Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Tư tưởng nhập thế trong phong trào chấn hưng phật giáo ở bắc kì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.79 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
===

DƯƠNG THÀNH THẮNG

TƯ TƯỞNG NHẬP THẾ TRONG
PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT
GIÁO Ở BẮC KÌ (1934 – 1945 )
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
===

DƯƠNG THÀNH THẮNG

TƯ TƯỞNG NHẬP THẾ TRONG
PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT
GIÁO Ở BẮC KÌ (1934 – 1945 )
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học

TS. Ninh Thị Sinh


HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Lịch Sử trường Đại học
sư phạm Hà Nội 2 và cô Ninh Thị Sinh giảng viên khoa lịch sử tổ lịch sử Việt
Nam đã hướng dẫn tận tâm giúp em trong quá trình sư tầm tìm kiếm tài liệu để
hoàn thành bài khóa luận . Em cũng xin cảm ơn gia đình và bạn bè những người
luôn ở bên động viên giúp đỡ em hoàn thành bài khóa luận này.

Tác giả

Dương Thành Thắng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong khóa luận đảm bảo độ tin cậy.

Tác giả

Dương Thành Thắng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ....................................................... 3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 4

5. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................... 4
6. Bố cục khóa luận ................................................................................................. 5
CHƯƠNG 1: PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở BẮC KÌ 19341945 ......................................................................................................................... 6
1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở
BẮC KÌ .................................................................................................................... 6
1.1.1. Bối cảnh quốc tế ............................................................................................ 6
1.1.2. Bối cảnh trong nước ...................................................................................... 8
1.2. SỰ THÀNH LẬP HỘI PHẬT GIÁO BẮC KÌ .............................................. 13
1.2.1. Vận động chấn hưng Phật giáo trên báo chí quốc ngữ những năm 20 của thế
kỷ XX..................................................................................................................... 13
1.2.2. Sự thành lập Hội Phật giáo Bắc Kì.............................................................. 15
1.3. CÁC HOẠT ĐỘNG CHẤN HƯNG ĐẠO PHẬT CỦA HỘI PHẬT GIÁO
BẮC KÌ .................................................................................................................. 17
1.3.1. Xuất bản báo chí .......................................................................................... 18
1.3.2. Mở trường đào tạo tăng ni ........................................................................... 19
1.3.3. Sưu tầm, dịch và phổ biến nền văn học Phật giáo cổ điển .......................... 22
1.3.4. Thuyết giảng phật pháp ............................................................................... 23
CHƯƠNG 2: ĐẠO PHẬT VÀ TƯ TƯỞNG NHẬP THẾ TRONG PHONG
TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở BẮC KÌ ( 1934 - 1945 ........................... 25
2.1. ĐẠO PHẬT VÀ TƯ TƯỞNG NHẬP THẾ TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC 25


2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO NHẬP THẾ TRONG
PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở BẮC KÌ NHỮNG NĂM ( 19341945 ). .................................................................................................................... 33
2.2.1. Cải cách nơi thờ tự....................................................................................... 34
2.2.2. Xóa bỏ tục đốt vàng mã ............................................................................... 37
2.2.3. Tổ chức lễ thành hôn trước cửa phật ........................................................... 40
2.2.4. Công tác từ thiện cứu tế xã hội.................................................................... 41
2.3. MỘT SỐ NHÂN VẬT TIÊU BIỂU CỦA TƯ TƯỞNG NHẬP THẾ TRONG
PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở BẮC KÌ ................................... 43

2.3.1. Thiền sư Thích Trí Hải ( 1906 – 1979 ) ...................................................... 43
2.3.2. Ưu Thiên Bùi Kỉ ( 1887 – 1960 ) ................................................................ 44
2.3.3. Đỗ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật ( 1883 – 1940 ) ..................................... 46
2.3.4. Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902-1954) ............................................... 47
2.3.5. Lệ Thần Trần Trọng Kim ( 1883 – 1953 ) .................................................. 48
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG NHẬP THẾ TRONG
PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở BẮC KÌ (1934 – 1945 )........... 50
3.1.ĐẶC ĐIỂM...................................................................................................... 50
3.2. Ý NGHĨA ....................................................................................................... 53
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 58
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo Ấn Độ du nhập vào nước ta từ rất sớm, trải qua gần 2000 năm
lịch sử tồn tại và phát triển với những triết lí nhân sinh sâu sắc đã có tác động và
ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống, văn hóa, xã hội người Việt. Là một tôn giáo
lớn với hệ thống giáo lí và các chủ trương trong hành đạo giúp đời được phát triển
trong suốt quá trình tồn tại của mình Phật giáo đã có nhiều đóng góp quan trọng
góp phần hình thành nên nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc được lưu
giữ và phát triển đến tận ngày nay.
Phật giáo trong triết lí nhân sinh mong muốn cho con người được hạnh
phúc, đoạn tuyệt với những khổ đau trong cuộc sống hiện tại. Triết lí ấy được thể
hiện rõ nét trong đời sống hiện thực khi Phật giáo tham gia vào các vấn đề văn
hóa xã hội như tín ngưỡng thờ cúng, lễ hội, các văn hóa phẩm sách báo về đạo
phật, mở các lớp giáo dục, tổchức từ thiện xã hội … đó là những hình thức nhập
thế để Phật giáo tham gia hoạt động và hòa cùng với đời sống của người dân làm
cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.

Ở Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, chính quyền phong kiến và thực
dân thối nát một mặt đàn áp và bóc lột nhân dân dã man mặt khác chúng thi hành
những chính sách phản động thâm độc nhằm đầu độc nhân dân ta bằng rượu cồn,
thuốc phiện, thực hiện chính sách ngu dân đặc biệt chúng lợi dụng tôn giáo để gây
chia rẽ, lung lạc ý chí đấu tranh của quần chúng. Phật giáo Việt Nam những năm
đầu thế kỉ XX vốn đã suy yếu thì với những chính sách của chính quyền thực dân
lại càng suy yếu hơn bao giờ hết, nhu cầu vực dậy một tôn giáo lớn và có ảnh
hưởng suốt hàng nghìn năm trong đời sống văn hóa người dân Việt được đặt ra
không chỉ trong giới tăng ni phật tử, các cư sĩ mà còn cả những người mộ đạo.
Trước yêu cầu của lịch sử, phong trào chấn hưng phật giáo đã bùng nổ và
phát triển mạnh mẽ ở cả khắp ba kì trong đó phong trào chấn hưng Phật giáo ở
Bắc kì tuy ra đời muộn nhưng với tư tưởng nhập thế, đã đi sâu vào trong đời sống
1


xã hội, nhanh chóng phát triển và trở thành đầu tàu trong phong trào chấn hưng
Phật giáo của cả nước. Sự phát triển của tư tưởng nhập thế trong phong trào chấn
hưng phật giáo ở Bắc kì đầu thế kỉ XX đã có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống
xã hội và phong trào đấu tranh chống thực dân phong kiến lúc bấy giờ của quần
chúng nhân dân và trong các giai đoạn sau của công cuộc cứu quốc giành độc lập
và thống nhất đất nước. Việc nghiên cứu về tư tưởng nhập thế có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, không chỉ làm sáng tỏ nội dung của tư tưởng nhập thế mà còn góp
phần lí giải vì sao phong trào chấn hưng Phật giáo lại phát triển mạnh mẽ ở Bắc kì
và trở thành đầu tàu của phong trào chấn hưng Phật giáo của cả nước giai đoạn
1934-1945.Nhận thức được tầm quan trọng của phong trào chấn hưng Phật giáo,
nhất là tư tưởng nhập thế - nội dung tư tưởng cốt lõi của phong trào chấn hưng
chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Tư tưởng nhập thế trong phong trào chấn
hưng Phật giáo ở Bắc Kì (1934-1945)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp, chuyên
ngành Lịch sử Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Là một tôn giáo lớn ở nước ta,Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng trong đời
sống sinh hoạt văn hóa của nhân dân, chính vì vậy đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về tôn giáo này. Tuy nhiên các tác phẩm đề cập đến tư tưởng nhập thế
trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kì (1934-1945) thì có rất ít, một số
tác phẩm có chạm tới nhưng rất tản mạn chưa tập trung đi sâu vào nghiên cứu trực
tiếp về nội dung và ý nghĩa của nó. Có thể kể đến một số công trình như sau:
Năm 1991, cuốn Lịch sử phật giáo Việt Nam của Nguyễn Tài Thư và các
cộng sự ở Viện Triết họcđã đề cập đến tư tưởng nhập thế trong phong trào chấn
hưng Phật giáo ở chương thứ XVII. Tác phẩm đã trình bày khái quát nguyên nhân
ra đời của phong trào chấn hưng Phật giáo, phân tích những vấn đề tư tưởng triết
học Phật giáo mà phong trào chấn hưng đã đặt ra. Tuy nhiên, nội dung tư tưởng
nhập thế của phong trào chấn hưng Phật giáo được đề cập đến trong công trình
này còn rất sơ lược.
2


Năm 1994 xuất hiện cuốn Việt Nam phật giáo sử luận, 3tập của Nguyễn
Lang. Ở chương 29, tác giả đã trình bày về công cuộc chấn hưng Phật giáo ở Bắc
Kì trong đó có đề cập đến một số hoạt động liên quan đến tư tưởng nhập thế của
phật giáo như công tác từ thiện xã hội, mở trường dạy học…Song nội dung trình
bày còn rất hạn chế.
Năm 1996 trong tác phẩm Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỉ
XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 2, Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước
các nhiệm vụ lịch sử, Trần Văn Giàu đã phân tích các vấn đề về tư tưởng triết học
trong phong trào chấn hưng Phật giáo trong đó đề cập đến phật giáo miền Bắc kì.
Đến năm 2008, Nguyễn Đại Đồng trong cuốn Biên niên sử phật giáo miền
Bắc 1920-1953, đã trình bày nhiều sự kiện của Phật giáo miền Bắc trong giai đoạn
1934-1945, trong đó có nhiều nội dung liên quan đến phong trào chấn hưng Phật
giáo, các hoạt động thể hiện tư tưởng nhập thế của Phật giáo. Tuy nhiên tác phẩm
có hạn chế là trình bày dưới dạng biên niên do đó người đọc rất khó có thể hình

dung được mối liên kết logic giữa các sự kiện.
Nghiên cứu về tư tưởng nhập thế trong phong trào chấn hưng Phật giáo đầu
thế kỉ XX là một lĩnh vực mới trong nghiên cứu lịch sử dân tộc cũng như lịch sử
tôn giáo bởi đây là giai đoạn gắn liền với nhiều biến động to lớn của đất nước.
Các công trình được đề cập ở trên mới chỉ dừng lại ở việc trình bày nguyên nhân,
diễn biến kết quả của phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kì cùng một số biểu
hiện của tư tưởng nhập thế. Chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ và
toàn diện về vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận nhằm làm rõ nội dung, đặc điểm của tư tưởng nhập thế trong
phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kì (1934-1945). Từ đó nhận xét được vai
trò của tư tưởng nhập thếđối với lịch sử dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3


Để đạt được mục đích trên, khóa luận tập trung giải quyết ba nhiệm vụ sau:
- Một là: Giới thiệu về phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kì
- Hai là: trình bày và phân tích nội dung cơ bản tư tưởng nhập thế trong
phong trào chấn hưng Phật giáo ởBắc Kì.
- Ba là: Phân tích một số đặc điểm, ý nghĩa của tư tưởng nhập thế trong
phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kì (1934-1945).
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng nhập thế trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kì trong 11 năm
từ 1934-1945.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Khóa luận sử dụng nhiều nguồn tư liệu khác nhau trong đó tập trung chủ yếu
ở 2 loại chính sau: Một là bộ sưu tập tạp chí Đuốc Tuệ (1935-1945), cơ quan ngôn

luận của Hội Phật giáo Bắc Kì; Hai là các sách, báo, tạp chí, kỉ yếu, hội thảo khoa
học đề cập đến phong trào chấn hưng và tư tưởng nhập thế trong phong trào chấn
hưng Phật giáo ở Bắc Kì.
Các tác phẩm và các bài viết trên đã cung cấp nguồn tư liệu quý giá để em có
thể thực hiện được đề tài này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận vận dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác- lênin
và tư tưởng của Hồ Chí Minh về lịch sử triết học tôn giáo và các phương pháp
nghiên cứu khoa học xã hội như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic,
phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh- đối chiếu,...
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận góp phần bổ sung thêm một tài liệu tham khảo để tìm hiểu về Phật
giáo Việt Nam nói chung và Phong trào chấn hưng Phật giáo nửa đầu thế kỷ XX
nói riêng. Đồng thời đây có thể sẽ là nguồn tư liệu tham khảo cho các em khóa

4


sau có đam mê tìm hiểu về Phật giáo và tư tưởng nhập thế của đạo Phật trong lịch
sử dân tộc.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo khóa luận gồm có 3
chương:
Chương 1:Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kì
Chương 2: Tư tưởng nhập thế trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở
Bắc Kì
Chương 3:Đặc điểm, ý nghĩa của tư tưởng nhập thế trong phong trào chấn
hưng Phật giáo ở Bắc Kì

5



CHƯƠNG 1:
PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở BẮC KÌ 1934-1945
1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT
GIÁO Ở BẮC KÌ
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ vào thế kỉ VI TCN. Ngay từ đầu Phật giáo đã thể
hiện là một tôn giáo có tính dung hòa cao, vì vậy đã nhanh chóng được truyền bá
rộng rãi ra bên ngoài, được nhiều dân tộc đặc biệt là ở châu Á lấy làm nền tảng tư
tưởng và tinh thần. Tuy nhiên từ thế kỉ thứ VIII trở đi các tu viện Phật giáo bắt
đầu hoạt động riêng biệt, khép kín cho nên giáo lí của Đức Phật ít được phổ biến
trong quần chúng nhân dân. Đến thế kỉ XII với cuộc xâm lược của lực lượng Hồi
giáo vào miền Bắc Ấn Độ đã khiến chochùa chiền, tu viện bị đốt phá, tăng sĩ bị
giết hại, dân chúng buộc phải cải giáo. Điều đó đã làm cho Phật giáo gần như biến
mất khỏi đất nước này.Tuy nhiên Phật giáo lại phát triển mạnh mẽ ở những nước
láng giềng và bên ngoài khu vực. Tại nhiều nước Phật giáo đã trở thành quốc giáo
và được nhân dân tôn sùng.
Thế kỉ XIX chủ nghĩa thực dân ra đời, các nước đế quốc ra sức tiến hành các
cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa ở khắp các châu lục, đặc biệt là ở châu Á một xứ sở giàu tài nguyên thiên nhiên và là thị trường tiêu thụ rộng lớn của giới tư
bản. Để có thể thực hiện âm mưu nô dịch và vơ vét của cải, các nước thực dân đã
thi hành nhiều chính sách thâm độc cả về chính trị, kinh tế, văn hóa trong đó vẫn
đề văn hóa- tôn giáo được các nước này đặc biệt quan tâm.Tôn giáo được coi là
một trong những công cụ hữu hiệu để cai trị nhân dân các nước thuộc địa. Phật
giáo là đối tượng quan tâm hàng đầu của các nước thực dân bởi nó có ảnh hưởng
trên một phạm vi rộng lớn và ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của người dân các
nước thuộc địa. Các chính sách kìm chế tôn giáo, gây mâu thuẫn tôn giáo hay lợi
dụng tôn giáo được các nước thực dân triệt để lợi dụng nhằm thực hiện âm mưu
6



ngu dân và chia để trị. Chính trong hoàn cảnh ấy, nhận thức được vai trò của mình
trong công cuộc đấu tranh của dân tộc các tăng sĩ, trí thức cấp tiến đã nghĩ tới việc
chấn hưng Phật giáo.
Phong trào chấn hưng Phật giáo ở các nước châu Á bắt đầu diễn ra từ cuối thế
kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX . Do vậy, khi tìm hiểu nguyên nhân ra đời của phong
trào này ở từng nước cần phải xem xét khía cạnh quốc tế của vấn đề, tức là phải
xem xét bối cảnh chung tiêu biểu cho nhiều quốc gia châu Á .
Đến nửa sau thế kỷ XIX, đa số các quốc gia ở châu Á rơi vào hoàn cảnh bị
chủ nghĩa thực dân xâm chiếm, nô dịch, mất chủ quyền và trở thành các quốc gia
nửa thuộc địa, nửa phong kiến với những mức độ khác nhau.Trước thế kỷ XX,
chính trị, văn hoá và tôn giáo (chủ yếu là đạo Công giáo) của châu Âu ào ạt truyền
vào các nước châu Á, từ đó diễn ra các cuộc đấu tranh chống lại chính trị, văn hóa
và tôn giáo phương Tây nhằm khôi phục lại tư tưởng văn hóa bản địa của các dân
tộc châu Á. Trong bối cảnh đó, tương tự như nhiều tôn giáo bản địa khác, Phật
giáo đứng trước một tình trạng phức hợp, có cả những cơ hội thuận lợi và những
thách thức phải đối diện nếu muốn tiếp tục tồn tại và phát triển.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự “đối thoại” giữa các bộ môn khoa học với
tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng đã mở rộng tầm mức thế giới. Nằm chung
trong cuộc đối thoại học thuật và tư tưởng Đông - Tây, sự cọ xát giữa các tôn giáo
và triết thuyết lớn phương Đông (chủ yếu là Phật giáo) với các tôn giáo và triết
thuyết phương Tây (đạo Công giáo, tư tưởng Triết học Ánh sáng) đã khiến Phật
giáo có điều kiện để hình thành một nền Phật học mới có thể đáp ứng được trước
sự biến đổi của xã hội. Cuộc đối thoại học thuật và tư tưởng Đông - Tây cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỷ XX làm xuất hiện hai hiện tượng khá thú vị. Một mặt, nhiều
học giả phương Tây đã dành nhiều công sức và trí tuệ để nghiên cứu Phật giáo,
mà kết quả là hàng loạt các công trình nghiên cứu công phu về tư tưởng và kinh
điển Phật giáo đã được xuất bản. Mặt khác trong thời kỳ này nhiều nhà sư châu Á
thường xuyên tiến hành công việc giảng pháp và nhiều hoạt động khác nhằm
7



hoằng dương Phật pháp ở các nước Âu Mỹ và đã đạt được nhiều thành công
đángkể.
Chủ nghĩa xã hội ra đời, nhà nước Liên bang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Xô
Viết (Liên Xô cũ) được thành lập, đã có tác động rất lớn đến phong trào giải
phóng dân tộc cũng như tư tưởng Phật giáo các nước châu Á đương thời. “Tại một
số quốc gia châu Á tuy có ảnh hưởng chủ nghĩa Mác, song chính Đảng Mác-xít
không đủ điều kiện đảm đương nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc, đã xuất hiện
hiện tượng tư tưởng cứu thế, bình đẳng, từ bi của Phật giáo nhanh chóng hội
nhập với tư tưởng xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác và tư tưởng bình đẳng,
bác ái của tư sản để hình thành xã hội Phật giáo” [48, tr.147].
Về sự đối thoại giữa Phật giáo với chủ nghĩa xã hội, có lẽ không ví dụ nào
điển hình hơn bài giảng thuyết với tiêu đề Dùng Phật phê bình chủ nghĩa xã hội
của Hoà thượng Thái Hư (Trung Quốc). Nội dung bài giảng pháp này cho thấy
Thái Hư đã nghiên cứu kĩ sự phát sinh và phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không
tưởng đến khoa học. Trong nghiên cứu của mình, nhà sư này cũng đã phân biệt rõ
sự khác biệt giữa những người xã hội dân chủ và những người cộng sản.
Như vậy từ Srilanka, Ấn Độ, Trung Quốc, với sự hoạt động tích cực của các
nhân vật Phật giáo xuất chúng, ngọn gió chấn hưng Phật giáo, bằng nhiều con
đường đã thổi sang các nước ở châu Á khác như: Nhật Bản, Myanmar, Việt Nam.
Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất và
trực tiếp nhất từ phong trào chấn hưng đạo Phật ở Trung Quốc, đặc biệt là những
tư tưởng cải cách Phật giáo của Hoà thượng Thái Hư.“Thiền sư Thái Hư và Phật
giáo Trung Quốc là nguồn lực kích thích chủ yếu cho phong trào chấn hưng Phật
giáo ở Việt Nam, những tư tưởng Phật giáo nhân gian của Thái Hư cũng thấm
sâu vào đời sống tri thức và Phật pháp của Phật tử Hà Nội”[35,tr.113].
1.1.2. Bối cảnh trong nước
Phật giáo là một trong những tôn giáo được du nhập vào nước ta sớm nhất và
có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống nhân dân nước ta trong gần 2000 năm

8


qua.Tuy nhiên nhìn lại lịch sử tồn tại và phát triển của Phật giáo ta thấy Phật giáo
cũng có những lúc thăng trầm chứ không phải lúc nào cũng tiến lên theo một
đường thẳng, đó chính là nguyên nhân tại sao phong trào chấn hưng Phật giáo lại
nổ ra ở nước ta vào những thập kỉ đầu của thế kỉ XX.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX nước ta đã trải qua nhiều biến động to lớn.
Ngày 1-9-1858 liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ sung đánh chiếm Đà Nắng mở
đầu công cuộc xâm lược nước ta. Cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc của
nhân dân ta phát triển mạnh mẽ.Trong bối cảnh ấy đã có nhiều tăng ni phật tử với
lòng yêu nước bảo vệ hòa bình dân tộc đã tích cực tham gia chống quân xâm lược.
Đến năm 1883, 1884 triều đình nhà Nguyễn lần lượt kí kết 2 bản hiệp ước Hác –
măng và Pa – tơ – nốt chính thức đầu hàng thực dân Pháp.
Dưới sự cai trị của thực dân Pháp nhiều yếu tố văn hóa mới đã được du nhập
vào nước ta, các giá trị văn hóa cũ của dân tộc dần bị thực dân Pháp loại bỏ. Năm
1878, chính quyền pháp loại bỏ dùng chữ Hán trong những vùng tạm chiếm được
ở Nam Kì.Ngày 21-12-1917 ở Bắc Kì, toàn quyền Đông Dương Anbert Sarraut
ban hành sắc lệnh điều lệnh điều lệ chung của bộ quốc dân giáo dục ở Đông
Dương bãi bỏ vĩnh viễn nền Hán học. Ngày 14-7-1919, ở Trung Kì triều đình Huế
đã ban chiếu chỉ hoàng gia sáp nhập nền giáo dục Pháp quốc – bản xứ,… là những
dấu hiệu rõ nét sự suy thoái trầm trọng của Nho giáo. Đây có lẽ là một trong
những điều kiện thuận lợi cả về khách quan lẫn chủ quan, để Phật giáo trỗi dậy
như một ưu tiên và lựa chọn hợp lí để duy trì truyền thống văn hóa dân tộc trước
nguy cơ văn hóa thực dân làm cho suy yếu và tiến hành công cuộc chấn hưng [16,
tr37-38].
Đầu thế kỉ XX, sau nhiều lần khởi nghĩa kháng Pháp thất bại, nhiều trí thức
yêu nước đi đến nhận thức rằng: muốn đánh đuổi thực dân xâm lược phải vận
động duy tân đất nước. Trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản qua các tân thư, tân báo
của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi cùng cuộc vận động cách mạng ở Trung

quốc, các thuyết về nhân đạo, nhân quyền của những đại diện tiêu biểu và tiến bộ
9


của giai cấp tư sản Pháp thế kỉ XVIII như Rousseau, S. Montesquieu, F. Voltaire
truyền vào Việt Nam làm sáng tỏ thêm nhận thức ấy. Thêm vào đó, sự kiện Nhật
Bản đánh bại Đế quốc Nga làm cho niềm tin kia thêm mãnh liệt.Phong tràoDuy
Tân ở Việt Nam phát sinh từ những nguyên do đó.Mục đích của phong trào này là
xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, giàu mạnh (theo chế độ quân
chủ lập hiến - quan điểm của Phan Bội Châu, theo lý tưởng dân chủ nhưng không
rõ hình thức chế độ - quan điểm của Phan Chu Trinh). Hình thức hoạt động của
phong trào Duy Tân ở Việt Nam diễn ra khá toàn diện, vừa công khai, vừa bí mật,
rộng khắp 3 miền đất nước.
Trong bối cảnh đó, nhiều nhà nho sĩ đánh giá cao vai trò của tôn giáo đối với
sự phát triển của xã hội, sự tự cường của một dân tộc. Trong các tôn giáo truyền
thống của Việt Nam, Phật giáo được đánh giá cao nhất. Cho nên, việc chấn hưng
Phật giáo được các nhà cách mạng ủng hộ. Theo họ cùng với những nỗ lực cải
cách văn hoá, xiển dương quốc học... Chấn hưng Phật giáo cũng là một hình thức
đấu tranh ôn hoà trong khuôn khổ “thỏa hiệp” với phe thống trị. Mục tiêu của các
hoạt động này về hình thức là khai hoá dân trí, giữ gìn bản sắc dân tộc, nhưng
thực chất là những hoạt động âm thầm tìm cách đòi lại chủ quyền và thoát khỏi nô
dịch thực dân.
Trong suy nghĩ của một số nhà cách mạng trong phong trào Duy Tân, Phật
giáo hưng thịnh thì đất nước cũng sẽ hưng thịnh. Phan Chu Trinh trong một lần
diễn thuyết từng nói:“Nước Đại Nam chúng ta ngày nay sở dĩ yếu hèn là vì thiếu
tinh thần tôn giáo. Tôn giáo luyện cho ta đức hi sinh, coi nhẹ tính mạng, phá sản
vì đạo. Không có tinh thần tôn giáo chúng ta không biết cương thường, xả thân vì
nghĩa, chỉ bo bo giữ cái lối riêng của mình. Nay bà con thử xét, đời Trần sao dân
tộc ta hưng thịnh như vậy! Quân Nguyên thắng cả Á cả Âu, nuốt trọn Trung Hoa
mà qua đến nước ta thì lại bại tẩu; nào bị cướp giáo ở Chương Dương Độ, nào bị

bắt trói ở Bạch Đằng, như vậy chẳng phải nhờ đạo Phật thời đó rất hưng thịnh
ư? Nhờ cái tinh thần tôn giáo của ta ư?” [39, tr.35 - 36]
10


Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX sau khi bình định được Việt Nam Pháp tiến
hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914) đã có những tác động
không nhỏ tới tình hình văn hóa, chính trị, xã hội đặc biệt là trong lĩnh vực tôn
giáo, Pháp thực hiện nhiều chính sách nâng đỡ tạo điều kiện cho Công giáo phát
triển và ăn sâu bám rễ vào đời sống nhân dân. Ở Nam Kì nhiều tôn giáo mới ra
đời, nảy sinh từ Phật giáo, hoặc từ tín ngưỡng dân gian, hoặc từ “Tam giáo” (Nho
- Phật - Đạo) như: Bửu Sơn Kỳ Hương sáng lập năm 1849; Tứ Ân Hiếu Nghĩa lập
năm 1867; Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam sáng lập đầu thế kỷ XX; đạo Minh
sư và các nhóm Ngũ chi Minh đạo (Minh sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Thiện,
Minh Tân) mở rộng ảnh hưởng vào đầu thế kỷ XX; trong đó đặc biệt là đạo Cao
Đài do các ông Ngô Văn Chiêu (1878-1930), Lê Văn Trung (1875-1934), Phạm
Công Tắc (1893-1959),… thành lập năm 1926 và Phật giáo Hòa Hảo do ông
Huỳnh Phú Sổ (1920-1946) thành lập năm 1939 đã có ảnh hưởng rất lớn đối với
các tỉnh Nam Kì
Các tôn giáo mới ra đời đã cạnh tranh ảnh hưởng với đạo Phật. Trước tình
hình đó, các nhà sư và nhà Phật học đều có phản ứng mạnh mẽ. Tuy nhiên, muốn
đương đầu với các tôn giáo mới này, đặc biệt là đạo Cao Đài, Hòa Hảo thì Phật
giáo cần phải được chỉnh đốn, cần phải được chấn hưng, đặc biệt là việc loại bỏ
những tệ nạn nơi cửa Phật.
Bên cạnh những nguyên nhân chính trị, văn hóa, xã hội phong trào chấn hưng
phận giáo Việt Nam xuất hiện còn do những nguyên nhân nội tại trong giới phật
giáo. Sự xuống cấp về đạo hạnh và đường lối tu tập của một bộ phận tăng già
công thêm sự chia rẽ mất đoàn kết của các môn phái khiến cho đạo Phật ngày
càng suy vi. Nhiều nhà sư trở thành người thầy cúng độ nhật qua ngày mà quên đi
vị trí dẫn dắt tâm linh của mình. Trong cuốn Sự phát triển tư tưởng Việt Nam từ

thế kỉ XIX đến Cách mạng tháng Tám, giáo sư Trần Văn Giàu đã đã nói lên hiện
trạng của phật giáo: “ Phật tử phê phán Phật giáo suy đồi trên hai phương diện
chính đó là Dốt và Hư”[27, tr 234]. Dốt tức là không có trí tuệ và hư ở đây là
11


không có đạo đức, đã làm mất đi uy tín của Phật giáo đối với nhân dân.Hơn thế
nữa trong những năm đầu thế kỉ XX các giáo lí, kinh sách bị thất truyền và sai lạc
nhiều do sự xâm nhập của lối sống thế tục và các hình thức mê tín, sự tu hành
cũng bị sa sút.Cư sĩ Khánh Vân đã lên án tình trạng này trong tạp chí Duy Tâm số
18 năm 1926 “có kẻ mượn phật làm danh, cúng ngày đêm hai buổi công phu, thọ
trì, nhập sóc vọng, cúng sám hối như ai, nhưng lại luyện bùa học ngải, luyện roi
thần, khi lên ông, lúc gặp bà, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thật ra lợi dụng lòng
mê muội của thiện nam tín nữ rộng túi tham vơ vét cho sạch sành sanh [55, tr 304]
cư sĩ Thanh Quang cũng phản ánh hiện trạng này trên báo Đuốc Tuệ trong bài
Hiện trạng Phật giáo xứ ta. Ông viết: “Đau đớn thay ở xứ ta những người xuất
gia vào chùa, phần nhiều chỉ học đăng vài bộ kinh, lo luyện hơi cho hay, tập nhịp
tán cho già, nay lãnh đám này, mai lãnh đám khác, cũng tràng hạt, cũng cà xa,
thử lật mặt trái của họ ra mà xem có khác nào người trần tục ở phật giáo, họ
tưởng thế là học đủ rồi , nói bậy, nói càn quên mất giá trị, hoặc có người hỏi đến
phật pháp là gì, ôi, tuyệt nhiên không biết. Thật là một tai hại lớn trong phật giáo
vậy.
Ta thử nghĩ một nước mà không có tổ chức thì nước ấy có trật tự, trật tự đã
không thì khó bề trị an được. Tôn giáo cũng vậy, nếu không có đoàn thể tổ chức,
ở sự tín ngưỡng đã bị sự truyền bá thôi còn giá trị thì còn mong gì đến sự phổ cập
cho quần chúng xã hội. Nhất là phái tăng già lại càng khó bề đoàn kết liên hợp
nhau hơn nữa, cứ hay chia từng đảng phái, không chịu hợp nhất cho thành một
đoàn thể có hệ thống tổ chức để hoằng pháp lợi sinh, thật không cách gì phật giáo
nước ta suy đồi cũng phải … phật giáo nước ta hiện thời chỉ còn cái xác mà
không còn hồn, suy đồi quá tệ”[49, tr 3-5].Như vậy có thể thấy sự tha hóa về đạo

đức, sự dốt nát của một bộ phận tăng giới khiến các cao tăng và những người mến
mộ đạo phật lo ngại. Chính điều đó đã thôi thúc họ phải hành động để phục hưng
và phát triển lại một tôn giáo có cả ngàn năm lịch sử đồng hành cùng dân tộc.

12


Tóm lại trong bối cảnh đất nước có những biến động to lớn trên tất cả các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Phật giáo nước ta xuống cấp nghiêm trọng, các
nhà sư cùng một số nhân sĩ trí thức mến mộ đạo phật, lo ngại tình trạng này nếu
kéo dài sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Phật giáo. Chính vì vậy một bộ phận sư tăng
và trí thức dân tộc đã bắt tay vào việc chấn hưng đạo Phật. Phong trào chấn hưng
Phật giáo diễn ra rầm rộ ở khắp cả nước đã làm thay đổi nhiều nội dung và hình
thức hoạt động của Phật giáo Việt Nam.
1.2. SỰ THÀNH LẬP HỘI PHẬT GIÁO BẮC KÌ
1.2.1. Vận động chấn hưng Phật giáo trên báo chí quốc ngữ những năm 20
của thế kỷ XX
Cuộc vận động chấn hưng Phật giáo trên báo chí ở Bắc Kì thu hút nhiều tăng sĩ và
cư sĩ,trong đó nổi bật nhất là những đề nghị chấn hưng của sư Tâm Lai (chùa
Hang, Thái Nguyên).Chương trình chấn hưng Phật giáo do sư Tâm Lai đề xướng
được đăng chủ yếu trên 2 tờ báo chính là Khai Hóa nhật báo và Đông Pháp thời
báo. Chương trình chấn hưng Phật giáo lúc đầu của ông chỉ gồm có ba điểm là lập
đàn giảng thiện trong các chùa, mở trường sơ đẳng yếu lược và trường sơ đẳng
tiểu học bên cạnh các chùa,lập nhà nuôi kẻ khó và nhà bảo cô bên cạnh các chùa.
Năm 1927 trên Đông Pháp thời báo số 533 đăng bài viết của sư Thiện Chiếu
trong đó chỉ rõ nguyên nhân suy thoái và đề ra biện pháp chấn hưng Phật giáo
gồm 3 điểm (lập phật học báo quán để truyền bá phật lí, lập phật gia công học hội
để đào tạo những nhà truyền giáo đứng đắn, dịch kinh phật ra chững quốc ngữ để
phật giáo Việt Nam không bị thất truyền). Sau khi đọc được bài viết này sư Tâm
Lai rất phấn khởi và cho rằng “chấn hưng thì cùng một ý có cái thủ tục thì hơi

khác” từ đó ông đề ra chương trình chấn hưng Phật giáo gồm 7 điểm: trong đó có
5 điểm vỗn được chia tách từ chương trình trước do ông đề ra và chỉ có thêm 2
điểm mới là lập thư viện trong các chùa và lâp nhà thuốc bên trong hoặc bên cạnh
các chùa. Sư Tâm Lai cũng đã đề nghị với sư Thiện Chiếu: “Nếu định thực hành
thì xin sư huynh liên lạc với các sư từ Nam ra Trung tôi sẽ liên lạc các sư từ Bắc
13


vào Trung ta tổ chức lại phật giáo hội của ta trước bỏ sơn môn mà làm ra giáo hội,
họp tất cả các sơn môn trong nước lại làm ra một hội gọi là Việt Nam phật giáo
hội…cùng nhau ta cùng hợp sức lại mà làm công việc đã định” [ 37] Sau hơn một
tháng khởi xướng, trước thực trạng người biết tinh thần chấn hưng thì nhiều,
người đồng chí hướng thì ít sư Tâm Lai tiếp tục đưa chương trình chấn hưng Phật
giáo mới gồm 3 điểm cốt yếu phục vụ nhu cầu trước mắt gồm: lập phật giáo tổng
hội, lập giảng đàn và dịch kinh sách phật giáo. Sư Tâm Lai giải thích việc rút gọn
chương trình từ 7 khoản xuống còn 3 khoản như sau “Bẩy khoản là cái chương
trình vĩnh viễn làm cho đến bực hoàn toàn. Chứ việc khởi thủy chỉ có 3 khoản ở
trên là cốt yếu ông nói ba khoản cốt yếu này mà thi hành được thì sau này việc gì
cũng làm được. Tuy nói 3 khoản nhưng trong giai đoạn đầu của việc chấn hưng
phật giáo chỉ có 2 việc quan trọng: Một là các vị sư đồng chí liên lạc với nhau rồi
tìm những nhà thiện tâm giúp việc. Hai là các vị sư đồng chí liên lạc với một vài
nhà báo thiện tâm nhờ đăng các bài cổ động gây thành dư luận. Khi dư luận đã
thành chương trình đã sẵn thì việc chấn hưng phật giáo chắc sẽ thành công”[36]
Sau nhiều lần trao đổi nghiền ngẫm và để mọi người có thể hiểu rõ hơn sư Tâm
Lai đã chi tiết hóa toàn bộ nội dung chương trình chấn hưng Phật giáo nước nhà
thành 10 điểm chính bao gồm; 1 là lập phật giáo tổng hội, 2 là lập phật gia công
học hội, 3 là lập phật học tu thư xã, 4 là lập giảng đàn, 5 là lập trường học cho con
cái thiện tín, 6 là lập thư viện trong các chùa, 7 là lập cuộc y tế ( tủ thuốc), 8 là lập
nhà bảo cô, 9 là lập nhà nuôi kẻ khó, 10 là dạy nữ công cho con gái thiện tín.
Sau các bài báo sư Tâm Lai đã có nhiều hoạt động tích cực nhằm cổ động chấn

hưng Phật giáo như tổ chứ lễ hội ở chùa Hang để thu hút đông đảo người nhiệt
tâm với việc chấn hưng Phật giáo tham dự, sưu tầm in ấn và phổ tống tập chấn
hưng Phật giáo... Các chương trình và ý tưởng chấn hưng Phật giáo cuả sư Tâm
Lai đã được nhiều người tán thưởng và góp thêm những cách thức cụ thể để chấn
hưng Phật giáo nước nhà.

14


Như vậy việc cổ động chấn hưng Phật giáo trên báo chí đã diễn ra một cách sôi
động thu hút được nhiều người cả trong và ngoài Phật giáo tham gia, không chỉ cổ
động ở trên mặt lý thuyết trên các báo, một số chùa ở Bắc Kì trong đó có chùa
Hang, chùa Phương Lăng, chùa Tràng Tín,.. đã bước đầu thực hành chấn hưng
Phật giáo và đạt được những kết quả nhất định: sư Tâm Lai đã cho in 1000 cuốn
Chấn hưng Phật giáo, thượng tọa Nguyên Ân đã cho tôn tạo lại chùa cũ đổ nát,
nuôi 4 trẻ mồ côi dịch 4 bộ kinh Báo ân, Hiền ngu, Pháp hoa, và Hoa nghiêm ra
chữ quốc ngữ, xin thuốc và chữa cho gần 2000 người mắc dịch tả.Sư Thông
Thanh Chùa chùa Lâm Động dựng nhà phúc đường để cứu chữa bệnh nhân, sư
Thanh Quang chùa Tràng Tín dịch kinh sách ra chữ quốc ngữ, mở trường tuyển
tăng sinh... Cuộc vận động chấn hưng trên báo chí của sư Tâm Lai đã thu hút
đông đảo nhà văn, nhà báo,như Phan Khôi, Nguyễn An Ninh... viết bài kêu gọi
chấn hưng Phật giáo. Bên cạnh sự tán đồng họ còn đưa ra thêm các ý kiến, giải
pháp đển công cuộc chấn hưng Phật giáo sớm được thực hiện và đi đến thành
công.
1.2.2. Sự thành lập Hội Phật giáo Bắc Kì
Phong trào chấn hưng Phật giáo châu Á mà trước hết là ở Trung Quốc đã tác
động mạnh mẽ đến ý thức của giới tăng ni phật tử và những người mến mộ đạo
phật mong muốn phục dựng lại một tôn giáo dân tộc có lịch sử lâu đời.
Bắc Kì được coi là cái nôi của Phật giáo Việt Nam khi Phật giáo lần đầu
tiên truyền vào khu vực này, vì vậy Phật giáo đã có những ảnh hưởng sâu rộng

trong đời sống và văn hóa của người dân tại đây. Những năm 20 thế kỉ XX phong
trào chấn hưng Phật giáo phát triển mạnh ở Việt Nam trên cả ba miền đất nước.
Tại Bắc Kì thiền sư Thanh Hanh, một vi tôn túc được nhân dân sùng kính hàng
năm đã mở các lớp để giảng dạy phật pháp và đã quy tụ được nhiều tăng sĩ tới
học.Tại chùa Linh Quang cũng duy trì được một đạo tràng có quy mô lớn mỗi
năm quy tụ hàng trăm tăng sĩ kết hạ và học tập giáo điều.Những đạo tràng và
những cố gắng của các vị danh tăng miền Bắc tuy không đủ làm Phật giáo có một
15


khuôn mặt sáng sủa hơn nhưng nó cũng đã tạo ra được một nền tảng cho công
cuộc chấn hưng Phật giáo phát triển sau này.
Năm 1927 tờ Thực Nghiệp ở Bắc đăng bài nói lên ý nguyện chấn hưng
Phật giáo do một số đệ tử ở Hà Nội đề xướng trong đó có sư Tâm Lai ở chùa Tiên
Lữ, nhân đó thiền sư Khánh Hòa liền cử Thiện Chiếu ra Bắc gặp sư Tâm Lai bàn
việc xúc tiến thành lập Phật giáo tổng hội.Nhưng các cuộc gặp gỡ này đều không
đi đến kết quả.
Trong những năm tiếp theo đã có nhiều tờ báo, tạp chí nói nên ý nguyện
chấn hưng đạo Phật và mong muốn thành lập một hội Phật giáo ở Bắc Kì như các
báo Khai Hóa, Đông Pháp, Thực Nghiệp, Trung Bắc Tân Văn… Đến đầu những
năm 30 thế kỉ XX lần lượt các hội Phật giáo ra đời trước tiên là ở Nam Kì và
Trung Kì. Sự ra đời của các hội Phật giáo ở Nam Kì và Trung Kì đã thúc đẩy
những người tâm huyết với đạo Phật tại Bắc Kì hành động.
Chính trong bối cảnh đó, Hội Phật giáo Bắc Kì đã ra đời“các thiền sư Trí Hải,
Tâm Ứng và Tâm Bảo từ Hà Đông lên Hà Nội vận động thành lập hội phật giáo ở
đất Bắc. Cùng với nhà văn Sở Cuồng Lê Dư lúc ấy đang làm quản lí cho chùa
Quán Sứ, ba vị bàn luận triệu tập một buổi họp tại đây để đặt nền tảng cho việc
thành lập hội. Các ông Nguyễn Hữu Kha, Nguyễn Năng Quốc, Trần Trọng Kim,
Bùi Kỉ, Cung Đình Bích, Trần Văn Giáp, Văn Quang Thùy, Nguyễn Can Mộng,
Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Tố, Dương Bá Trạc, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn

Văn Vĩnh v.v…đều được mời tới buổi họp này. Tất cả đồng ý thành lập một tổ
chức lấy tên là Bắc Kỳ Phật Giáo Hội và thành lập một ban quản trị tạm thời để
thảo bản điều lệ và quy tắc của hội, đồng thời để vận động giấy phép cho
hội”[39, tr163].
Hội Phật giáo được phép thành lập ngày 6.11.1934. Sau đó Hội đã tiến hành bầu
Ban quản trị chính thức do ông Nguyễn Năng Quốc làm hội trưởng, Nguyễn Văn
Ngọc và Nguyễn Quốc Thanh làm phó hội trưởng, ông Lê Dư làm quản lý, Phạm
Mạnh Xứng (tức Đông Phố) làm thủ quý, Trần Văn Phúc- thư kí, Văn Quang
16


Thùy và Nguyễn Văn Minh- phó thư kí, Lê Văn Phúc, Cung Đình Bính, Trần Văn
Giác và Trần Văn Giáp - giám thị. Trong buổi họp Hội nhất trí với đề nghị của
ông Nguyễn Năng Quốc mời thống sứ Bắc Kỳ là Auguste Tholance làm hội
trưởng danh dự của hội này và mời ông George Coedes, giám đốc trường Viễn
Đông Bác Cổ làm hội viên danh dự. Về mặt tổ chức, ban quản trị duyệt bản nội
quy và đồng ý thỉnh cầu thiền sư Thanh Hanh lên làm Thiền gia pháp chủ, đồng
thời thành lập 10 ban để phụ trách công việc hội. Cụ thể:
1. Ban Chứng Minh Đạo Sư I: Ban này sẽ thay mặt thiền gia pháp chủ để chứng
minh các buổi lễ.
2. Ban Chứng Minh Đạo sư II: ban này lo việc diễn giảng, giảng kinh, kiểm duyệt
kinh điển sách báo phật giáo.
3. Ban Cố Vẫn thực thụ
4. Ban giáo Sư dạy tăng ni tại trường phật học của hội
5. Ban Giám Viện và Tri Tạng
6. Ban Duy Na
7. Ban Thư kí phiên dịch các bài giảng của các chư tăng từ chữ nôm ra chữ quốc
ngữ.
8. Ban Đương Gia, lo về việc chi tiêu
9. Ban Ứng Cúng Trợ Niệm

10. Ban Hộ Giảng Sách Kinh cho Thiện Tín [39, tr 165]
Năm 1935 Hội Phật giáo Bắc Kì cho xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ, trụ sở tại
chùa Quán Sứ với tư cách là cơ quan ngôn luận của hội để phổ thông Phật pháp.
Như vậy sự ra đời của các tổ chức phật giáo tại Nam Kì và Trung Kì đã cổ vũ
và tạo điều kiện cho sự ra đời của Hội Phật giáo Bắc Kì. Ngay sau khi thành lập
Hội đã thực hiện nhiều hoạt động để chấn hưng đạo Phật.
1.3. CÁC HOẠT ĐỘNG CHẤN HƯNG ĐẠO PHẬT CỦA HỘI PHẬT GIÁO
BẮC KÌ

17


Sau khi ra đời Hội Phật giáo Bắc Kì đã có những hoạt động tích cực như ra
tạp chí, sưu tầm và dịch kinh sách, mở trường đào tạo tăng ni thuyết giảng kinh
pháp đã góp phần tạo nên bước phát triển, cổ vũ và tạo động lực cho phong trào
chấn hưng phát triển mạnh mẽ
1.3.1. Xuất bản báo chí
Nhằm đẩy mạnh phong trào chấn hưng, sau khi ra đời Hội Phật giáo Bắc Kì
đã cho xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ làm phương tiện để truyền bá giáo lí đạo Phật.
Báo Đuốc Tuệ ra đời vào đầu tháng 12 năm 1935, trụ sở đặt tại chùa Quán Sứ,
đường Richaud, Hà Nội. Ban chủ nhiệm tạp chí gồm có ông Nguyễn Năng Quốc
làm chủ nhiệm, thiền sư Trung Thứ trú trì chùa Bằng Sở làm chủ bút. Phó chủ
bút là thiền sư Doãn Hài (Dương Văn Hiển), trú trì chùa Tế Cát.
Mỗi tháng báo xuất bản 2 kì vào ngày 1 và 15. Hai cây bút bền bỉ nhất của
tạp chí Đuốc Tuệ là Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật và Thiều Chử Nguyễn Hữu
Kha. Ngoài ra còn có những cây bút khác như là Thái Hòa, Thanh Đặc, Tố Liên,
Đỗ Trần Bảo, Phạm Văn Côn, Đinh Gia Thuyết, Đỗ Đình Nghiêm, Trần Trọng
Kim, Bùi Kỉ v.v…
Về nội dung, Đuốc Tuệ thường bàn luận về Phật giáo, dịch thuật các kinh sách
phật, lịch sử chư tăng và chư bồ tát, chuyện các cao tăng, ký những nơi danh lam

thắng cảnh, văn thơ, giải đáp, chú thích, trung ngoại tân văn. Những bài trên báo
Đuốc Tuệ được viết rất tốt, lối hành văn phổ thông dễ hiểu.
Tinh thần hoạt động của báo Đuốc Tuệ hướng tới củng cố phát huy phong trào
chấn hưng Phật giáo đã có nhiều bài viết nhấn mạnh tinh thần “đạo Phật vì cuộc
đời, vì nhân sinh” mà không phải là đạo trốn đời. Lệ Thần Trần Trọng Kim
trưởng ban biên tập báo Đuốc Tuệ một học giả uyên bác đã có nhiều bài viết, bài
diễn thuyết nổi tiếng góp phần lớn cho phong trào chấn hưng Phật giáo Bắc Kì
như Phật giáo với cuộc sống nhân sinh, Thập nhị nhân duyên.
Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật đã viết một truyện dài đăng nhiều kỳ trong
báo Đuốc Tuệ. Truyện kể lại cuộc đời của vương phi Ỷ Lan một cô gái thôn quê
18


làm nghề hái dâu ở làng Thổ Lỗi được vua Lý Thánh Tông lấy làm vợ. Đây là câu
chuyện có tính nghệ thuật cao, thể hiện được tinh thần nhập thế tích cực của đạo
phật đã đem tinh thần đạo Phật vào xây dựng đất nước và cải tổ những bất công ở
xã hội nông thôn.
Đuốc Tuệ cũng đăng thiên biên khảo Việt Nam Thiền tông thế hệ của Nguyễn
Trọng Thuật trong nhiều kỳ. Đây là một tác phẩm nói về hành trạng, thi văn và tư
tưởng của các thiền sư Việt Nam các phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn
Thông…Ngoài ra Đuốc Tuệ còn đăng nhiều áng văn cổ trong phật học, đăng
nhiều bài thơ của Nguyễn Thiện Chính, Nguyễn Thiện Cẩn, Nhàn Vân Đình … và
những bài giới thiệu về lịch sử các chùa ở Bắc Kì. Nhờ có những nội dung phong
phú, chất lượng, bài viết sâu sắc nên tờ báo đã thu hút được nhiều độc giả trên
toàn quốc góp phần đáng kể vào việc hoằng dương phật pháp và xây dựng nền
văn hóa dân tộc.
Có thể nói sự ra đời và hoạt động của báo Đuốc Tuệ cùng với những cây bút
tâm huyết với đạo Phật đã góp phần đáng kể cho công cuộc chấn hưng đạo Phật
phát triển mạnh mẽ ở Bắc Kì, đưa đạo Phật đến gần với quảng đại quần chúng
nhân dân.

1.3.2. Mở trường đào tạo tăng ni
Trước sự xuống cấp của Tăng già, thể hiện chủ yếu trên 2 phương diện là sự
xuống cấp về đạo hạnh và trí tuệ, sự chia rẽ các tông phái, để chấn hưng Phật
giáo, một trong những công việc cấp bách là Tăng sĩ phải được đào tạo bài bản,
đặc biệt phải được tu học theo "lối mới". Nhận thức được sự quan trọng và cấp
thiết này, Hội phật giáo Bắc Kì coi công tác giáo dục là một trong những nhiệm
vụ hàng đầu. Ban giáo sư là một trong những ban "chức việc" được thành lập
ngay khi Hội Phật giáo Bắc Kì ra đời năm 1934. Công tác giáo dục Phật giáo luôn
là một trong những nội dung chính trong các cuộc họp của Hội.
Trước khi các trường phật học ra đời ở Bắc Kì tăng ni tu học theo cách truyền
thống. Cách tu học này được chia thành 2 dạng. Dạng thứ nhất các Tăng Ni ở
19


×