Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Kinh tế đối ngoại của việt nam giai đoạn 1986 – 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (708.5 KB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

===
===

BÙI THỊ HUẾ

KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1986 - 2005

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

===
===

BÙI THỊ HUẾ

KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1986 - 2005
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học


TS. NGUYỄN VĂN DŨNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS. NGUYỄN VĂN DŨNG
– người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo em trong quá trình triển khai
đề tài khóa luận. Em xin chân thành cảm ơn toàn thể các Thầy/Cô giáo khoa
Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, những người đã truyền cho em
những bài học, những kinh nghiệm quý báu và tạo mọi điều kiện cho em hoàn
thành đề tài nghiên cứu này. Xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, người thân luôn ở
bên cạnh động viên, giúp đỡ em trong những lúc khó khăn.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Hà
Nội, Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Trung tâm Thông tin và
Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Thư viện trường Đại học Quốc gia
Hà Nội đã giúp đỡ em tìm hiểu, khai thác nguồn tài liệu cần thiết, đây là một
phần quan trọng giúp cho đề tài nghiên cứu đạt kết quả cao nhất.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đặc biệt nhất tới cha mẹ, người đã sinh
thành và nuôi dưỡng em khôn lớn, người luôn giúp đỡ em có thêm động lực
và niềm tin trong lúc đề tài gặp khó khăn hay bế tắc.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 17 tháng 05năm 2018
Sinh viên

Bùi Thị Huế


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của mình. Những

số liệu và kết quả trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Đề tài chưa được
công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 17 tháng 05năm 2018
Sinh viên

Bùi Thị Huế


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu................................................... 5
5. Đóng góp của khoá luận................................................................................ 6
6. Bố cục của khoá luận .................................................................................... 7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1. KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1986 - 1995 ................................................................................. 8
1.1. Những nhân tố tác động ............................................................................. 8
1.1.1. Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ................................................ 8
1.1.2. Xu thế hợp tác khu vực ......................................................................... 13
1.1.3. Đường lối đổi mới và chủ trương phát triển kinh tế đối ngoại ............. 16
1.2. Thành tựu và hạn chế ............................................................................... 19
1.2.1. Thành tựu .............................................................................................. 19
1.2.2. Hạn chế.................................................................................................. 23
CHƯƠNG 2. KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1996 – 2005............................................................................... 28
2.1. Những nhân tố tác động ........................................................................... 28
2.1.1. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN....................... 28

2.1.2. Việt Nam tham gia khối Liên hiệp APEC ............................................ 32
2.1.3. Việt Nam bình thường hoá quan hệ với My ......................................... 34
2.1.4. Chủ trương đẩy mạnh CNH - HĐH và phát triển kinh tế đối
ngoại ................................................................................................................ 36
2.2. Thành tựu và hạn chế ............................................................................... 39


2.2.1. Thành tựu .............................................................................................. 39
2.2.2. Hạn chế.................................................................................................. 46
CHƯƠNG 3. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
GIAI ĐOẠN 1986 - 2005 ............................................................................... 51
3.1. Vai trò kinh tế đối ngoại trong phát triển kinh tế..................................... 51
3.2. Vai trò kinh tế đối ngoại đối với xã hội ................................................... 56
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 63


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Tình hình xuất khẩu qua các năm 1986 – 1992.............................. 20
Bảng 1.2. Các nước đầu tư chính ở Việt Nam đến năm 1994 ........................ 21
Bảng 1.3. Đầu tư trực tiếp ước ngoài hàng năm ............................................. 22
Bảng 2.1. Ngoại thương Việt Nam – Hoa kỳ 10 năm thiết lập quan hệ ......... 41
Bảng 3.1. Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam........................ 56
thời kỳ 1991-1999 ........................................................................................... 56


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cuối thế kỉ XX, tình hình thế giới có nhiều biến đổi mạnh mẽ:
Đó là sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa – xu thế khách

quan lôi kéo tất cả các quốc gia trên thế giới tham gia. Qua đó, tạo điều kiện
thuận lợi các quốc gia cùng nhau hợp tác và phát triển, đặc biệt trong các hoạt
động phát triển kinh tế đất nước. Khi cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật và
công nghệ đang có bước phát triển mới, tạo nên những bước nhảy vọt lớn
trong công cuộc phát triển kinh tế thế giới, thúc đẩy sự hình thành và phát
triển của nhiều ngành kinh tế mới, thì toàn cầu hóa kinh tế là “quy luật” tất
yếu trong lịch sử thế giới, là “con đường” sẽ dẫn dắt và hướng nền kinh tế thế
giới bước đến sự phát triển vượt bậc.
Xu thế toàn cầu hóa kinh tế đã đưa đến xu thế mở cửa, hợp tác và hội
nhập giữa các quốc gia vào cộng đồng kinh tế chung của thế giới. Xu thế đó
tạo ra nhiều cơ hội để các nước tiếp xúc với nhiều nền văn minh thế giới, từ
đó tạo ra động lực để phát triển, đồng thời tạo ra những điều kiện tìm kiếm,
những cơ hội và khả năng phát triển để có thể hội nhập được với nền kinh tế
thế giới. Tuy nhiên, nó cũng đòi hỏi các quốc gia cần có sự thay đổi trong cơ
cấu nền kinh tế đất nước, để có khả năng hòa nhập, có đủ sức mạnh để cạnh
tranh cùng nền kinh tế quốc tế.
Như vậy, xu thế toàn cầu hóa không chỉ tạo ra những cơ hội, động lực
cho sự phát triển các quốc gia, mà nó còn đưa đến rất nhiều thách thức to lớn,
đặc biệt là “nguy cơ tụt hậu” đối với nền kinh tế của tất cả các nước, mà trước
hết là các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển như Việt Nam.
“Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế
vượt ra khỏi biên giới mọi quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế trong sự vận động và phát triển, sự gia tăng thể hiện: mở

1


rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự luân chuyển của các dòng công
nghệ, các dòng vốn, dòng lao động trên phạm vi toàn cầu” [18; tr.13], thì kinh
tế đối ngoại (KTĐN) chính là chỗ dựa vững chắc, là kênh truyền hình tiếp cận

nhanh và mạnh hơn của một quốc gia đối với nền kinh tế quốc tế. Tất cả các
quốc gia đều tận dụng một cách tối đa kênh thông tin này của mình để cùng
hòa nhập với xu thế của thế giới, trong đó có Việt Nam.
Việt Nam từ một nước thuộc địa - nửa phong kiến, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong khi tình hình thế giới có nhiều biến đổi, Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, đất nước bị chiến tranh tàn phá
nặng nề, nền kinh tế kiệt quệ, trình độ phát triển thấp…Chính vì vậy, mở rộng
quan hệ quốc tế và tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài trở thành một chỗ
dựa, một động lực vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế - chính trị - xã hội
của đất nước. Phát triển KTĐN trở thành một trong những mối quan tâm hàng
đầu, định hướng cho nền kinh tế quốc dân. Qua đó, Việt Nam không chỉ thiết
lập và mở rộng được quan hệ ngoại giao với các nước mà còn thức đẩy được
mối quan hệ về mặt kinh tế (kinh tế đối ngoại) đối với các quốc gia trên thế
giới và khu vực, đó là các hoạt động mở rộng thị trường buôn bán xuất – nhập
khẩu, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, tiếp xúc nền khoa học – kĩ thuật công
nghệ hiện đại trên thế giới, tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế, các dịch
vụ trong nước và đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, so với các quốc gia thì Việt Nam vẫn đang trong tình trạng
là một nước nghèo, và tụt hậu xa hơn với các nước trong khu vực và thế giới,
Đây là vấn đề vô cùng bức thiết đối với dân tộc, đòi hỏi Đảng và Nhà nước
cần đưa ra được những biện pháp để khắc phục và đưa nước ta phát triển
ngang bằng với các nước trong khu vực và thế giới.
Cũng chính vì thế, trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước,
Đảng ta đã đưa ra rất nhiều chủ trương nhằm phát triển kinh tế đất nước nói


chung và KTĐN của Việt Nam nói riêng, đó là tập trung các nguồn lực của
đất nước vào công cuộc đổi mới kinh tế, mở rộng và phát triển KTĐN. Trước
khi đưa ra phương hướng và nhiệm vụ phát triển hoạt động KTĐN thì Đảng
ta đã đánh giá tình hình thực tiễn và hoàn cảnh đất nước để đưa ra được

những tư tưởng chỉ đạo, phương châm, và cách thức thực hiện hiệu quả và
phù hợp. Theo đó trong hoạt động phát triển KTĐN ta cần “gắn công cuộc
đổi mới, mở rộng, và nâng cao hiệu quả KTĐN với chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế”. Nhờ đó, nền kinh tế nước ta có sự khởi sắc, từng bước
gia nhập và hội nhập nền kinh tế thế giới, góp phần vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội đất nước, đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, giải quyết vấn đề
hậu chiến tranh và khủng hoảng trong nước. Đưa đất nước phát triển theo
hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động KTĐN Việt Nam giai đoạn 1986
– 2005 vẫn còn nhiều tồn tại, mà một phần bắt nguồn từ những chủ trương và
đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong hoạt động KTĐN. Đó là
những hoạch định chủ trương của Đảng còn có phầm chận trễ, chưa có một
chiến lược tổng thể quốc gia về KTĐN, chưa có lộ trình mở cửa của từng lĩnh
vực cụ thể và trong việc chỉ đạo, điều hành hoạt động KTĐN còn có rất nhiều
những bất cập chưa xử lí được. Hơn nữa khả năng độc lập, tự chủ của ta trong
các hoạt động kinh tế còn yếu kém, chưa có đủ sức cạnh tranh với các nền
kinh tê khác, đặc biệt trong hoạt động xuất nhập khẩu, nhập siêu vẫn còn cao
hơn xuất siêu gấp nhiều lần. Vì vậy, cần phải có những biện pháp để có thể
khắc phục và tháo gỡ tình trạng trên, giúp hoạt động KTĐN Việt Nam thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng, mất cân đối và trở thành cánh tay đắc lực nối dài
kinh tế trong nước với kinh tế nước ngoài.
Tìm hiểu KTĐN Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2005 là một vấn đề
phù hợp với khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp. Đồng thời đặt nền tảng


để tôi có thể nghiên cứu ở cấp độ cao hơn, phục vụ quá trình học tập, giảng
dạy lịch sử…
Xuất phát từ những lý do trên tôi đã lựa chọn chủ đề “Kinh tế đối ngoại
Việt Nam giai đoạn 1986 – 2005” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Vấn đề kinh tế đối ngoại là vấn đề được được phản ánh qua những tài
liệu như sau:
Trước hết là những nghiên cứu chung về kinh tế đối ngoại, bao gồm
các ấn phẩm xuất bản và các bài viết trên các tạp chí với những nội dung như
chủ trương, chính sách quản lí của Nhà nước đối với kinh tế đối ngoại, thực
trạng, những kết quả đạt được và những hạn chế còn tồn tại, cụ thể là:
Cuốn sách “Kinh tế đối ngoại Việt Nam thực tiễn và chính sách”
(1991) của tác giả Nguyễn Trần Quế, Nxb Viện khoa học xã hội Việt Nam –
Viện kinh tế thế giới, trình bày đương lối, quan điểm của đảng về KTĐN Việt
Nam, đông thời trình bày quá trình xây dựng và phát triển của KTĐN Việt
Nam giai đoạn 1945 đến nay.
Cuốn sách “Giáo trình kinh tế đối ngoại Việt Nam” (2005) của tác giả
Nguyễn Anh Tuấn (cb), Nxb Chính trị quóc gia đã trình bày quá trình Việt
Nam hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam khi tham gia các tổ chức quốc tế
và khu vực, đồng thời nêu lên những thuận lợi và khó khăn khi Việt Nam gia
nhập kinh tế quốc tế.
Tác giả Phan Huy Đường với cuốn sách “Kinh tế đối ngoại

iệt Nam”

(2007) trình bày một số quan điểm và chủ trương, chính sách của Đảng, cùng
với đó là quá trình Việt Nam gia nhập xu thế toàn cầu hóa, những thành tựu
có được khi gia nhập xu thế, cũng như chỉ ra những hạn chế và khó khăn của
KTĐN Việt Nam khi gia nhập xu thế.
Cuốn sách “Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” của Nxb


Thống kê đã trình bày những nội dung hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có
mục tiêu hội nhập, những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập và
những nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Ngoài ra còn nhiều bài viết trên các trang web như vneconomy.vn,
business.org, vietnamnet.vn, gso.gov.vn, luanvan.com... cũng đã cung cấp
những nội dung, số liệu và định hướng để tác giả có thể tham khảo và hoàn
thành khóa luận này.
3. Mục đích và nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu hoạt động KTĐN của đất nước từ những năm 1986 đến
năm 2005, từ đó thấy được tác động của tình hình thế giới cùng những thành
tựu và hạn chế đạt được; cũng như vai trò của hoạt động KTĐN trong thời kì
đổi mới đối mới với nền kinh tế - xã hội của đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
Làm rõ những nhân tố tác động đến hoạt động KTĐN và nhu cầu đổi
mới của hoạt động KTĐN; phân tích yêu cầu mở rộng và nâng cao hiệu quả
của hoạt động KTĐN trong giai đoạn 1986 đến năm 2005.
Nghiêm cứu chủ trương chỉ đạo của Đảng trong hoạt động KTĐN giai
đoạn 1986 - 2005.
Rút ra vai trò của hoạt động KTĐN đối với sự phát triển của kinh tế xã hội đất nước trong thời kì đổi mới nền kinh tế toàn cầu.
4. nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm phương pháp luận sử học
Mácxít, đảm bảo tính đúng đắn, khoa học, tính logic, tính hệ thống trong
nghiên cứu lịch sử.


4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp lịch sử: tìm hiểu nguyên nhân tại sao cần phát triển kinh
tế đối ngoại Việt Nam trong thời kì đổi mới, quá trình chuyển biến trong các
lĩnh vực của kinh tế đối ngoại diễn ra như thế nào, thu được những kết quả ra
sao, bao gồm cả sự phát triển - suy giảm,...

Phương pháp logic: sau khi tìm hiểu cụ thể các lĩnh vực của kinh tế đối
ngoại rút ra cái nhìn tổng quan về bức tranh kinh tế đối ngoại thời kì đổi mới,
lĩnh vực này có sự tương tác, hỗ trợ và ảnh hưởng tới lĩnh vực khác.
Phương pháp bổ trợ khác như thống kê, so sánh, phân tích số liệu,...
4.3. Nguồn tư liệu
Công trình sử dụng 4 loại tư liệu sau
- Văn kiện Đảng, Nhà nước
- Tài liệu lưu trữ: Niên giám thống kê qua các năm, báo cáo điều tra
tổng hợp một số lĩnh vực thuộc kinh tế đối ngoại một số năm.
- Sách báo chuyên khảo gồm: sách, bài báo,...
- Tư liệu từ nguồn internet.
5. Đóng góp của khoá luận
Về nội dung, đề tài đã khái quát lại một cách khách quan về sự phát
triển của KTĐN Việt Nam thời kỳ đổi mới giai đoạn 1986 – 2005, trong đó
bao gồm cả những ảnh hưởng của tình hình thế giới và trong nước. Những
bước thăng trầm trong từng giai đoạn của những lĩnh vực có liên quan, phân
tích những ưu nhược điểm cũng như vai trò của KTĐN; trên cơ sở, đó đúc rút
ra một số kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động KTĐN cũng như sự lãnh đạo
của Đảng trong hoạt động KTĐN của Việt Nam.
Về bài học kinh nghiệm: qua những kết quả đã làm được và những vấn
đề chưa làm được, đề tài cung cấp cơ sở thực tiễn để các nhà hoạch định


chính sách tham khảo nhằm đưa ra được những chủ trương, chính sách ph
hợp vớihoàn cảnh đất nước.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo có thể trợ giúp một
phần nào đó trong quá trình học tập và là nguồn tư liệu tương đối có hệ thống
cho những ai quan tâm đến kinh tế đối ngoại Việt Nam thời đổi mới.
6. Bố cục của khoá luận


Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung
chính của khóa luận bao gồm có 3 chương như sau:
Chương 1: Kinh tế đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1986 – 1995.
Chương 2: Kinh tế đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1996 – 2006.
Chương 3: Vai trò kinh tế đối ngoại giai đoạn 1986 – 2006.


NỘI DUNG
Chương 1. KINH TẾ ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN (1986 - 1995)
1.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
1.1.1. Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế
Cuối thế kỉ XX, tình hình thế giới có thay đổi sâu sắc, ảnh hưởng tới tất
cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Đó sự xuất hiện của các xu thế quốc
tế như xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Những nhân tố tác động tới xu thế toàn cầu hóa:
Từ cuối thế kỉ XX , cuộc cách mạng khoa học và công nghệ có bước
chuyển lớn với những phát minh vĩ đại. Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ là khoa học, công nghệ và sản xuất, có quan hệ chặt
chẽ, hỗ trợ nhau, tương tác với nhau: các phát minh khoa học chuyển hóa
thành công nghệ và đưa vào sản xuất đại trà.
Cuộc cách mạng này đã làm cho hợp tác quốc tế ngày càng gia tăng.
Một mặt, tạo sự liên kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia về vốn, tài
nguyên, lao động và khoa học kĩ thuật. Từ đó, đưa nền kinh tế – xã hội thế
giới tiến gần hơn xu hướng quốc tế - toàn cầu hóa cao. Lần đầu tiên, một thị
trường thế giới chung được hình thành mà nó bao gồm tất cả các quốc, dù có
cùng chung hay có sự khác nhau về chế độ chính trị và xã hội. Các nước tăng
cường giao lưu, hợp tác trong nhiều lĩnh vực như: khoa học kĩ thuật, y tế, giáo
dục, văn hóa, an ninh, du lịch, môi trường… đặc biệt trong hoạt động kinh tế.
Ngày càng nhiều tổ chức quốc tế với quy mô khác nhau được thành lập, hoạt

động có hiệu quả làm cho các quốc gia, các dân tộc trên thế giới gắn bó với
nhau chặt chẽ hơn. Mặt khác, tạo ra một cuộc đua quyết liệt giữa các quốc
gia, cuộc đua ấy dù là thắng hay bại thì nó cũng đã dẫn đến những biến đổi về
kinh tế - xã hội - văn hóa - tư tưởng... trong mỗi quốc gia.


Sự phát triển nhảy vọt của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã
đưa nền kinh tế thế giới đến bước phát triển vượt bậc, tới gần hơn với xu thế
quốc tế hóa cao. Đứng trước những biến đổi của tình hình kinh tế thế giới,
không một các quốc gia nào muốn tách mình ra khỏi xu thế chung của nhân
loại, mà muốn hòa mình, hòa nhập với xu thế của thời đại.
Theo Thomas L.Friedman, toàn cầu hóa “là một sự hội nhập không thể
đảo ngược giữa những thị trường, quốc gia và công nghệ, tới mức chưa từng
có - theo phương cách tạo điều kiện cho các cá nhân, tập đoàn công ti và nhà
nước vươn quan hệ đến nhiều nơi trên thế giới xa hơn, sâu hơn với chi phí
thấp hơn bao giờ hết” [14 ; tr. 46]. Đó là xu thế khách quan, lôi cuốn tất cả
các quốc gia, các tập đoàn công ty, các cá nhân…, và tạo nên sự liên kết, sự
ảnh hưởng và phụ thuộc lẫn nhau, cùng nhau xây dựng thị trường sản xuất
chung.
Một số vấn đề toàn cầu cấp bách cần được giải quyết, đòi hỏi phải có
sự hợp tác quốc tế c ng nhau đưa ra phương án giải quyết. Cấp bách nhất đó
chính là vấn đề ô nhiễm môi trường, trái đất nóng lên, vấn đề gia tăng dân số,
dịch bệnh, nghèo đói, chiến tranh một số khu vực...
Toàn cầu hóa kinh tế có những điểm như sau:
Sự hình thành “nền kinh tế tri thức”, đặc trưng là sử dụng tri thức trong
quá trình sản xuất và tiêu thụ, lấy thị trường toàn cầu làm địa bàn hoạt động,
lấy tổ chức xí nghiệp kiểu mạng lưới mở rộng khắp toàn cầu là chủ yếu.
Tiền vốn lưu chuyển xuyên quốc gia với quy mô ngày càng lớn, tốc độ
nhanh, phạm vi rộng. Cùng với sự lưu chuyển vốn là dòng đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) tăng lên nhanh chóng.

Sự biến đổi và tăng trưởng không ngừng của thương mại quốc tế dẫn
tới sự luân chuyển hàng hóa trên thế giới tăng lên gấp nhiều lần.
Như vậy, toàn cầu hóa đã tạo ra sự phân công lao động quốc tế, thương


mại quốc tế dựa trên sự so sánh lợi thế. Nước nào có nguồn tài nguyên độc
đáo, số lượng nhiều, giá thành rẻ đều có thể tham gia vào đấu trường cạnh
tranh kinh tế quốc tế. Chính điều này đã đem đến cho Việt Nam những điều
kiện phát triển kinh tế khi mà Việt Nam s n có nguồn tài nguyên phong phú
và đa dạng. Đồng thời, toàn cầu hóa thúc đẩy quá trình dịch chuyển vốn, lao
động và công nghệ nên Việt Nam có xuất khẩu lao động, xuất khẩu tư bản
(đầu tư ra nước ngoài) và nhập cảng các thiết bị sản xuất ngày càng lớn.
Bên cạnh những cơ hội mà toàn cầu hóa đã đem lại thì các quốc gia
trên thế giới trong đó có Việt Nam cũng phải đối mặt với vô vàn những thách
thức và khó khăn, đó là:
Cơ hội để các quốc gia thông qua tự do hóa thương mại tiếp cận với
nguồn vốn và khoa học - công nghệ, mà trước đây bị hàng rào thuế quan và
phi thuế quan cũng như những chính sách cấm vận ngăn cản, không có cơ hội
tiếp cận. Trong khi đó, toàn cầu hóa tạo điều kiện cho các nước tham gia vào
phân công lao động quốc tế, khai thác tối đa những tiềm lực đất nước, từ tận
dụng tốt tiềm lực trong nước tới nước ngoài để chuyển đổi cơ cấu kinh tế phát
triển theo hướng nền kinh tế thị trường, từng bước đưa nền kinh tế - xã hội đất
nước phát triển, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế…
Thách thức tiếp theo đó là sự tự do thương mại, hàng hóa của các quốc
gia có sự thâm nhập lẫn nhau, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt và quyết liệt, nếu
không làm chủ được thị trường trong nước có nguy cơ thị trường trong nước
bị khủng hoảng và tràn ngập hàng hóa nước ngoài. Đồng thời là sự lệ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia, cũng như sự chi phối của các tổ chức kinh tế - tài
chính lớn trên thế giới đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát
triển như Việt Nam.

Từ đó, yêu cầu về phát huy những nội lực trong nước, nắm bắt thời cơ
để vươn lên phát triển, vượt qua những khó khăn, khủng hoảng là yều cầu cần


được quan tâm trong bối cảnh nước ta tham gia vào xu thế “toàn cầu hóa”.
Ngoài ra sự biến đổi nhanh chóng và mạnh mẽ cục diện thế giới cũng
đã tác động lớn đến xu thế toàn cầu hóa và quốc tế hóa của nhân loại. Năm
1973, trên thế giới đã diễn ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ, đưa đến cuộc khủng
hoảng về nhiều mặt của thế giới. Cuộc khủng hoảng này đã ảnh hưởng mạnh
mẽ tới hầu hết các quốc gia, Liên Xô do đã không kịp thời có những biện
pháp để ứng phó, thêm vào đó là sự xơ cứng trong quản lí của thời chiến và
khôi phục kinh tế sau chiến tranh không còn phù hợp trong thời kỳ hòa bình.
Vì vậy, đã đẩy Liên Xô vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng trên tất cả các
lĩnh vực. Nhằm cứu vãn tình thế, năm 1985,

iên Xô đã đưa ra những quyết

định cắt giảm viện trợ cho hai nước là Việt Nam và Cuba (gây ra ảnh hưởng
lớn đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam, khi kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa
vào viện trợ của

iên Xô). Đồng thời Gooc-ba-chốp quyết định cải tổ. Tuy

nhiên, cải tổ vì tồn tại rất nhiều hạn chế, đã đẩy khủng hoảng ở Liên Xô trở
nên sâu sắc hơn và cuối c ng là thất bại. Sự thất bại ấy đã chấm dứt sự tồn tại
của Liên Xô và kéo theo đó là sự sụp đổ của các nước Đông Âu.
Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, cục
diện thế giới đã có sự thay đổi rõ rệt. Trước năm 1991, thế giới với sự tồn hai
hệ thống chính trị do Mỹ và iên Xô đứng đầu. Thì sau năm 1991, là sự vươn
lên phát triển mạnh mẽ của thế giới đa cực. Các nước để đưa kinh tế đất nước

phát triển buộc phải điều chỉnh chính sách ngoại giao và chú trọng phát triển
trong nước, các nước từng là đồng minh của Mỹ và phải lệ thuộc vào Mỹ thì
rời Mĩ để tập trung phát triển kinh tế đất nước. Chính sách đối ngoại, nếu như
trước đây các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa luôn trong xu thế đối
đầu không hợp tác, thì đến nay các nước đều mong muốn thúc đẩy mối quan
hệ hòa bình hợp tác, cải thiện mối quan hệ tốt đẹp và thúc đẩy mạnh xu hướng
đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế. Đặc biệt trong quan hệ


kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế trở thành nhu cầu cấp thiết hàng đầu của
mỗi quốc gia.
Cùng với đó là xu thế hòa dịu, hòa hoãn và hợp tác trong quan hệ quốc
tế. Quan hệ giữa các nước lớn cũng có sự thay đổi nhanh chóng, từ sự đối đầu
gay gắt với nhau trong "chiến tranh lạnh" đã chuyển sang vừa hợp tác vừa
đấu tranh, vừa xung đột lại vừa thỏa hiệp, đấu tranh nhưng hạn chế chiến
tranh trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng, độc lập chính trị của mỗi quốc
gia. Năm 1989, iên Xô và Mĩ chấm dứt chiến tranh lạnh,

iên Xô và Trung

Quốc bước đầu nối lại quan hệ bạn bè giữa hai nước. Đây chính là cơ sở dẫn
đến sự hợp tác trong quan hệ quốc tế diễn ra trên tất cả các lĩnh vực.
Trong khi đó, khu vực châu

- Thái

ình Dương cũng đạt được rất

nhiều thành tựu to lớn, ảnh hưởng tích cực đến Việt Nam, đó là:
Từ năm 1978, Trung Quốc bắt đầu tiến hành công cuộc cải tổ mở cửa

đất nước và đạt được thành công lớn, đặc biệt từ năm 1998 đến nay, Trung
Quốc luôn nằm trong tốp các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh và
mạnh, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Điều đó, đã tác động mạnh mẽ
đến Việt Nam, vừa là một láng giềng vừa là nước có chung một thể chế chính
trị, sự phát triển của Trung Quốc cho thấy sự cần thiết đổi mới, cải cách đất
nước, đồng thời để lại cho Việt Nam những bài học kinh nghiệm trong công
cuộc đổi mới cơ chế quản lí và phát triển đất nước.
Ngoài ra, khu vực Đông

và Đông Nam

thời kì này cũng có sự

phát triển vượt bậc đó là sự xuất hiện các nước công nghiệp mới (NICs) 4 con
rồng của Châu

đó là Hàn Quốc, Singapor, Đài oan, Hồng Kông (khi còn

là thuộc địa của nước Anh)..., ngoài ra còn có sự xuất hiện của con hổ Thái
Lan, trở thành những nước có nền phát triển kinh tế phát triển nhất khu vực.
Tất cả các yếu tố trên thúc đẩy mạnh mẽ Việt Nam thực hiện đổi mới, mở
cửa, gia nhập xu thế toàn cầu hóa.


1.1.2. Xu thế hợp tác khu vực
Cùng với xu thế toàn cầu hóa, xu thế hợp tác khu vực và quốc tế cũng
diễn ra mạnh mẽ. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động phức
tạp, đặc biệt là sau chiến tranh lạnh, đã thúc đẩy mạnh mẽ sự ra đời của nhiều
tổ chức quốc tế và khu vực tạo ra sự hợp tác và liên kết kinh tế giữa các tổ
chức với nhau, giữa các nước với các tổ chức trong khu vực và quốc tế, và các

quốc gia với nhau, thu hút sự tham gia của nhiều nước, và vùng lãnh thổ có
nền kinh tế khác nhau, các tổ chức ra đời là xu thế khách quan của thời đại.
Trước hết phải kể đến sự ra đời “Tổ chức thương mại thế giới WTO
(1/1995) – ra đời trên cơ sở hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT)" [37]; “có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước
thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm
mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do
thương mại” [40]. WTO đã mở ra những điều kiện thuận lợi cũng như khó
khăn mới cho tất cả các nước, trong đó có Việt Nam.
Nửa sau thế kỉ XX, nhu cầu liên kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương Diễn diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy một diễn đàn kinh tế hợp tác khu vực
ra đời đó chính là “Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái

ình Dương

(APEC) (11/1989)” trong quá trình phát triển đã kết nạp thêm các thành viên
mới như: Trung Quốc (1991), 3 nước Nga, Việt Nam, và Peru chính thức trở
thành thành viên vào năm 1998… APEC ra đời với sự tham gia của nhiều khu
vực, nền kinh tế lớn, và khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các quốc gia khi tham
gia tổ chức đều mang mục đích chung là: "duy trì sự tăng trưởng và phát triển
của khu vực vì lợi ích chung của các dân tộc trong khu vực, bằng cách đó đã
đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế” [25] các nước trong
khu vực và thế giới. Diễn đàn đã phát huy tối đa vai trò tích cực của mình đối
với nền kinh tế khu vực và thế giới, “khuyến khích các luồng hàng hóa, vốn,


dịch vụ và công nghệ. Phát triển và tăng cường hệ thống thương mại đa
phương hóa, vì lợi ích của các nước Châu Á – Thái

ình Dương và các nền


kinh tế khác. Cắt giảm những rào cản, cản trở việc trao đổi hang hóa, dịch vụ
và đầu tư giữa các thành viên, phù hợp với các nguyên tắc của GATT/WTO ở
những lĩnh vực thích hợp và không làm tổn hại tới những nền kinh tế khác”
[25]. Đối với Việt Nam, APEC tạo cơ hội Việt Nam xây dựng mối quan hệ
hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước thành viên của diễn đàn, trở thành đối
tác quan trọng của chúng ta, nhất trong hoạt động KTĐN.
Tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam

(ASEAN), ra đời vào

tháng 8/1967, ban đầu gồm có 5 nước Thái Lan, Indonexia, Singapore,
Malaysia, và philippin, sau đó kết nạp thêm các thành viên mới trong đó có
Việt Nam (1995).
Tổ chức ASEAN ra đời là xu thế chung thời đại khi mà xu thế toàn cầu
hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế đang phát triển mẽ, thúc đẩy các tổ chức
quốc tế và khu vực lần lượt ra đời và ASEAN cũng không ngoại lệ. Tổ chức
ASEAN ra đời tạo ra cây cầu kết nối, trước hết là giữa các nước trong khu
vực Đông Nam

với nhau, sau đó là liên minh, liên kết tổ chức ASEAN với

các tổ chức quốc tế… tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát triển trên mọi
mặt: kinh tế - tài chính, chính trị, xã hội, văn hóa,… Mục đích chính của tổ
chức này đó chính là: “phát triển kinh tế - văn hóa thông qua những nỗ lực
hợp tác chung giữa các nước thành viên, trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn
định tình hình khu vực”.
Tuy nhiên, khi mới thành lập, ASEAN đứng trước chuyển biến gay gắt
của tình hình thế giới, sự tồn tại của hai hệ thống chính trị khác nhau xã hội
chủ nghĩa do


iên Xô đứng đầu và tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu, hai hệ

thống này luôn trong tình trạng đối đầu, th địch lẫn nhau. Một trong số
những nước tham gia thành lập tổ chức ASEAN là đồng minh với Mỹ như


Thái Lan, Philippin. Vì vậy, quan hệ đối ngoại giữa các nước Đông Nam
thời kì này còn hạn chế, cũng chưa có sự hợp tác về nhiều mặt trên lĩnh vực
kinh tế.
Thời kỳ này quan hệ Việt Nam với các nước ASEAN khá gay gắt. Từ
sau năm 1973, khi hiệp định Paris (7/1973) được kí kết thì mối quan hệ căng
thẳng mới được cải thiện. Phải đến năm 1995, khi Việt Nam trở thành thành
viên thứ 7 của tổ chức này thì mối quan hệ mới có sự khởi sắc rõ nét và giành
được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các mặt. Có thể thấy trước năm 1995,
về cơ bản Việt Nam hạn chế quan hệ với các nước ASEAN nhưng với xu thế
chung của thời đại cùng với sự phát triển không ngừng của các tổ chức quốc
tế, đặc biệt là “sự ra đời của nhiều tổ chức liên kết và liên minh kinh tế với
những thoả thuận thương mại khu vực và song phương như Liên minh Châu
Âu (EU) ở Tây Âu, NAFTA của khu vực Bắc Mỹ là một thách thức không
nhỏ đối với tăng trưởng của ASEAN” [37]. Không những vậy, khi gia nhập
ASEAN các nước Đông Nam

sẽ có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc và thậm chí

hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế khác, tạo điều kiện tìm kiếm đối tác, nguồn
vốn đầu tư, thị trường… Chính vì thế, buộc Việt Nam và các nước trong khu
vực Đông Nam

xích lại gần nhau hơn, cùng nhau xây dựng mối quan hệ đa


phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế để cùng nhau tồn tại và phát triển
trong xu thế chung, đang phát triển như vũ bão của thời đại: "hòa bình,đối
thoại, hợp tác và phát triển".
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) – “một dạng thức liên kết
thương mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam

, ý tưởng thành lập và

thực hiện AFTA được đề xuất tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại
Singapore (1/1992). Nhằm tiến tới thúc đẩy sự thực hiện AFTA tại hội nghị
các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) năm 1992. Các thành viên trong hiệp
hội đã thống nhất ký hiệp định thực hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có


hiệu lực chung (CEPT)” [37].
AFTA được thành lập với mục đích là nhằm kết nối các quốc gia trong
khu vực trên tất cả các lĩnh vực đặt biệt lĩnh vực kinh tế kinh doanh, sản xuất
và trao đổi hàng hóa, tạo ra sức mạnh về tiềm lực kinh tế có thể cạnh tranh
với các tổ chức kinh tế khác trên thế giới. “Từ đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài, nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá và bổ xung nguồn lực
giữa nền kinh tế của các nước thành viên, nâng cao khả năng thích ứng một
cách chủ động với những thay đổi về điều kiện chung của tình hình thế giới
nói chung và tình hình thương mại nói riêng, thúc đẩy sự phát triển của
ASEAN và các nước thành viên” [37].
Có thể thấy hợp tác liên kết quốc tế đã trở thành xu thế chung, dỡ bỏ
được nhiều dào cản thương mại, nhờ đó hoạt động thương mại quốc tế giữa
các nước ngày càng đẩy mạnh theo hướng nhất thể hóa. Nói cách khác, tất cả
các nước đều nỗ lực tìm cách tham gia vào xu thế chung của thế giới, tìm
kiếm chỗ đứng vững chắc của mình trên trường quốc tế, đủ sức tồn tại và

cạnh tranh. Đây thực chất là quá trình “vừa hợp tác vừa đấu tranh” trong quan
hệ quốc tế. Hội nhập quốc, trước hết kinh tế đối ngoại nhu cầu tất yếu và cấp
bách trong bối cảnh quốc tế sau năm 1986.
1.1.3. Đường lối đổi mới và chủ trương phát triển kinh tế đối ngoại của
Đảng
Sau khi cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc kết thúc, đất nước thống nhất
được hai miền Nam – Bắc, đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới,
thời kỳ quá độ lên chủ ngĩa xã hội. Đứng trước sự chuyển biến khó lường của
tình hình thế giới và trong nước, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần đưa ra được
những chường trương, đường lối chính sách nhằm mục tiêu trước mắt khôi
phục và ổn định được tình hình kinh – tế xã hội đất nước, tiến tới xây dựng và
phát triển đất nước. Đặc biệt, khi xu thế hòa bình, ổn định, đối thoại và hợp


tác đang phát triển mạnh mẽ đòi hỏi các chủ trương, chính sách cần có sự thay
đổi linh hoạt và phù hợp tình hình thực tế của đất nước.
Trên thực tế, từ cuối năm 70 đầu những năm 80 của thế kỉ XX, kinh tế
nước ta lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng.

ạm phát tăng nhanh đến mức

không kiểm soát nổi: "sản xuất hàng hóa đình đốn, tốc độ tăng trưởng kinh tế
chỉ đạt 0,4%; lạm phát tăng cao 2-3 con số, lên đến 774,7% vào năm 1986; tỷ
lệ đói nghèo chiếm tới 70% dân số" [51].
Khó khăn yếu kém đó xuất phát từ nguyên nhân:
Xuất phát từ những sai lầm trong đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước, khi thế giới đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa, mở cửa hội
nhập và phát triển thì nền kinh tế Việt Nam vẫn đặt dưới sự quản lí hành
chính, tập trung, quan liêu bao cấp của nhà nước. Các biện pháp đưa ra nhằm
cứu nguy tình hình kinh tế - xã hội mang tính chất chủ quan, nóng vội, quá

coi trọng số lượng mà không quan tâm tới chất lượng, bởi mong muốn nhanh
chóng thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong khi đất nước mới
đang ở chặng đường đầu tiên. “Những sai lầm đó đã làm trầm trọng thêm tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, không phát huy đầy đủ tính chủ động,
sáng tạo của người dân” [42], và những tiềm năng s n có của đất nước để phát
triển. Chính vì lẽ đó, đổi mới là vấn đề sống còn của đất nước, đồng thời nó
cũng là xu thế hòa nhập chung thế giới.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã họp và xác định tình
hình thế giới và trong nước, thấy rằng để phát triển kinh tế, đẩy lùi khủng
hoảng cần chú trọng chính sách ngoại giao, đặc biệt trong hoạt động KTĐN
thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hợp tác kinh tế quốc tế… Vì vậy, xác định
phải: “mở rộng và nâng cao hiệu quả KTĐN và coi xuất khẩu là một trong 3
chương trình cốt lõi của kinh tế - xã hôi” [13; tr.108].
Từ năm 1986, Đảng và nhà thực hiện chính sách: “mở cửa chuyển đổi


nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
hàng hóa bao gồm nhiều thành phần” [13; tr.108 - 109]; đề ra chủ trương “đẩy
lùi chính sách bao vậy kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta”; Phát triển
mạnh mẽ KTĐN, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, Đảng ta khẳng định:
“Nhiệm vụ ổn định và phát triển khoa học - kĩ thuật và công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một
phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại” [10; tr.81].
Như vậy, Đảng và Nhà nước đã đánh giá cao vai trò của kinh tế đối
ngoại trong sự nghiệp đổi mới, cũng như đánh giá được vai trò quan trọng của
“khoa học kĩ thuật và công nghiệp hóa”, mang tính chất quyết định nhất trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, quá trình phát triển đó “nhanh
hay chậm lại phụ thuộc một phần vào hoạt động KTĐN” [37]. Qua đó, chứng
minh mối liên quan, tác động giữa kinh tế đối ngoại với các thành phần kinh
tế khác trong nền kinh tế nói chung. Trong quá trình phát triển của nền kinh

tế. Sau năm 1986, điểm nổi bật là từng bước chuyển đổi từ cơ chế quản lý
theo mô hình “Nhà nước nắm độc quyền mọi hoạt động kinh tế cũng như độc
quyền ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại”sang cơ chế "Nhà nước
thống nhất quản lý kinh tế đối ngoại bằng chính sách, pháp luật và kế hoạch
hóa nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường". Quan
điểm cơ bản nêu trên là một trong những căn cứ quan trọng của những chính
sách kinh tế đối ngoại được hình thành trong thời gian sau đó.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) Đảng và nhà nước đã xác định rõ
chủ trương “độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại” với phương châm “ iệt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [13, tr.147].
Xuất phát từ tình hình thực tế, ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, nước ta bị cắt hết
khoản viện trợ từ iên Xô, điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình kinh tế
- xã hội nước ta: khủng hoảng, lạm phát tăng cao, đời sống nhân khó khăn…
bởi vì Liên Xô là nguồn viện trợ, đầu tư lớn nhất của nước ta từ trước những


×