cho các bên những
khoản chi phí không cần thiết do phải kiện trước Tòa.
- Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế tài phán: đây là giải pháp cuối cùng để
phân định quyền lợi giữa các bên. Theo điều 22 BLTTDS 2004 tòa án theo thủ tục dân
sự sẽ có thẩm – quyền giải quyết trừ trường hợp các bên có thỏa thuận điều khoản lựa
chọn trọng tài thương mại khi có tranh chấp phát sinh,lúc này sẽ áp dụng theo Pháp
lệnh trọng tài thương mại.
III. THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TỪ NĂM 2012 ĐẾN NAY.
Trong những năm qua, đặc biệt là từ năm 2012 trở lại đây, pháp luật về hoạt động
cho vay theo HĐTD của các TCTD đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện;
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục tập trung đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại ở tất cả các
nhóm tổ chức tín dụng, xử lí các ngân hàng yếu kém. Về cơ bản, Ngân hàng Nhà nước
đã kiểm soát được tình hình, khả năng chi trả của các ngân hàng yếu kém đã được cải

thiện, quyền lợi của các bên được đảm bảo, nguy cơ mất an toàn được giảm bớt.
Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước tiến hành cơ cấu lại hoạt động, hệ thống quản
lí và hiện đại hóa công nghệ của các tổ chức tín dụng. Quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương được chuyển đổi thành Ngân hàng Hợp tác xã. Các giải pháp củng cố chấn chỉnh
hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở được triển khai tích cực như: hạn chế thành
lập mới quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, tập trung củng cố, chấn chỉnh xử lí các quỹ tín
dụng nhân dân hoạt động yếu kém, từng bước cải thiện và nâng cao năng lực quản trị,
điều hành, kiểm soát rủi ro, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp
nhân dân cùng tham gia phát triển hệ thống quỹ tín dụng nhân dân.

14


Tuy nhiên, hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng
nói riêng vẫn còn bộc lộ, phát sinh nhiều bất cập như:
Một số quy định cho vay chưa phù hợp với thực tiễn của hoạt động tín dụng ngân
hàng. Điều 126 Luật TCTD 2010 hay Điều 19 của Quy chế cho vay của TCTD ban
hành kèm theo Quyết định 1627/2011/QĐ – NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 quy
định về những trường hợp không được cho vay. Quy định này còn hơi cứng nhắc, nếu
họ có tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng một cách hợp pháp và muốn sử dụng để
cầm cố thế chấp tại ngân hàng họ đang quản lý hoặc làm việc thì việc cho vay đối với
những đối tượng này không có gì mất an toàn, miễn là họ sử dụng vốn vay một cách
đúng quy định. Ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên những phương án khả thi, tài
sản bảo đảm thì tại sao những người này đủ tiêu chuẩn lại không cho vay. Quy định
này đã phần nào loại bỏ một bộ phân không nhỏ những khách hàng có tiềm năng của
ngân hàng.
Quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng còn nhiều bất cập. Khoản 1
Điều 18 của Quy chế cho vay của TCTD ban hành kèm theoQuyết định số
1627/2011/QĐ – NHNN quy định “Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không
được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những

khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân”.
Trên thực tế, khoảng thời gian cần thiết từ khi tổ chức tín dụng đề nghị qua Ngân hàng
Nhà nước lên tới Chính phủ đến khi có quyết định được phép cho vay thường kéo dài
vài tháng, làm lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và không phù hợp với cải cách hành chính
hiện nay.
Một số quy định về cơ chế bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
chưa thích hợp. Chẳng hạn, pháp luật hiện hành cho phép được sử dụng tài sản bảo
đảm là tài sản hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, do là tài sản trong tương lai nên
không thể chắc chắn rằng tài sản đó được hình thành để cho ngân hàng xử lý, bù lại
mất mát nếu xảy ra tranh chấp. Mặt khác, sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán giữa các
quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay với các bộ phận pháp luật khác có
liên quan như Bộ luật dân sự, pháp luật đất đai, pháp luật hợp đồng, pháp luật về giải
quyết tranh chấp… là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Các khó khăn này không chỉ xảy ra cho khách
hàng khi thực hiện thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh tài sản để vay vốn tổ chức tín dụng
mà còn gây khó khăn cho chính các tổ chức tín dụng ngay trong quá trình thẩm định và
15


phê duyệt các khoản vay có bảo đảm. Điều này làm cho tỉ lệ nợ quá hạn của các tổ
chức tín dụng ngày càng cao, nhất là trong giao đoạn hiện nay, khi mạng lưới tín dụng
đang được mở rộng.
Quy định về khống chế lãi suất trần chưa thực sự phù hợp. Tại Điều 476 Bộ Luật
dân sự 2005 quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt
quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương
ứng”. Theo phân tích của hiệp hội ngân hàng Việt Nam, quy định này không phù hợp
bởi các lý do sau:
Thứ nhất, việc khống chế trần lãi suất cho vay như thời gian qua là biện pháp can
thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế sự chủ động
và linh hoạt của các tổ chức tín dụng trong vấn đề huy động vốn và cho vay, vì lãi suất

hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vốn của thị trường.
Thứ hai, việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng lãi suất của các
loại hình tín dụng vì mỗi loại hình tín dụng có mức độ rủi ro khác nhau, chi phí khác
nhau, vì vậy lãi suất cho vay khác nhau. Chính sách lãi suất trần cứng nhắc làm cho
các ngân hàng rất khó đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, mặt khác, cũng làm hạn chế
sự phát triển của các dịch vụ tài chính mới của các ngân hàng như tín dụng bán lẻ, tín
dụng tiêu dùng, đây là những sản phẩm tất yếu của tổ chức tín dụng hiện đại.
Thứ ba, để kiểm soát sự biến động bất thường của lãi suất trên thị trường tiền tệ,
ngân hàng nhà nước đã có các công cụ để kiểm soát như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất
tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và điều hành khối lượng tiền cung ứng mà không
cần giải pháp hành chính cứng nhắc như Điều 476 Bộ luật dân sự quy định.
Thứ tư, Nghị quyết số 23/2008/NQ – QH12 ngày 6/11/2008 của Quốc hội khóa
XII, kỳ họp thứ tư, trong đó cho phép “ Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho
vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của pháp luật
và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản xuất kinh
doanh có hiệu quả cao.” Để thực hiện Nghị quyết trên của Quốc hội, Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết số 30/2008/NQ – CP ngày 11/12/2008 về những biện pháp cấp bách
nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, trong đó đã cho phép “Tổ chức tín dụng thực hiện
việc cho vay theo lãi suất thỏa thuận…” Vì vậy, để thực hiện thành công các giải pháp
kích cầu của Chính phủ, đã đến lúc cần thiết phải cho phép các tổ chức tín dụng thực
hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuậnđể góp phần thúc đẩy phát triển phong phú các

16


loại hình dịch vụ, tín dụng, kích thích sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ trong
nước phát triển.
Thứ năm, về vấn đề nợ quá hạn và nợ xấu:
Nợ quá hạn: Trong nền kinh tế thị trường, các TCTD thu lợi chủ yếu từ các
khoản cho vay với khách hàng, nhưng những khoản cho vay này lại rất dễ gặp những

rủi ro dẫn đến những khoản nợ quá hạn ngày càng lớn. Hiện nay, nợ quá hạn của các
ngân hàng thương mại bị coi là vấn đề bức xúc và phức tạp chất trong hoạt động cho
vay của các TCTD.Những khoản nợ quá hạn khổng lồ mà hiện tại ngành ngân hàng
đang phải gánh chịu đã làm ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thanh toán, giảm số tiên dự
trữ và vốn của các TCTD.Chính “tảng băng” về nợ quá hạn đang lặng lẽ nhấn chìm
các TCTD vào vòng xoáy nợ nần mà các TCTD vẫn “không hề hay biết”.Nợ quá hạn
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của các TCTD, tới các doanh nghiệp sử
dụng vốn và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, việc tìm ra những giải pháp
khắc phục tình trạng nợ quá hạn, đảm bảo việc thực hiện nợ tín dụng đã trở thành một
đòi hỏi cấp thiết, cần giải quyết không chỉ cho ngành ngân hàng mà còn cho cả các cơ
quan hữu quan.
Nợ xấu: Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu của các Tổ chức tín
dụng có xu hướng tăng nhanh từ đầu năm 2012 tới nay. Trong 7 tháng đầu năm 2012,
dư nợ tín dụng của Việt Nam chỉ tăng 1,02% nhưng nợ xấu lại tăng tới 45,5%. Tính
đến ngày 25-10-2012, Ngân hàng Nhà nước cho biết, nợ xấu của toàn bộ nền kinh tế
có địa chỉ tại hệ thống ngân hàng ước khoảng 8,6%(cao hơn khá nhiều so với các quy
định của Basel là 2%) trên tổng dư nợ được cho từ 2,5 triệu tỷ đồng đến 2,8 triệu tỷ
đồng. Trong đó, hơn 85% nợ có tài sản bảo đảm bằng bất động sản có giá trị (theo định
giá ban đầu) vào khoảng 135% khoản nợ xấu. Hệ quả là nợ xấu của các TCTD không
ngừng tăng lên, trở thành “điểm nghẽn” của nền kinh tế đất nước, cản trở sự lưu thông
dòng vốn tín dụng. Song, thực tiễn cho thấy việc giải quyết vấn đề này đang gặp phải
rất nhiều khó khăn, trong đó có rào cản từ chính khuôn khổ pháp lý về xử lý tài sản
bảo đảm.
IV. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỂ XỬ LÍ QUẢN LÍ CÁC KHOẢN NỢ SAU CHO VAY
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG.

17


Xử lí, quản lí các khoản nợ sau cho vay đặc biệt là đối với các khoản nợ quá hạn,

nợ xấu luôn là một bài toán nan giải với mọi tổ chức tín dụng. Sau đây, em xin được
trình bày một số đề xuất của mình về vấn đề này:
- Đối với nợ quá hạn
Về giải pháp ngăn ngừa nợ quá hạn: đây là một trong những giải pháp cần được
thực hiện thường xuyên, liên tục, một cách có chủ ý bởi người điều hành, lãnh đạo
TCTD và toàn bộ công nhân viên chức trong các TCTD, đặc biệt là đối với đội ngũ
cán bộ tín dụng. Để thành công trong việc nâng cao chất lượng thực hiện HĐTD cần
thực hiện biện pháp ngăn ngừa nợ quá hạn ngay từ lúc phát sinh món vay cho đến khi
thu hồi hết nợ gốc và lãi. TCTD cần thực hiện đầy đủ các quy định về bảo đảm tiền
vay, tăng cường công tác tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của
ngân hàng. Chấm dứt tình trạng cho vay đảo nợ để giảm nợ quá hạn một cách giả tạo.
Trong quá trình thực hiện HĐTD cán bộ tín dụng cần đi sâu đi sát khách hàng, theo dõi
chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay, nếu phát hiện dấu hiệu không lành mạnh từ phía
người vay cần có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Bên cạnh đó, các TCTD cũng cần phải nghiên cứu kỹ càng hơn tính đúng đắn về
ý nghĩa của việc chuyển nợ quá hạn theo Điều 13 Quyết định 1627, được sửa đổi, bổ
sung bằng khoản 4 điều 1 quyết định 127/2005/QĐ-NHNN, từ đó đề ra kế hoạch hành
động nhất quán, phù hợp với hoàn cảnh đổi mới và tiến trình hội nhập. Đặc biệt là
nhanh chóng thay đổi tư duy và ứng dụng kịp thời các chuẩn mực hoạt động của ngân
hàng thương mại quốc tế vào chuẩn mực hoạt động của ngân hàng mình, tránh tình
trạng chạy đua với các thành tích mang tính bề nổi, chẳng hạn như tìm mọi cách để
giảm tỷ lệ về nợ quá hạn càng thấp càng tốt mà bỏ qua những nguy cơ tiềm ẩn đang
rình rập và đe doạ ngân hàng đằng sau các khoản nợ quá hạn đó.
Về biện pháp xử lý nợ quá hạn: việc TCTD phân tích nợ quá hạn theo định kỳ có
ý nghĩa rất quan trọng, giúp TCTD nắm được thực trạng chung của đơn vị và của từng
loại cho vay, từng nhóm khách hàng cụ thể, trên cơ sở đó có thể xử lý nợ một cách
thích hợp và có hiệu quả cao. Thông qua phân tích nợ, TCTD cần đề ra hướng giải
quyết hay biện pháp xử lý thích hợp với TCTD, với từng nhóm khách hàng, và từng
món vay cụ thể.
Xử lý quỹ dự phòng bù đắp rủi ro. Đây là một trong những biện pháp quan trọng

để lành mạnh hoá tài chính của các TCTD. Để thực hiện đúng đối tượng và có hiệu
quả biện pháp này, TCTD cần quan tâm: thực hiện nghiêm túc và chính xác việc phân
18


loại tài sản “có”, trích lập qũy dự phòng theo đúng quy định; rà soát các khoản nợ khó
đòi, có khả năng tổn thất để xác định đúng các khoản nợ thuộc đối tượng xử lý bù đắp
rùi ro; áp dụng triệt để các biện pháp tận thu; lập hồ sơ xử lý tài sản bảo đảm đầy đủ,
chính xác, hợp pháp, hợp lệ, đúng thời gian quy định; xử lý bù đắp rủi ro theo đúng
quy định và thẩm quyền giải quyết của từng cấp.
Khai thác các tài sản bảo đảm tiền vay được coi là biện pháp quan trọng trong
việc xử lý nợ quá hạn của TCTD. Vì tài sản bảo đảm nợ vay là nguồn thu hồi nợ thứ
hai của TCTD khi phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể thực
hiện hoặc thực hiện kém hiệu quả không có khả năng trả nợ. Trong trường hợp đó,
TCTD cần tiến hành rà soát lại toàn bộ hồ sơ, thủ tục bảo đảm tiền vay, thực hiện biện
pháp xử lý tài sản phù hợp với từng trường hợp cụ thể.Việc xử lý cần phải tiến hành
khẩn trương nhanh chóng, tranh thủ sự giúp đỡ của cơ quan hữu quan.
- Đối với nợ xấu
Về phía các TCTD; đối với các TCTD tính thanh khoán chưa đe dọa sự an toàn
của cả hệ thống:Phải tự xử lý thông qua các biện pháp đã và đang làm như: bán nợ, đòi
trực tiếp, thanh lý tài sản thế chấp, sử dụng quỹ dự phòng bù đắp các khoản nợ không
thu hồi được, hoặc chuyển nợ thành vốn góp nếu thấy khánh nợ có tương lai phát triển.
Đối với các TCTD yếu kém, có nguy cơ mất khả năng thanh khoản: biện pháp khả thi
là sáp nhập, hoặc giải thể. Các tổ chức này đi tìm, hoặc bị sáp nhập một cách cưỡng
bức bởi một TCTD đủ mạnh.Nếu không sáp nhập được thì các TCTD này sẽ đặt trong
điều kiện kiểm soát đặc biệt của NHNN, nhằm từng bước xử lý các tồn đọng để đi tới
giải thể. Do quy mô tín dụng ngày một lớn, bản thân các TCTD phải có giải pháp nâng
cao chất lượng hoạt động, giảm thiểu rủi ro hoạt động để ngăn ngừa nợ xấu xuất hiện
trở lại, như ban hành đầy đủ quy trình cho vay, năng cao năng lực quản trị, điều hành,
quản trị rủi ro.

Về phía Ngân hàng Nhà nước; phải có biện pháp quyết liệt để xác định số thực về
quy mô và cơ cấu của nợ xấu hiện nay, từ số liệu này mới có thể áp dụng các giải pháp
cụ thể cho từng TCTD. Xử lý nghiêm hành vi che dấu nợ xấu. Đồng thời sửa đổi, bổ
sung về cách phân loại nợ, trích lập sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra trong các trường hợp cấp tín dụng, phân loại nợ,
trích lập và sử dụng quỹ dự phòng sai chế độ. Đồng thời có cơ chế buộc các TCTD
trong một thời gian phải đưa nợ xấu xuống một giới hạn nhất định. Đối với các TCTD
có quy mô lớn, ảnh hưởng nhiều tới sự an toàn của cả hệ thống cũng như nền kinh tế
19


và an sinh xã hội, có khả năng phát triển tiếp, sau khi tự giải quyết nợ xấu vẫn còn ở
mức cao, sẽ được NHNN bơm vốn để hỗ trợ, dưới hình thức góp vốn nhưng lại được
hưởng lãi cố định (như cổ phiếu ưu đãi) và ngân hàng có thể rút vốn về khi tổ chức này
đã phục hồi.
Về phía các doanh nghiệp; cần nâng cao hiệu quả kinh doanh, đảm bảo cơ cấu
vốn hợp lý, bố trí vốn đúng nguyên tắc, sử dụng vốn có hiệu quả.ổn định lượng tiền
mặt cần thiết cho cán cân thanh toán, cân đối hệ số vốn vay trên vốn chủ không vượt
quá trung bình của ngành, thường xuyên đánh giá thực trạng tài chính DN thông qua
các tỷ số tài chính đặc trưng để đưa ra các kiến nghị cảnh báo về tình hình tài chính là
giải pháp trước mắt cũng như lâu dài xử lý và ngăn ngừa nợ xấu.
Thực hiện tái cơ cấu DN Nhà nước (là nhóm khách hàng có số dư nợ lớn nhất của
ngân hàng), mà trọng tâm là tái cơ cấu tài chính DN hiện nay đang tiến hành theo đề
án mà Chính phủ đã phê duyệt, nhằm nâng cao năng lực của các DNNN được coi là
giải pháp tích cực. Xử lý nợ xấu, tái cơ cấu các TCTD, các ngân hàng phải đi đôi với
việc tiến hành tái cơ cấu DN. Không thể tồn tại một hệ thống ngân hàng mạnh trên cơ
sở một nền kinh tế có các DN yếu kém.
C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ.
Trong bối cảnh khủng hoảng nợ công EU vẫn còn nghiêm trọng, kinh tế thế giới
có khả năng rơi vào cuộc suy thoái mới, các nước đang phát triển như Việt Nam cần

thực thi một chính sách tài khoá – tiền tệ linh hoạt, tăng cường khả năng phòng vệ
chống lại các “cơn bão tài chính” từ khu vực châu Âu và từ các nền kinh tế lớn khác.
Đối với Việt Nam, những yếu kém của nền kinh tế cũng là cơ hội để chúng ta có
những biện pháp tái cơ cấu nền kinh tế, xây dựng tăng cường hoạt động quản lí, xử lí
với hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là một biện pháp như vậy; sẽ làm minh
bạch hoá và lành mạnh hoá thị trường, bảo đảm hạn chế tác động đến tiêu cực của tình
hình kinh tế quốc tế và phát huy các lợi thế so sánh của Việt Nam trên thị trường quốc
tế.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, Giáo trình
1.

Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình “Luật Ngân Hàng Việt Nam”, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội – 2012.
2.

Luật các Tổ chức tín dụng 2010.

3.

Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của

Thống đống ngân hàng nhà nước, Về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng.
Websites

1.



2.



3.



4.



21



×