Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.27 KB, 23 trang )

1

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bước sang thế kỉ XXI, cả nhân loại đang đứng trước những thay đổi lớn
về mọi mặt. Đó là thời đại của thông tin đại chúng, mạng công nghệ thông tin
được trải khắp trên toàn cầu lan rộng đến những vùng sâu, vùng xa. Các cấp, các
ngành cũng đang khẩn trương học tập nâng cao trình độ để theo kịp đáp ứng với
sự đổi mới từng ngày của xã hội, trong đó có ngành Giáo dục. Ngành Giáo dục
đề ra nhiều mục tiêu lớn nhằm tiến tới một đất nước có nền giáo dục toàn diện
như trường học thân thiện, học sinh chăm ngoan, chống bệnh thành tích và ngồi
nhầm lớp. Điều đó yêu cầu con người phải học thật và thi thật. Mục đích cuối
cùng của ngành là đào tạo ra những con người có đủ đức, đủ tài để gánh vác
trọng trách là xây dựng đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác
Hồ kính yêu hằng mong ước. Để làm được điều này không còn con đường nào
khác là phải học. Việc học được xem như là xây một tòa tháp, những viên gạch
đầu tiên của nền móng phải vững vàng thì tòa tháp mới đứng vững vàng được.
Việc học cũng vậy, cấp tiểu học được coi là nền móng cho những cấp học sau
này. Ở cấp Tiểu học, các em học tốt thì việc học lên cao hơn sẽ dễ dàng hơn
nhiều.
Lịch sử loài người từ khi con người chưa làm chủ được thiên nhiên, sống
phụ thuộc vào thiên nhiên, thì con người cũng đã có nhu cầu học tập, những kinh
nghiệm sống hằng ngày được con người truyền miệng cho nhau, nhờ vào truyền
miệng mà rất nhiều tác phẩm dân gian của dân tộc ta được sáng tác từ rất lâu vẫn
còn tồn tại đến ngày nay như: Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thánh Gióng… Nhưng các
tác phẩm này thường mang tính dị bản. Do vậy, cùng với sự tiến hóa của loài
người, dần dần con người đã tìm ra cách ghi lại những kinh nghiệm của đời
sống, những thành tựu văn hóa, khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ
trước và của cả những người đương thời, phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết.
Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài
người, không có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Để


tiếp thu những kinh nghiệm của ông cha để lại, thì con người phải biết đọc. Vì
vậy, dạy đọc có ý nghĩa rất quan trọng.
Bên cạnh đó, việc dạy đọc được chú trọng ngay ở cấp Tiểu học. Trong
môn Tiếng Việt, phân môn Tập đọc có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó
đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng
quan trọng hàng đầu của học sinh ở cấp học đầu tiên trong trường phổ thông.
Học sinh biết đọc các loại văn bản hành chính, khoa học, báo chí, văn học phù
hợp với thể loại và nội dung văn bản, thể hiện được tình cảm, thái độ của tác giả,
giọng điệu của nhân vật. Đọc thầm có tốc độ nhanh hơn lớp 4. Biết cách xác định
đại ý, chia đoạn văn bản, nhận ra mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện tình tiết
trong bài, biết nhận xét về một số hình ảnh, nhân vật trong các bài tập đọc có giá


2

trị văn chương. Biết sử dụng từ điển học sinh. Có thói quen và biết cách ghi chép
các thông tin đã học. Thuộc lòng mười bài (trong đó có hai bài văn xuôi).
Chính vì vậy, đọc là kĩ năng quan trọng trong việc dạy học ở trường tiểu
học. Đặc biệt là học sinh lớp 5, đây là những lớp cuối cấp tiểu học, mà theo yêu
cầu của Bộ Giáo dục thì học sinh hết bậc tiểu học không những biết đọc thông,
viết thạo mà còn phải biết đọc diễn cảm. Đây là một cấp học nền tảng cho các
em vững bước vào những cấp học cao hơn được vững vàng, là viên gạch đầu tiên
cho ngôi nhà văn hóa của các em sau này. Do đó, tôi chọn đề tài này để nghiên
cứu và tìm ra một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5 - trường
PTDTBT Tiểu học và THCS Phước Lộc.
2. Mục đích nghiên cứu
Tập đọc là phân môn thực hành, vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành kĩ
năng đọc cho học sinh. Kĩ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh. Dạy
đọc để giáo dục lòng ham đọc sách cho học sinh, giúp các em thấy được đây
chính là con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ phát triển. Tập

đọc còn góp phần làm giàu vốn kiến thức ngôn ngữ, bồi dưỡng cho học sinh lòng
yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em có cách tư duy có hình ảnh.
Đặc biệt là học sinh lớp 5, là lớp cuối cấp Tiểu học, yêu cầu về đọc càng
cao hơn. Đòi hỏi học sinh khi học xong lớp 5 là phải đọc thông, viết thạo và biết
đọc diễn cảm, thể hiện tâm hồn của tác giả qua giọng đọc. Bởi vậy, để làm tốt
những nhiệm vụ nêu trên, đề tài sẽ đưa ra một số biện pháp để giúp học sinh đọc
thông được văn bản và đọc đúng ngữ điệu.
Qua đó, nhằm tìm ra các biện pháp góp phần để rèn luyện cho học sinh
kĩ năng đọc, nâng cao hiệu quả đọc của học sinh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Các biện pháp rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5 - Trường
PTDTBT Tiểu học và THCS Phước Lộc.
- Các bài tập đọc, đoạn trích trong Sách giáo khoa chương trình tiểu học
ở lớp 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Cơ sở lí luận của việc đọc.
- Đối chiếu quy tắc để tìm hiểu thực trạng của việc dạy và học tập đọc ở
trường Tiểu học.
- Các biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu cách luyện đọc trong phân môn Tập đọc ở lớp 5.


3

- Tập trung nghiên cứu học sinh lớp 5 - Trường PTDTBT Tiểu học và
THCS Phước Lộc.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu nhận tài liệu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Khái niệm đọc
1.1 Quan niệm về đọc
Đọc không chỉ là một công việc giải quyết bộ mã gồm hai phần chữ viết
và phát âm, không phải chỉ là sự đánh vần lên thành tiếng theo đúng như các kí
hiệu chữ viết mà đọc còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu
những gì được đọc. Dạy đọc có một ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học, đọc giúp trẻ
chiếm lĩnh được một ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để
học tập các môn khác. Đọc đúng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng
như tư duy của người đọc .
Trong cuốn sổ tay thuật ngữ phương pháp dạy học tiếng Nga (1998),
viện sĩ M.R.Lơ rốp đã định nghĩa: Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá
trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó, là
quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có
âm thanh (ứng với đọc thầm).
Sau khi xem xét các định nghĩa, quan niệm khác nhau, tôi nhận thấy các
định nghĩa thường nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau của việc đọc. Đọc
không chỉ đánh vần phát âm thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ viết, cũng
không là quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc mà
đó chính là sự tổng hợp của cả hai quá trình trên. Như vậy, hoạt động phải diễn
ra đồng thời hai mặt ngôn ngữ và tư duy. Do vậy, tôi chọn và sử dụng định nghĩa
của Viện sĩ M.R.Lơrốp để làm cơ sở thực hiện đề tài. Và do đó, đọc chính là hình
thức chữ viết của văn bản thành hình thức âm thanh để người đọc, người nghe
hiểu được những điều tác giả nói qua chữ viết.
1.2 Cấp độ đọc
Thế nào là một học sinh biết đọc ? Đó cũng là vấn đề cần quan tâm. Biết
đọc được hiểu theo nhiều mức độ. Học sinh mới biết đánh vần, ngập ngừng đọc
từng tiếng một, thế cũng gọi là biết đọc. Đọc tóm lược nội dung của một quyển
sách trong vài ba trang cũng gọi là biết đọc. Chọn trong kho tàng sách báo của

nhân loại những gì mình cần, trong một ngày nắm được tinh thần của hàng chục
quyển sách cũng gọi là biết đọc.


4

Như vậy, quan niệm về người biết đọc không cố định phụ thuộc vào trình
độ của mỗi người. Nhưng để đạt đến mức biết đọc thì người đọc phải đọc thông
thạo văn bản và nắm được nội dung, ý nghĩa của những con chữ.
1.3 Ý nghĩa của việc đọc
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hóa, khoa học, tư
tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn
đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp
thu nền văn minh của loài người, không có hạnh phúc đúng với nghĩa của từ này
trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhận khả năng tiếp thu lên nhiều
lần. Từ đây, ta biết tìm hiểu đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự
nhiên, xã hội tư duy. Biết đọc, con người sẽ có khả năng chế ngự một phương
tiện văn hóa cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người
khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác, đặc biệt khi đọc các tác
phẩm văn chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn
rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy năng lực hành động,
sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. Không biết đọc, con
người không có điều kiện hưởng trọn vẹn thành tựu giáo dục mà xã hội mang lại
cho họ, không thể hình thành được nhân cách toàn diện. Đặc biệt, trong thời đại
bùng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó giúp người ta sử dụng
các nguồn thông tin. Đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc để học, học cả đời.
Vì những lí lẽ trên mà dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Đọc trở thành một
đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ
phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao
tiếp và học tập. Nó là công cụ để học các môn khác, nó tạo ra hứng thú và động

cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập
cả đời. Đọc là một kĩ năng không thể thiếu của con người văn minh.
2. Cơ sở khoa học của việc đọc
2.1 Cơ chế đọc
Cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy đọc vì nó sẽ giúp chúng ta xác định
mục đích, nội dung của quá trình đọc, cũng như xác định mục đích, nội dung của
quá trình dạy học.
Đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp, là cơ sở của việc tiếp nhận thông
tin bằng chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác, sử dụng bộ mã chữ âm, dựa vào cơ quan phát âm để phát ra một cách trung thành những dòng văn
tự ghi lại lời nói âm thanh. Trong quá trình đọc, con người tư duy để nhận thức,
sử dụng bộ mã chữ - nghĩa, tức là mối quan hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các
khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu nội dung những gì được đọc.
Như vậy, đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt, hoạt động
của cơ quan phát âm, cơ quan thính giác và sự thông hiểu những gì đọc được.


5

Nhiệm vụ của sự phát triển kĩ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những mặt
riêng lẻ của quá trình đọc. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì
việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác và biểu cảm bấy nhiêu.
2.2 Cơ sở về âm thanh của ngôn ngữ khi đọc
2.2.1 Chính âm
Chính âm là cá chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu lực
về mặt xã hội. Chính âm sẽ quy định nội dung luyện phát âm ở Tiểu học. Hiện
nay, trong trường học chưa có văn bản quy định về chuẩn chính âm. Phát âm
đúng chuẩn chữ viết sẽ mang lại nhiều lợi ích, trước hết học sinh viết đúng chính
tả, sau đó còn giúp các em dễ dàng hơn khi học ngoại ngữ.
2.2.2 Trọng âm và ngữ điệu
Trọng âm

Là độ vang và độ mạnh khi phát ra âm tiết. Dựa vào sự phát âm một
tiếng mạnh hay yếu, kéo dài hay không kéo dài, đường nét thanh điệu rõ hay
không rõ, người ta chia các tiếng trong chuỗi lời nói thành tiếng có trọng âm và
không có trọng âm. Trọng âm mạnh rơi vào các từ truyền đạt thông tin mới hoặc
có tầm quan trọng, Trọng âm yếu đi với những từ không có hoặc có ít thông tin
mới.
Ngữ điệu
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên
cao hay xuống thấp giọng nói, giọng đọc.
Theo nghĩa rộng, ngữ điệu là sự thống nhất của một tổ hợp các phương
tiện siêu đoạn có quan hệ tương tác với nhau được sử dụng ở bình diện câu như
cao độ, cường độ, tốc độ, trường độ và âm sắc. Những yếu tố này không tồn tại
một cách độc lập mà thống nhất thành một ngữ điệu. Ngữ điệu chính là sự hòa
đồng về âm hưởng của bài đọc.
Luyện đọc thành tiếng không dừng lại ở việc luyện chính âm mà cần
phải luyện đọc đúng ngữ điệu. Để tạo ra ngữ điệu, học sinh phải làm chủ các
thông số âm thanh bằng cách tạo ra cường độ bằng cách điều khiển đọc to, nhỏ,
nhấn giọng, lời giọng, tạo ra tốc độ bằng cách nâng giọng, hạ giọng, tạo ra
trường độ bằng cách kéo dài giọng hay không kéo dài giọng.
Nói tóm lại, muốn đọc được hay, diễn cảm thì người đọc cần chú ý đến
trọng âm, ngữ điệu đọc đồng thời cần phát âm đúng chuẩn chính tả, đọc đúng
chính âm của tiếng.
3. Vị trí và nhiệm vụ môn Tập đọc ở lớp 5
3.1 Vị trí phân môn Tập đọc lớp 5


6

Môn Tập đọc lớp bốn có vị trí quan trọng, vì chương trình được phân bổ
trải đều cho cả năm học. Ngoài phân môn Tập đọc, cấu tạo sách Tiếng Việt có

nhiều phân môn như: Tập làm văn, Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện. Các
phân môn này đòi hỏi các em phải đọc được mới làm được bài. Do đó, học sinh
phải có kĩ năng đọc thành thạo.
Tập đọc cùng với Học vần và Tập viết là nhóm bài học khởi đầu giúp
cho học sinh chiếm lĩnh được cộng cụ mới, chữ viết có được một kĩ năng mới đọc thông, viết thạo, từ đó mở cánh cửa bước vào thế giới tri thức của loài người.
Đọc và viết là hai trong bốn kỹ năng mà giáo viên cần rèn luyện cho học
sinh. Học sinh khi mới bước chân vào cổng trường chưa có hoặc có nhưng chưa
thành thạo các kĩ năng đó mà phải học, phải rèn luyện để có kĩ năng thành thục.
Quá trình rèn luyện để hình thành kĩ năng này kéo dài suốt những năm tháng học
phổ thông, tuy nhiên do mục tiêu của môn Tiếng Việt bậc Tiểu học, đứa trẻ khi
kết thúc năm học trong nhà trường tiểu học hiện đại là đứa trẻ đã có những cơ sở
ban đầu cho việc phát triển toàn diện về nhân cách và tình cảm, trí tuệ, thể chất:
có những tri thức và kĩ năng cơ bản để học tập tiếp hoặc đi ngay vào cuộc sống
biết sử dụng có hiệu quả “tiếng mẹ đẻ” khi nghe, nói, đọc viết phục vụ mục đích
giao tiếp và thu nhận kiến thức thông tin.
3.2 Nhiệm vụ phân môn Tập đọc
Tập đọc bắt đầu từ cuối kì một của lớp 1. Kĩ năng đọc đã rèn cho học
sinh từ đầu lớp một nhưng dưới dạng luyện đọc những từ khóa, câu, đoạn văn
ngắn trong các bài văn. Đến học kì hai, Tập đọc được dạy riêng thành một phân
môn, mỗi bài đọc là một bài thơ, bài văn ngắn có nội dung dễ hiểu, dễ đọc, chứa
đựng những âm vần đã học. Đến lớp 5, Tập đọc tăng cường khả năng đọc diễn
cảm, trang bị một một số hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học, góp phần rèn
luyện nhân cách cho học sinh. Câu hỏi tìm hiểu bài chú ý khai thác nghệ thuật
biểu diễn nhiều hơn.
Tập đọc là phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh, năng lực đọc được tạo nên bởi bốn kĩ năng
bộ phận là đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức và đọc hay. Bốn kĩ năng này được
hình thành trong hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm, chúng được rèn
luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau, sự hoàn thiện kĩ năng này sẽ có tác động tích
cực đến kĩ năng khác. Vì vậy, trong dạy học không thể xem nhẹ kĩ năng nào và

cũng không thể tách rời chúng. Nhiệm vụ thứ hai của Tập đọc là giáo dục lòng
ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với sách cho học
sinh. Nhiệm vụ thứ ba của phân môn Tập đọc là làm giàu kiến thức về ngôn ngữ,
đời sống và kiến thức văn học cho học sinh.
4. Kĩ năng đọc


7

Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Kĩ năng đọc là khả năng vận dụng những
kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào trong thực tế. Đây là một
định nghĩa mang hàm ý rộng. Kĩ năng đọc chính là khả năng vận dụng lí thuyết
vào thực tế. Kĩ năng đạt đến mức thành thục gọi là kĩ xảo.
Vậy kĩ năng đọc là gì ? Đó chính là khả năng vận dụng những kiến thức
về ngữ âm học để tri giác văn bản, từ đó hiểu được nội dung, ý nghĩa của từng
con chữ trong văn bản và hiểu được nội dung của văn bản.
Như vậy, đọc là sự tổng hợp của hai quá trình phát âm thành tiếng và
nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì đọc được. Người biết đọc phải
đọc văn bản và nắm được nội dung, ý nghĩa từ những con chữ. Giáo viên và học
sinh, dạy và học phân môn Tập đọc dựa trên cơ sở của việc đọc và những cơ sở
về âm thanh của nó.
Trên đây là những căn cứ nói về tầm quan trọng của việc đọc của học
sinh cấp Tiểu học.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC TẬP ĐỌC Ở TIỂU HỌC
1. Nội dung chương trình và phân bổ thời lượng
Qua quá trình công tác giảng dạy của bản thân và dự giờ thăm lớp, đúc
kết kinh nghiệm từ một số giáo viên ở trường PTDTBT tiểu học và THCS Phước
Lộc và quá trình khảo sát, điều tra thực tế, tôi có những nhận xét về thực trạng
dạy học môn Tập đọc như sau.

Tôi xin đưa ra nội dung chương trình phân môn Tập đọc ở lớp 5 để có
thể đối chiếu với thực trạng của việc dạy và học.
- Môn Tập đọc lớp 5 mỗi tuần có hai tiết, số lượng có sáu mươi hai bài
tập đọc, trong đó có bốn mươi bài văn xuôi, mười tám bài thơ và hai vở kịch.
+ Kĩ năng cần rèn là tập đọc các văn bản nghệ thuật, tập đọc diễn cảm
một số bài thơ, một đoạn truyện, nắm được ý chính của văn bản ngắn, tập chia
đoạn, tập sử dụng từ điển, tập ghi chép những thông tin đã đọc, học thuộc lòng
một số bài văn, bài thơ trong Sách giáo khoa .
+ Cấu trúc thông thường của bài tập đọc là:
1/ Đầu bài.
2/ Tranh minh họa nội dung.
3/ Nội dung bài học.
4/ Chú giải.
5/ Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài.


8

- Nội dung chương trình tập đọc đã thể hiện rõ nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới chương trình và đổi mới phương pháp dạy học, mỗi học sinh đều được
hoạt động, được bộc lộ mình và được phát triển. Phân môn Tập đọc rèn cho học
sinh các kĩ năng đọc, nghe, nói. Thông qua hệ thống bài học theo chủ điểm và
những câu hỏi tìm hiểu bài phân môn Tập đọc còn cung cấp cho học sinh những
hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người; cung cấp vốn từ và tăng cường khả
năng diễn đạt; trang bị một số hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học và góp
phần rèn luyện nhân cách cho học sinh. Nội dung chương trình và phân phối thời
lượng tạo điều kiện thuận lợi cho việc luyện đọc của học sinh.
2. Thực trạng của việc dạy học ở trường PTDTBT Tiểu học và
THCS Phước Lộc
2.1 Thuận lợi

- Đội ngũ giáo viên có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần
trách nhiệm, nhiệt tình trong dạy học.
- Học sinh ra lớp chuyên cần, có thái độ học tập tốt, có khả năng tiếp thu
kiến thức tốt.
- Là đơn vị trường bán trú nên học sinh có thêm điều kiện thuận lợi về
việc tự học vào ban đêm dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên tham gia trực
lúc các em học.
- Trong giờ Tập đọc, các em đều hứng thú và mong muốn được thể hiện
cách đọc, nhiều em chưa được gọi đọc cũng đọc thầm và thể hiện sắc thái biểu
cảm trên mặt. Điều đó chứng tỏ các em thích đọc và hiểu nội dung bài.
- Học sinh được sửa sai khi đọc, những em đọc tốt còn giúp các bạn sửa
lỗi trong quá trình đọc theo nhóm.
- Học sinh được nâng cao rõ rệt về đọc diễn cảm. Hình thành được kĩ
năng khi đọc tất cả các văn bản khác.
- Hơn thế, được sự quan tâm của Lãnh đạo nhà trường, tổ chuyên môn
nên trình độ chuyên môn của giáo viên tương đối vững vàng.
2.2 Khó khăn
- Là lớp học thuộc đơn vị trường ở vùng sâu, vùng xa, học sinh của lớp
100% là người dân tộc thiểu số nên việc học môn Tiếng Việt nói chung và phân
môn Tập đọc nói riêng còn rất nhiều khó khăn trong vấn đề tiếp nhận và rèn
luyện kĩ năng năng đọc.
- Học sinh còn hiếu động, ham chơi. Vì vậy, giáo viên mất nhiều thời
gian để nhắc nhở, làm ảnh hưởng đến tiến độ và thời lượng của giờ dạy.
- Cơ sở vật chất nhà trường chưa thật đầy đủ để phục vụ cho một tiết
học.


9

- Có một số câu hỏi tìm hiểu bài ở Sách giáo khoa nhiều khi không phục

vụ yêu cầu luyện đọc của học sinh.
- Có những học sinh còn rụt rè hoặc chưa quen, chưa tự tìm ra cách đọc
và còn ngại đọc diễn cảm.
Với những thuận lợi và khó khăn vừa nêu, nhưng các giáo viên đang
giảng dạy tại trường vẫn cố gắng dạy tốt. Những điều thuận lợi cũng như khó
khăn có tác động không nhỏ đến chất lượng giảng dạy của giáo viên. Tuy nhiên,
yếu tố con người vẫn là yếu tố quyết định.
3. Thực trạng việc dạy phát âm cho học sinh lớp 5 tại trường
PTDTBT TH&THCS Phước Lộc
3.1 Ưu điểm
Qua điều tra và thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy những ưu điểm chính mà
giáo viên đạt được đó là:
Phần lớn các giáo viên có giọng đọc hay truyền cảm đọc chuẩn chính âm
Giáo viên nắm được quy trình giảng dạy, thực hiện cho học sinh đọc nối
tiếp nhiều lần đảm bảo cho nhiều lượt cho học sinh được đọc. Khi dạy phần tìm
hiểu bài và luyện đọc lớp đọc hiểu (lớp 5), giáo viên sử dụng cách dạy truyền
thống cho học sinh đọc thầm từng đoạn để trả lời các câu hỏi trong Sách giáo
khoa.
3.2 Hạn chế
Một vài giáo viên chưa chú ý đến việc sửa sai phát âm cho học sinh và
chưa có biện pháp cụ thể và kế hoạch cho học sinh luyện tập ngoài giờ.
Trong cách đọc các tiếng bắt đầu bằng âm d/gi để phân biệt cho học
sinh, giáo viên đọc các tiếng bắt đầu bằng d thì đọc bình thường; nhưng khi đọc
các tiếng bắt đầu bằng gi thì giáo viên lại luyện cho học sinh đọc nhấn hơn ...
3.3 Những lỗi thường gặp
- Lỗi ngữ âm.
Lỗi phát âm của học sinh hết sức phức tạp với nhiều dạng lỗi khác nhau,
nhiều hình thức sai khác nhau. Qua việc khảo sát, chúng tôi thấy học sinh sai
nặng về ngữ âm: âm đầu, âm chính, âm cuối.
+ Đọc sai âm đầu: s đọc là x; gi đọc là d…

+ Đọc sai âm đệm: uy đọc là i, oe đọc là e…
+ Đọc sai nguyên âm đôi: iê, uô, ươ.
+ Đọc sai một số âm chính: ô - o, a - ă - â.
+ Đọc sai nhiều phần âm cuối: ng đọc là n, t đọc là c và ngược lại.


10

- Ngoài ra học sinh còn đọc sai về thanh hỏi (ˀ) và thanh ngã (~) những
đọc là nhửng, giữa đọc là giửa ...
4. Thực trạng của việc học
4.1 Thuận lợi
- Đa số học sinh đều ngoan, có ý thức học tập.
- Có nhiều em phát âm chuẩn.
- Học sinh được giáo viên giảng dạy tận tình, chu đáo.
4.2 Khó khăn
- Một số học sinh phát âm chưa đúng chuẩn.
- Các em phát âm tiếng địa phương theo thói quen. Học sinh vùng tôi
công tác là vùng sâu, vùng xa, vùng sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, nên thời
gian phụ huynh dành cho con em mình là rất hạn chế, nhất là vào những dịp thu
hoạch, họ phó mặc cho con em họ tự học, do đó các em không chú ý học bài.
Đặc biệt, là không chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Yếu tố nữa là trình độ dân trí
thấp họ chưa chú trọng vào việc học của con em mình.
5. Khảo sát thực trạng lỗi phát âm của học sinh lớp 5
* Phương pháp kiểm tra: Cho học sinh đọc các bài Tập đọc như: Kì diệu
rừng xanh, Chuyện một khu vườn nhỏ, Hành trình của bầy ong, Người gác rừng
tí hon, Hạt gạo làng ta, Buôn Chư Lênh đón cô giáo, Ca dao về lao động sản
xuất ...
5.1 Khảo sát tình trạng đọc diễn cảm của học sinh
Để tìm hiểu thêm về tình trạng đọc diễn cảm của học sinh, tôi đã cho cả

lớp đọc một đoạn văn tùy ý các em chọn, và thu được kết quả như sau:
Lớp

Số học sinh

5

17

Đọc diễn cảm
6 (35,3%)

Đọc chưa diễn cảm
11 (64,7%)

Qua bảng khảo sát cho thấy số học sinh đọc diễn cảm còn hạn chế. Điều
này báo hiệu cho ta biết rằng học sinh vùng sâu vùng xa, vấn đề đọc diễn cảm
chưa được chú trọng mà chủ yếu đòi hỏi các em biết đọc đã là tốt rồi.
5.2 Thực trạng phần luyện đọc ở lớp 5
Nhìn chung giờ Tập đọc ở khối lớp 5 được tiến hành theo trình tự sau:
1. Kiểm tra bài cũ.
Học sinh đọc lại bài của tiết trước và trả lời câu hỏi ứng với nội dung bài
học.


11

2. Bài mới.
a. Giới thiệu bài.
GV có thể giới thiệu bằng tranh, trực quan hoặc bằng lời.

b. Luyện đọc
Giáo viên hoặc học sinh khá, giỏi đọc cả bài một lần.
Giáo viên đọc diễn cảm một lần và hướng dẫn cách đọc.
Học sinh đọc đoạn nối tiếp 2 đến 3 lần.
Học sinh đọc theo cặp.
Học sinh đọc từ khó. Luyện đọc câu dài.
Học sinh đọc từ chú giải.
c. Tìm hiểu bài.
- Học sinh đọc thầm theo đoạn và tìm hiểu nội dung của bài.
- 1 HS đọc thành tiếng đoạn 1 và trả lời câu hỏi
- Câu hỏi lớp 5 thường có những câu hỏi dài và có nhiều ý. Do vậy, khi
dạy, giáo viên cần tách thành những nội dung nhỏ.
Ví dụ: Bài: Phân xử tài tình
Câu hỏi 2: Quan án đã dùng những biện pháp nào để tìm ra người lấy
cắp tấm vải ? Vì sao quan cho rằng người không khóc chính là người lấy cắp ?
Đây là câu hỏi có hai nội dung cần tách từng nội dung ra để hỏi riêng để
học sinh dễ hiểu.
Kết phần tìm hiểu bài giáo viên cùng học sinh rút ra ý nghĩa của bài.
d. Luyện đọc diễn cảm.
Giáo viên đọc mẫu.
Học sinh đọc trong nhóm.
GV nhận xét, chọn một đoạn cho học sinh thi đọc diễn cảm .
Học sinh thi đọc diễn cảm.
Giáo viên nhận xét tuyên dương.
3. Củng cố, dặn dò.
Củng cố lại bài học.
Nhận xét tiết dạy và yêu cầu các em luyện đọc thêm.
5.3 Kết luận về thực trạng lỗi phát âm của học sinh lớp 5 - Trường
PTDTBT Tiểu học và THCS Phước Lộc



12

Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra một số
kết luận như sau:
5.3.1 Về giáo viên
Giờ tập đọc có ý nghĩa rất quan trọng ở lớp 5. Giáo viên cần hạn chế làm
mẫu nhiều mà chủ yếu để cho các em tự học là chính, nâng cao kĩ năng, gần gũi
với học sinh trong việc sửa lỗi phát âm cho học sinh nói ngọng hoặc nói tiếng địa
phương.
5.3.2 Về học sinh
Qua khảo sát thực tế, tôi nhận thấy rằng phần lớn các em chưa tự học
được, các em chỉ đọc khi được giáo viên hoặc người lớn yêu cầu. Học sinh phát
âm sai nhiều nhưng do tiếng địa phương đã ăn sâu vào ý thức nên rất khó đọc
đúng được. Khi đọc, các em chưa ngắt nghỉ đúng chổ, lấy hơi tùy tiện.
CHƯƠNG III
CÁC BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LUYỆN ĐỌC CHO HỌC LỚP 5
Từ thực tế khảo sát, tra cứu thông tin, tôi nghiên cứu một số biện pháp
khắc phục và hạn chế việc học sinh đọc sai như sau:
1. Luyện đọc thành tiếng
1.1 Vấn đề luyện chính âm
Cách thức luyện tập cần phối hợp nhiều phương pháp cùng một lúc và
dạy học sinh cần luyện tập thường xuyên. Trước hết, chúng ta cần bồi dưỡng cho
học sinh có mong muốn có ý thức nói, đọc đúng chính âm càng sớm càng tốt.
Tiếp đó, cần nắm chắc các biện pháp chữa lỗi phát âm để tùy từng lỗi,
từng đối tượng học sinh áp dụng sửa lỗi cho các em.
- Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp luyện tập theo mẫu, bằng phát âm của
mình hoặc các băng hình ghi cách phát âm mẫu. Giáo viên đưa ra trước học sinh
cách phát âm chuẩn các từ cần luyện yêu cầu học sinh phát âm theo.
- Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm: giáo viên mô tả cách cấu âm

của một âm nào đó và trực quan hóa sự mô tả đó. Sau đó, hướng dẫn học sinh
quan sát, tự kiểm tra xem mình đang phát âm nào.
- Biện pháp chữa lỗi bằng âm trung gian là biện pháp chuyển từ âm sai
về âm đúng qua âm trung gian. Ví dụ: cách đọc tiếng có dấu thanh hỏi (ˀ), thanh
ngã (~) như nhau của một số học sinh về từng thanh hỏi (ˀ), ngã (~) riêng.
Ngoài ra, giáo viên còn có thể lựa chọn những bài luyện phát âm có tần
số dễ mắc lỗi cao. Những bài luyện chính âm cho các trường hợp các tiếng đứng
cạnh nhau rất khó đọc mặc dù học sinh không đọc sai khi đọc riêng từng tiếng.Ví
dụ: thuyên chuyển, nhuần nhuyễn …


13

Việc luyện chính âm không diễn ra trong một ngày, một giờ mà phải
thường xuyên liên tục. Giáo viên phân công các nhóm cùng nhau luyện đọc.
Mỗi nhóm gồm 4 - 6 em, có những em đọc và những em phát âm chưa
chuẩn để trong những giờ kiểm tra bài hay ngoại khóa các em tự luyện cho
nhau.
100% học sinh là người dân tộc thiểu số nên thường phát âm sai về dấu
thanh, thêm hoặc bớt dấu thanh dẫn đến phát âm sai tiếng đó; phát âm sai các âm
cuối (ng, n); ( t, c); các vần (uyên, iên); (uyết, iết); (ăn, en) … Bởi vậy, khi luyện
đọc cho học sinh nên chia ra nhiều nhóm luyện đọc khác nhau.
1.2 Ngắt, nghỉ hơi khi đọc
1.2.1 Ngắt, nghỉ hơi khi đọc truyện
Trong khi đọc, phát âm sai sẽ làm cho văn bản mất đi tính hấp dẫn,
nhưng nếu khi phát âm chuẩn mà ngắt, nghỉ không đúng chỗ cũng giảm đi cái
hay của bài văn, bài thơ. Có khi còn gây nên sự hiểu lầm về ý nghĩa trong ngôn
từ văn bản đó.
Trong chương trình Tập đọc ở lớp 5, ở mỗi chủ điểm sau một truyện kể
một tác phẩm văn xuôi là một bài thơ. Khi đọc các văn bản truyện cần ngắt nhịp

đúng chỗ dựa theo ý nghĩa ngôn từ văn bản.
1.2.2 Ngắt nghỉ nhịp khi đọc văn xuôi
Trong quá trình đọc văn xuôi, phải chú ý ngắt nghỉ theo dấu câu với độ
ngắt nghỉ tương ứng dấu chấm (.), dấu phẩy (,). Ngoài ra, phải giúp và định
hướng các em kĩ năng phát hiện ra câu dài và biết cách phân câu ngắt nghỉ để
đọc cho hợp lí.
Ví dụ:
Thế là / A-lếch-xây đưa bàn tay vừa to / vừa chắc chắn ra / nắm lấy bàn
tay đầy dầu mỡ của tôi lắc mạnh và nói: //
(Một chuyên gia máy xúc - TV5, tập 1, trang 45)
Sau khi phát hiện câu dài, các em nhanh chóng nhận dạng, định hướng
cách đọc của các câu này, giúp học sinh hình thành kĩ năng nhận dạng những câu
dài trong các văn bản sau này và đọc đúng với hình thức yêu cầu của văn bản.
1.2.3 Ngắt nghỉ nhịp khi đọc thơ
Trẻ em hồn nhiên, vô tư, trong sáng, chính vì vậy mà trong chương trình
Tiểu học phần lớn là thể thơ bốn chữ, năm chữ diễn tả tự nhiên tình cảm của các
em. Ở lớp 5, thể thơ này xuất hiện ít hơn.


14

Thể thơ lục bát khá phổ biến trong những bài thơ ở lớp 5. Cách ngắt nhịp
cơ bản khi đọc thơ lục bát là 2/2/2 hoặc 2/4 hoặc 4/2 đối với câu 6 và 4/4 với câu
8 hoặc cũng có thể là 2/2/2/2.
Ví dụ:
“Bầm ơi / sớm sớm / chiều chiều /
Thương con / bầm chớ / lo nhiều / bầm nghe ! //
Con đi / trăm núi / ngàn khe /
Chưa bằng muôn nổi / tái tê lòng bầm.//
Con đi / đánh giặc / mười năm/

Chưa bằng khó nhọc / đời bầm sáu mươi."//
(Bầm ơi – TV5, tập 2, trang 130)
Tuy nhiên có những trường hợp ngắt giọng đặc biệt: 4/2 hoặc 3/5
…..
“Chắt trong vị ngọt / mùi hương
Lặng thầm thay / những con đường ong bay.//
Trải qua mưa nắng / vơi đầy
Men trời đất / đủ làm say đất trời."// ...
(Hành trình của bầy ong - TV5, tập 1, trang 117)
Hoặc không ngắt nghỉ theo nhịp mà theo cảm xúc:
.......
"Chú đi tuần / đêm nay
Hải Phòng / yên giấc ngủ say
Cây / rung theo gió / lá / bay xuống đường.
Chú đi qua cổng trường/
Các cháu miền Nam / yêu mến" ...
(Chú đi tuần - TV5, tập 2, trang 51)
Đây là những cách ngắt nhịp không theo quy luật chung. Cách đọc này
nhằm nhấn mạnh hay chuyển đổi ý nghĩa trong mạch cảm xúc tái hiện, khái quát
nội dung, ý nghĩa của truyện cổ.
Như vậy, khi đọc thơ, chú ý ngắt nhịp đúng thể loại cũng góp phần đọc
hay, diễn cảm bài thơ và định hướng cho cách hiểu đúng nội dung bài học.


15

Không những trong quá trình đọc mà ngay cả khi giao tiếp, chúng ta ngắt nghỉ
không đúng sẽ gây hiểu sai về ý nghĩa lời nói.
2. Ngữ điệu đọc
Khi đọc thành tiếng, việc lên cao hay hạ thấp giọng còn phụ thuộc vào

dấu hiệu kết thúc câu. Khi đọc những lời nói chưa kết thúc, còn bỏ lửng cần đọc
nhỏ và lơi giọng thường xuất hiện ở cuối đoạn. Dấu hiệu nhận biết là dấu chấm
(.). Trong ngữ đoạn, nếu muốn nhấn mạnh đặc biệt ở từ ngữ hay ý nghĩa nào đó
ta đọc to hay nhấn giọng chúng. Câu cảm, câu cầu khiến kết thúc bằng dấu chấm
than (!) sẽ đọc với ngữ điệu mạnh. Còn câu khiến nêu yêu cầu mời mọc, đề nghị
sẽ đọc nhẹ hơn. Chúng ta hạ giọng để kết thúc câu kể.
Như vậy, dấu hiệu kết thúc câu không thể hiện ở chỗ ngừng mà còn ở
ngữ điệu kết thúc đi xuống. Nếu như đọc một đoạn trong câu thuật, ta không hạ
giọng ở cuối mỗi câu thì sẽ không tạo ra sự chuyển đổi nhịp nhàng cao độ của
các câu, vì vậy dễ bị mệt và làm cho người nghe khó theo dõi các ý. Những câu
cầu khiến với lời đề nghị nhẹ nhàng, những câu hỏi tu từ mà thực chất là những
câu khẳng định cũng được đọc với ngữ điệu xuống.
Những bộ phận giải thích trong câu, những câu giải thích cần phải hạ
giọng hơn so với những câu khác.
Đọc hạ giọng còn được đọc đối với lời tác giả trong những đoạn văn xen
lẫn lời tác giả với lời nhân vật, nhất là lời tác giả xen lẫn với lời nhân vật.
Đối với một số kiểu câu có giọng đọc lên cao ở cuối câu như câu hỏi hay
những câu mệnh lệnh có yêu cầu.
Trong khi đọc, cần chú ý đến dấu câu để đọc cho đúng ngữ điệu. Tuy
nhiên, cũng không được coi trọng quá hay chú ý quá vào dấu câu mà tạo nên sự
cường điệu hóa khi đọc.
Đặc biệt, những câu hỏi kết thúc bằng ngữ khí từ thì không đọc cao
giọng mà hạ giọng xuống ở những từ đó vì ngữ khí từ không bao giờ mang trọng
âm.
2.1 Luyện đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm là việc đọc thể hiện ở kĩ năng làm chủ ngữ điệu để biểu
đạt đúng ý nghĩa tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong văn bản được đọc.
Muốn đọc diễn cảm phải xác định nội dung bài đọc sắc thái, tình cảm,
giọng điệu chung của bài.
2.2 Ngắt, nghỉ biểu cảm

Ngắt, nghỉ biểu cảm là những chổ ngừng, chổ lặng, có tác dụng truyền
cảm, tập trung chú ý của người nghe vào sau chổ ngừng tạo nên hiệu quả nghệ
thuật cao.


16

3. Một số biện pháp cụ thể
- Tư thế khi đứng đọc: Phải thẳng người, cổ thẳng, hai chân đứng
nghiêm, sách đưa đến ngực cách mắt từ 30cm đến 35cm .
Luyện tư thế ngồi đọc: Thẳng người hai chân rộng bằng vai, cổ thẳng,
sách đặt trên bàn mở rộng. Khi đọc, mặt ngoài hai tay đặt tì lên bàn, hơi nâng
phần trên của sách lên.
- Luyện đọc đúng, nhanh các câu hoặc đoạn văn có nhiều tiếng khó.
- Luyện đọc đúng các dấu câu có ngữ điệu.
- Luyện đọc đúng các phụ âm, vần, thanh mà địa phương hay lẫn lộn.
- Luyện đọc bài văn có sự phân biệt: Lời kể của nhân vật và lời nhân vật,
lời các nhân vật với nhau, nhấn giọng các từ ngữ biểu cảm.
- Rèn cho học sinh thể hiện chính xác các từ mình đọc, đọc đúng chính
âm, đọc đúng âm cuối, đọc đúng các thanh.
Đọc đúng bao gồm đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi ngữ điệu câu.
Cần dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng.
3.1 Bài tập luyện lấy hơi
Giáo viên cần luyện cho học sinh cách lấy hơi để tránh bị hụt hơi, thở rất
mạnh để lấy hơi tạo ra những sự ngắt nghỉ vô nghĩa khi đọc. Hướng dẫn các em
lấy hơi bằng cách đứng thẳng người, mắt nhìn thẳng, hít vào thật sâu, giữ hơi rồi
thở ra đều trong khi đếm từ 1 đến 5 thành tiếng. Cũng với tư thế đó tăng dần
lượng không khí hít vào và thở ra cũng đều tăng dần.
3.2 Bài tập luyện giọng
Đứng hoặc ngồi thẳng người, sau khi hít thở sâu, phát âm đều và ngân

dài các phụ âm.
Mỗi âm kéo dài tùy theo yêu cầu của người luyện tập. Lần thứ nhất
giọng nhỏ đều. Lần thứ hai to dần và to. Lần thứ ba, âm thanh to sau đó nhỏ dần
và nhỏ.
Ngoài ra, sự chuẩn bị của giáo viên cho tiết học cũng góp phần đáng kể
cho việc rèn đọc của học sinh. Mặt khác, cần xác định các lỗi phát âm trong bài
mà học sinh dễ mắc phải để luyện đọc trước.
Một yếu tố nữa là để các em tập phát âm đúng và đọc đúng là việc giáo
viên thường xuyên nhắc nhở các em tự sửa sai khi giao tiếp ở nhà, với bạn bè,
hàng xóm xung quanh…
Trong giờ Tập đọc, cho các em tự tìm ra các từ mà các em khó đọc sau
đó cho học sinh khác có khả năng đọc được các từ mà bạn mình không đọc được.
Làm như vậy các em có khả năng tự chữa lỗi cho nhau. Mặt khác, tùy theo vùng


17

miền mà giáo viên chọn những từ các em phát âm hay sai nhất để cho các em
luyện đọc, cho học sinh luyện đọc nhiều lần thì sẽ có hiệu quả đáng kể.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đề ra trong quá trình nghiên cứu,
tìm hiểu thông qua quá trình giảng dạy và tham khảo học hỏi của bản thân. Tôi hi
vọng sẽ góp phần tích cực trong quá trình dạy học, rèn kĩ năng đọc trong phân
môn Tập đọc của môn Tiếng Việt.
CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu và khảo sát thực tế, thu được kết
quả như sau:
- Số học sinh biết đọc diễn cảm ngày càng tăng. Học sinh đọc chính âm
cũng có phần chuyển biến.
Đến cuối năm học 2016 - 2017, các em đã biết đọc đúng chính âm, mặc

dù các em còn ngượng nghịu và khó thực hiện. Kết quả như sau:
Lớp 5

Số lượng

Âm cuối ng, n; t, c ...

Đọc đúng: 14/17 học sinh (82,4%)

Âm đầu s, x

Đọc đúng: 12 /17 học sinh (70,6%)

Vần uyên, iên; uyết, uyết; ăn, en ...

Đọc đúng: 14/17 học sinh (82,4%)

Dấu thanh

Đọc đúng: 12 /17 học sinh 70,6%)

Đọc diễn cảm:

Đọc diễn cảm: 10/17 học sinh (58,8%)
B. KẾT LUẬN

Đọc có ý nghĩa rất to lớn ở cấp Tiểu học. Đó là đòi hỏi cơ bản đầu tiên
đối với mọi người đi học. Đầu tiên là trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để
học, đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được một ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập.
Các em tiếp thu kiến thức rất nhanh dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

Muốn tiết dạy có hiệu quả phải tạo cho các em không khí thỏa mái, cổ vũ,
khuyến khích động viên các em.
Gia đình là mái trường đầu tiên của các em. Gia đình không chỉ là nơi
nuôi dưỡng các em mà còn là nơi giáo dục các em để các em trở thành con
ngoan, trò giỏi. Cha mẹ phải luôn quan tâm đến con em của mình, luôn theo dõi
việc học hằng ngày của các em ở trên lớp cũng như khi ở nhà, nhắc nhở các em
ôn bài, học bài trước khi đến lớp.
Bên cạnh đó, giáo viên cần trau dồi kiến thức, để có nhiều kinh nghiệm
và chuyên môn vững vàng, có lòng yêu nghề, mến trẻ, luôn học hỏi ở cả trên lớp
cũng như khi ở địa phương nơi cư trú. Tạo không khí vui tươi trong mỗi tiết dạy


18

để các em hứng thú cho môn học và tiết học đạt kết quả cao hơn. Cùng với đó,
đó cũng cần sự quan tâm của của các ban ngành, của xã hội.
Muốn dạy phân môn Tập đọc có hiệu quả, khi bắt đầu học nên cho học
sinh đọc từng câu, từng đoạn cho học sinh nhớ và thuộc câu đó. Sau đó mới cho
học sinh đọc tiếp toàn bài. Căn cứ vào khả năng cụ thể của từng học sinh, giáo
viên bố trí thời gian biểu hợp lí. Tổ chức cho học sinh các buổi học ngoại khóa
khi dạy các bài Tập đọc về phong cảnh quê hương, đất nước, các lễ hội, các di
tích…
Những học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng nên gọi các em đọc
nhiều để các em mạnh dạn hơn. Cho học sinh học, đọc nhóm để các em có điều
kiện giúp đỡ cho nhau, em học khá giỏi giúp em học còn hạn chế.
Tổ chức cho học sinh vừa học vừa chơi, vui chơi sẽ đem lại cho các em
niềm vui, niềm thích thú như vậy giờ học mới có hiệu quả. Tạo cho các em có ý
thức tự học. Bên cạnh đó, cần phải có biện pháp đối với học sinh học chưa đạt
chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học và không chịu khó học. Cần phối hợp nhiều
phương pháp dạy học khác nhau.

Từ đề tài này, tôi mong được tìm hiểu thêm về biện pháp rèn kĩ năng đọc
trong phân môn Tập đọc ở khối lớp 5 để hướng dẫn học sinh đọc đúng, đọc hiểu,
đọc diễn cảm văn bản. Đó là mong muốn của của bản thân cũng như tất cả giáo
viên đang giảng dạy ở ngôi trường ở xã còn nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa –
Phước Lộc.
C. KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
1. Đối với nhà trường
- Mở nhiều buổi chuyên đề, hội thảo đối với phân môn Tập đọc.
- Nhân rộng những tiết hội giảng các phân môn riêng trong môn Tiếng
Việt như: Tập đọc, Tập làm văn, Luyện từ và câu đạt kết quả cao để giáo viên
khác học tập.
- Tổ chức các hội thi để các em được tham gia giao lưu, rèn luyện 4 kĩ
năng cơ bản nghe, nói, đọc, viết cho học sinh DTTS hằng năm.
- Trang bị thêm sách tham khảo về thực hiện dạy học phân môn Tập đọc.
- Tổ chức các hoạt động nhằm rèn kỹ năng của phân môn Tập đọc như
thi kể chuyện, đọc thơ…
2. Đối với Phòng Giáo dục và đào tạo
- Mở nhiều buổi chuyên đề, hội thảo về phân môn Tập đọc.
- Nhân rộng những tiết hội giảng (môn Tập đọc) đạt kết quả cao để giáo
viên khác học tập.


19

- Đào tạo tiếng dân tộc (tiếng Gié - Triêng) cho đội ngũ giáo viên nhiều
hơn nữa.
- Tổ chức các chuyên đề nói về luyện đọc cho học sinh và có đánh giá cụ
thể.
Trên đây là một số kinh nghiệm, biện pháp đã thực hiện trong quá trình
"rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5 - Trường PTDTBT Tiểu học và THCS Phước

Lộc ". Vì thời gian nghiên cứu, thực hiện có hạn chế nên sáng kiến này không
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp,
Lãnh đạo nhà trường và các cấp quản lí để sáng kiến của bản thân được hoàn
thiện hơn, góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh và nâng cao chất
lượng, hiệu quả trong giờ học các môn học nói chung và phân môn Tập đọc nói
riêng của mỗi giáo viên.
Phước Lộc, ngày 20 tháng 4 năm 2017
Người viết

Lê Văn Thức

TÀI LIỆU THAM KHẢO


20

1. Nguyễn Minh Thuyết – Hoàng Hòa Bình – Trần Mạnh Hưởng – Trần
Thị Minh Phương – Đỗ Việt Hùng (Chuyên đề giáo dục Tiểu học) Tập 14.
2. Triệu Văn Thịnh (Khái quát văn học dân gian) năm 1999 “Dùng cho
chuyên nghành sư phạm Tiểu học”.
3. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 - NXB Giáo dục Việt Nam - Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
4. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 5 - NXB Giáo dục Việt Nam - Bộ
Giáo dục và Đào tạo.

MỤC LỤC


21


NỘI DUNG

Trang

A. MỞ ĐẦU

1

1. Lí do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

2

5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

2

6. Phương pháp nghiên cứu


3
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN

3

1. Khái niệm đọc

3

1.1 Quan niệm về đọc

3

1.2 Cấp độ đọc

3

1.3 Ý nghĩa của việc đọc

4

2. Cơ sở khoa học của việc đọc

4

2.1 Cơ chế đọc

4


2.2 Cơ sở về âm thanh về ngôn ngữ khi đọc

5

2.2.1 Chính âm

5

2.2.2 Trọng âm và ngữ điệu

5

3. Vị trí và nhiệm vụ môn Tập đọc ở lớp 5

5

3.1 Vị trí môn Tập đọc

6

3.2 Nhiệm vụ phân môn Tập đọc

6

4. Kĩ năng đọc

6
CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY VÀ HỌC TẬP ĐỘC Ở TIỂU HỌC


7

1. Nội dung chương trình và phân bổ thời lượng

7

2. Thực trạng của việc Tập đọc ở trường Tiểu học

8

2.1 Thuận lợi

8

2.2 Khó khăn

8

3. Thực trạng việc dạy phát âm cho học sinh lớp 5

9


22

3.1 Ưu điểm

9


3.2 Hạn chế

9

3.3 Những lỗi thường gặp

9

4. Thực trạng của việc đọc

10

4.1 Thuận lợi

10

4.2 Khó khăn

10

5. Khảo sát thực trạng lỗi phát âm của học sinh lớp 5 - Trường PTDTBT
TH&THCS Phước Lộc

10

5.1 Khảo sát tình trạng đọc diễn cảm của học sinh

10

5.2 Thực trạng phần luyện đọc ở lớp 5


10

5.3 Kết luận về thực trạng lỗi phát âm của học sinh lớp 5 - Trường
PTDTBT TH&THCS Phước Lộc

11

5.3.1 Về giáo viên

12

5.3.2 Về học sinh

12
CHƯƠNG III

CÁC BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 5

12

1. Luyện đọc thành tiếng

12

1.1 Vấn đề chính âm

12

1.2 Ngắt, nghỉ hơi khi đọc


13

1.2.1 Ngắt, nghỉ hơi khi đọc truyện

13

1.2.2 Ngắt, nghỉ nhịp khi đọc thơ

13

2. Ngữ điệu đọc

15

2.1 Luyện đọc diễn cảm

15

2.2 Ngắt, nghỉ biểu cảm

15

3. Một số biện pháp cụ thể

16

3.1 Bài tập luyện lấy hơi

16


3.2 Bài tập luyện giọng

16
CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ

B. KẾT LUẬN

17
17


23

C. KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT

18

1. Đối với nhà trường

18

2. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo

18

Tài liệu tham khảo

18




×