Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Khảo sát khả năng xử lý nước rỉ rác của bãi chôn lấp gò cát bằng một số thực vật đất ngập nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 113 trang )

Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

CHƯƠNG I
MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong lòch sử từ trước đến nay, khi nhắc đến “Đất ngập
nước “là người ta nghó ngay đến những vùng đất không
có năng suất và thậm chí bẩn thỉu chứa đầy bệnh tật,
côn trùng và cá sấu. Sự phát triển ngày một cao của
nền kinh tế đi đôi với quá trình đô thò hoá đã làm cho
diện tích

đất ngày càng thu hẹp dần. Đó là quá trình

chuyển hoá Đất ngập nước sang sản xuất nông nghiệp
thâm canh hoặc nuôi trồng thuỷ sản hay san lấp để tạo
ra các vùng đất cho phát triển công nghiệp, đô thò.
Trong khi đó, Đất ngập nước lại có một vai trò hết sức
quan trọng đối với cuộc sống con người, nhất là đối với
người dân sống trong hoặc gần gần những vùng đất
ngập nước, như là: Lương thực (lúa gạo), thực phẩm (thuỷ
sản, rau xanh), chất đốt, vật liệu làm nhà cửa, đồng
thời cũng là đòa bàn sinh sống và sản xuất của con
người. Đất ngập nước bảo vệ sự đa dạng sinh học, duy trì
các quá trình sinh thái, lọc sạch nước thải, điều hoà khí
hậu, bảo vệ các giá trò văn hoá lòch sử, đồng thời
cũng là nơi tham quan, giải trí, du lòch và nghiên cứu khoa
học. Cuộc sống hằng ngày của những người dân trong
vùng đất ngập nước hầu như dựa vào tài nguyên của
Đất ngập nước.
Một vai trò hết sức quan trọng của Đất ngập nước đó


là khả năng xử lý ô nhiễm mà đặc biệt là ô nhiễm
hữu cơ. Với tình hình như hiện nay, mỗi ngày Thành phố
Hồ Chí Minh thải ra khoảng 7.000 tấn rác. Lượng rác
khổng lồ này hầu hết được đem đến các công trường
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
1


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

và chôn xuống lòng đất với số tiền ngân sách chi ra
để vận chuyển, xử lý khoảng 300 tỉ đồng/năm. Thử
hình dung, mỗi ngày có hàng ngàn tấn rác đổ về các
bãi chôn lấp, nếu không được xử lý, tình trạng môi
trường sẽ ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức
khỏe người dân khu vực xung quanh. Tất cả mọi thứ được
gom lại và chôn lấp, bãi chôn lấp rác trở thành nơi bò ô
nhiễm nghiêm trọng bởi một lượng nước rỉ rác khổng lồ
có hàm lượng ô nhiễm hữu cơ cao do đó vùng đất này
trở thành vùng đất chết. Một trong những ví dụ điển hình
cho vấn nạn này là bãi rác Đông Thạnh đã bò đóng cửa
và sắp tới có thể là bãi rác Gò Cát và Tam Tân cũng
bò đóng cửa. Trong khi đó, thực vật trong đất ngập nước
lại có khả năng sử dụng những chất hữu cơ này cho hoạt
động sống của mình.
Vì vậy, việc sử dụng Đất ngập nước nói chung hay sử
dụng thực vật đất ngập nước nói riêng để xử lý nước
rỉ rác vừa có thể thay thế và bổ sung những công
nghệ xử lý hóa học tuy mang tính công nghệ cao nhưng lại

tốn kém mà khả năng xử lý không cao. Hệ thống xử
lý ô nhiễm bằng đất ngập nước vừa ít chi phí mà mang
lại hiệu quả cao.
1.2. TÊN ĐỀ TÀI
Khảo sát khả năng xử lý nước rỉ rác của bãi chôn
lấp Gò Cát bằng một số thực vật đất ngập nước.
1.3. CƠ QUAN QUẢN LÝ
Khoa Kỹ thuật Môi trường thuộc Trường Đại học dân lập
Kỹ Thuật Công Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
1.4. NGƯỜI THỰC HIỆN

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
2


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Hồ Thò Minh Truyền – MSSV: 02DHMT311 – Lớp 02MT5 – Khoa
Môi trường và Công Nghệ Sinh Học – Trường ĐH Kỹ Thuật
Công Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
1.5. GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ths Nguyễn Văn Đệ

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
3


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


1.6. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ô nhiễm môi trường tại các bãi chôn lấp do nước rỉ
rác, Nhà Nước đã chi phí quá nhiều cho việc xử lý rác
thải nhưng vẫn không giải quyết được, lượng rác cứ ngày
càng nhiều thêm, ô nhiễm ngày càng gia tăng và chính
chúng ta là những người gánh chòu những hậu quả này.
Khác với những công nghệ hóa lý khác thì công nghệ
sinh học sử dụng hệ thống đất ngập nước để xử lý
nước rỉ rác có phần ưu thế hơn. Bởi vì Đất ngập nước
có vai trò xử lý chất ô nhiễm cao mà đặc biệt là ô
nhiễm hữu cơ nhưng chi phí ít tốn kém hơn nhiều.
Trên thế giới, việc sử dụng hệ thống Đất ngập nước
để xử lý nước thải đã được áp dụng và mang lại kết
quả tối ưu. Ở Việt Nam cũng đã có những ứng dụng
nhưng chỉ ở qui mô tự phát. Vì vậy, việc đưa ra những
thông số cơ bản về khả năng xử lý nước rỉ rác nói
riêng và nước thải nói chung của thực vật Đất ngập
nước là cần thiết.
1.7. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là:
 Đất ngập nước và thực vật Đất ngập nước
 Nước rỉ bãi rác Gò Cát
1.8. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khảo sát khả năng xử lý nước rỉ rác của một số
thực vật Đất ngập nước, nghiên cứu điển hình tại Bãi
rác Gò Cát với thực vật là cây Lục Bình và cỏ Vetiver.
1.9. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
 Thu thập tài liệu về bãi rác Gò Cát và nước rỉ
rác; đất ngập nước và thực vật đất ngập nước.

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
4


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

 Tìm hiểu khả năng xử lý nước của một số thực
vật đất ngập nước.
 Bố trí thí nghiệm nhằm khảo sát khả năng xử lý
nước rỉ rác của cây Lục Bình và cỏ Vetiver.
 Phân tích các thông số đầu vào và đầu ra của
nước rỉ rác sau khi qua hệ thống thí nghiệm dùng
thực vật xử lý ô nhiễm như là: pH, Eh, EC, TDS, DO,
TS, COD, BOD5, tổng Nitơ, N-NO3-, N-NH4+, N-NO2-, tổng
Photpho, P-PO4-, Fe2+, Fe3+.
1.10.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.10.1.

Phương pháp luận

Từ những vấn đề bức xúc của môi trường Thành phố
nói chung và môi trường tại các bãi rác nói riêng, đến
việc tìm hiểu những công nghệ xử lý hoá lý hiện tại
vẫn chưa thể giải quyết và những hiểm hoạ do nước rỉ
rác gây ra vẫn còn đó. Đề tài đã đưa ra một công
nghệ tuy không mới nhưng chưa được xem là phổ biến và

tối ưu.
 Ứng dụng khả năng xử lý nước của hệ thống Đất
ngập nước.
 Ứng dụng một số thực vật Đất ngập nước có khả
năng xử lý ô nhiễm để xử lý nước rỉ rác.
1.10.2.

Phương pháp thực tế

 Phương pháp thu thập và khảo sát thực tế.
 Phương pháp tổng hợp tài liệu
 Phương pháp kế thừa
 Phương pháp thí nghiệm
 Phương pháp phân tích tính chất lý, hóa, sinh
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
5


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

 Phương pháp thống kê phân loại
 Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
6


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


1.11.

GIỚI HẠN ĐỀ TÀI

 Giới hạn về thời gian: Luận văn được thực hiện trong
thời gian 3 tháng từ ngày 1/10/2006 đến ngày
24/12/2006.
 Giới hạn về nội dung, do thời gian và kinh phí có hạn
nên bài luận văn chỉ thực hiện những nội dung sau:
Khảo sát khả năng xử lý nước rỉ rác của 2 loại
thực vật là Lục Bình và cỏ Vetiver.
1.12.

Ý NGHĨA

 Ý nghóa thực tiễn: Đề tài được đưa ra nhằm giải
quyết một mảng khá quan trọng của môi trường
xung quanh khu bãi rác. Đó là vấn đề ô nhiễm do
nước rỉ rác tạo ra. Công nghệ dùng Đất ngập nước
để xử lý vừa có hiệu quả lâu dài vừa mang lại
hiệu quả kinh tế tức thời.
 Ý nghóa khoa học: Đề tài đưa ra một số thông số cơ
bản trong việc thiết kế hệ thống xử lý nước thải
bằng đất ngập nước.

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
7



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

CHƯƠNG II
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
2.1. TỔNG QUAN VỀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vò trí đòa lý
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong tọa độ đòa lý khoảng
10010’ – 10038’ vó độ bắc và 106 022’ – 106054’ kinh độ đông.
Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây
Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam
giáp tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh
Long An và Tiền Giang.
Thành phố Hồ Chí Minh cách thủ đô Hà Nội gần
1.730km đường bộ, nằm ở ngã tư quốc tế giữa các con
đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây,
là tâm diểm của khu vực Đông Nam Á. Trung tâm thành
phố cách bờ biển Đông 50 km đường chim bay. Đây là
đầu mối giao thông nối liền các tỉnh trong vùng và là
cửa ngõ quốc tế. Với hệ thống cảng và sân bay lớn
nhất trong cả nước.
2.1.1.2. Đòa hình
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp
giữa miền Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
Đòa hình tổng quát có dạng thấp dần từ bắc xuống Nam
và Đông sang Tây. Nó có thể chia thành ba tiểu vùng đòa
hình:
Vùng cao nằm ở phía Bắc – Đông Bắc và một phần
Tây Bắc (thuộc huyện Củ Chi, Đông Bắc quận Thủ Đức

và quận 9), với đòa hình lượn sóng, độ cao trung bình 10 –

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
8


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

25m và xen kẽ có những đồi gò độ cao cao nhất là tới
32m, như Long Bình (quận 9).
Vùng thấp trũng ở phía Nam – Tây Nam và Đông Nam
thành phố

(thuộc các quận 9, 8, 7 và các huyện Bình

Chánh, Nhà Bè, Cần giờ). Vùng này có độ cao trung bình
trên dưới 1m và cao nhất 2m, thấp nhất 0,5m.
Vùng trung bình phân bố ở

khu vực trung tâm thành

phố, gồm phần lớn nội thành cũ, một phần các quận
2, Thủ Đức, toàn bộ quận 12 và huyện Hóc Môn. Vùng
này có độ cao trung bình 5 -10m.
Nhìn chung đòa hình thành phố Hồ Chí Minh không phức
tạp, song khá là đa dạng, có điều kiện để phát triển
nhiều mặt.
2.1.1.3. Khí hậu
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng nhiệt đới gió

mùa cận xích đạo. Cũng như các tỉnh ở Nam bộ, đặc
điểm chung của khí hậu – thời tiết Thành phố Hồ Chí Minh
là nhiệt độ cao đều nằm trong năm và có hai mùa: mùa
mưa và mùa khô rõ ràng làm tác động chi phối môi
trường cảnh quan sâu sắc mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
Theo tài liệu nhiều năm của trạm quan trắc Tân Sơn Nhất,
qua các yếu tố khí tượng chủ yếu cho thấy những đặc
trưng của khí hậu Thành Phố Hồ Chí Minh như sau:
Lượng

bức

xạ

dồi

dào,

trung

bình

khoảng

140Kcal/cm2/năm. Số giờ nắng trung bình 160 – 270 giờ.
Nhiệt độ không khí trung bình 27 0C. Nhiệt độ cao tuyệt đối
400C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối 13,8 0C. Tháng có
nhiệt độ trung bình cao nhất là tháng 4 (28,8 0C), tháng có
nhiệt độ trung bình thấp nhất là giữa tháng 12 và tháng

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
9


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

1 (25,70C). Hàng năm có tới 330 ngày có nhiệt độ trung
bình 25 – 280C. Điều kiện nhiệt độ và ánh sáng thuận lợi
cho sự phát triển các chủng loại cây trồng và vật nuôi
đạt năng suất sinh học cao; đồng thời đẩy nhanh quá trình
phân hủy chất hữu cơ chứa trong các chất thải, góp
phần làm giảm ô nhiễm môi trường đô thò.
Lượng mưa cao, bình quân/năm 1.949 mm. Năm cao nhất
2.718 mm (1908) và năm nhỏ nhất 1.392 mm (1958). Số
ngày mưa trung bình /năm là 159 ngày. Khoảng 90% lượng
mưa hàng năm tập trung vào các tháng mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 11; trong đó hai tháng 6 và tháng 9
thường có lượng mưa cao nhất. Các tháng 1, 2, 3 mưa rất ít,
lượng mưa không đáng kể. Trên phạm vi không gian thành
phố, lượng mưa phân bố không đều, có khuynh hướng
tăng dần theo trục Tây Nam – Đông Bắc. Đại bộ phận các
quận nội thành và các huyện phía Bắc thường có lượng
mưa cao hơn các quận huyện phía Nam và Tây Nam.
Độ ẩm tương đối của không khí bình quân/năm 79,5%;
bình quân mùa mưa 80% và trò số cao tuyệt đối tới 100%;
bình quân mùa khô 74,5% và mưa thấp tuyệt đối xuống
tới 20%.
Về gió, Thành Phố Hố Chí Minh chòu ảnh hưởng bởi hai
hướng gió chính và chủ yếu là gió mùa Tây – Tây Nam

và Bắc – Đông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương
thổi vào trong mùa mưa, khoảng từ tháng 6 đến tháng 10,
tốc độ trung bình 3,6m/s, và thổi mạnh nhất vào tháng 8,
tốc độ

trung bình 4,5m/s. Gió Bắc – Đông Bắc từ biển

Đông thổi vào trong mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến
tháng 2 tốc độ trung bình 2,4m/s. Ngoài ra có gió tín phong,
hướng Nam – Đông Nam, khoảng từ tháng 3 đến tháng 5
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
10


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

tốc độ trung bình 3,7m/s. Về cơ bản Thành Phố Hồ Chí Minh
thuộc vùng không có bão. Năm 1997, do biến động bởi
hiện tượng El-Nino gây nên cơn bão số 5, chỉ một phần
huyện Cần Giờ bò ảnh hưởng ở mức độ nhẹ.
2.1.1.4. Thủy văn
Về nguồn nước, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông
Đồng Nai – Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới
sông ngòi kênh rạch rất phát triển.
Sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Langbiang (Đà
Lạt) và hợp bởi nhiều sông khác như: sông Là Ngà,
Sông Bé nên có lưu vực lớn, khoảng 45.000km 3. Nó có
lưu lượng bình quân 20 – 500m 3/s và lưu lượng cao nhất trong
mùa lũ lên tới 10.000m3/s, hàng năm cung cấp 15 tỷ m 3

nước và là nguồn nước ngọt chính của Thành phố Hồ Chí
Minh. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy
qua Thủ Dầu Một đến thành phố với chiều dài dài
200km và chảy dọc trên đòa phận thành phố dài 80km.
Hệ thống các chi lưu của sông Sài Gòn rất nhiều và có
lưu lượng trung bình vào khoảng 54m 3/s. Bề rộng của sông
Sài Gòn tại Thành phố thay đổi từ 225 đến 370m và độ
sâu tới 20m. Sông Đồng Nai nối qua sông Sài Gòn ở
phần nội thành mở rộng bởi hệ thống kênh Rạch Chiếc.
Sông Nhà Bè hình thành từ chỗ hợp lưu của sông Đồng
Nai và sông Sài Gòn cách trung tâm thành phố khoảng
5km về phía Đông Nam. Nó chảy ra biển Đông bằng hai
ngả chính: ngả Soài Rạp dài 59km, bề rộng trung bình 2km,
lòng sông cạn, tốc độ dòng chảy chậm; ngả Lòng Tàu
đổ ra vònh Gành Rái, dài 56km, rộng trung bình 0,5km, lòng
sông sâu, là đường thủy chính cho tàu bè ra vào bến
cảng Sài Gòn.
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
11


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Ngoài trục các sông chính kể trên ra, thành phố còn
có mạng lưới kênh rạch chằng chòt, như hệ thống sông
Sài Gòn có các rạch Láng The, Bàu Nông, rạch Tra, Bến
Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc – Thò Nghè,
Bến Nghé, Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hũ, Kênh Đôi và ở
phần phía Nam Thành phố thuộc đòa bàn các huyện Nhà

Bè, Cần Giờ mật độ kênh rạch dày đặc; cùng với hệ
thống kênh cấp 3 - 4 của kênh Đông – Củ Chi và các
kênh đào An Hạ, kênh Xáng – Bình Chánh đã giúp cho
việc tưới tiêu kết quả, giao lưu thuận lợi và đang dần
dần từng bước thực hiện các dự án giải tỏa, nạo vét
kênh rạch, chỉnh trang ven bờ, tô điểm vẻ đẹp cảnh quan
sông nước, phát huy lợi thế hiếm có đối với một đô thò
lớn.
Nước ngầm ở Thành Phố Hồ Chí Minh, nhìn chung khá
phong phú tập trung ở vùng nửa phần phía Bắc – trên
trầm tích Pleitoxen; càng xuống phía Nam (Nam Bình Chánh,
quận 7, Nhà Bè, Cần Giờ) – trên trầm tích Holoxen, nước
ngầm thường bò nhiễm phèn, nhiễm mặn.
Đại bộ phận khu vực nội thành cũ có nguồn nước
ngầm rất đáng kể, nhưng chất lượng không tốt lắm. Tuy
nhiên, trong khu vực này, nước ngầm vẫn thường được khai
thác ở 3 tầng chủ yếu: 0 – 20m, 60 – 90m và 170 – 200m.
Khu vực các quận: quận 12, huyện Hóc Môn và Chủ Chi
có trữ lượng nước ngầm rất dồi dào, chất lượng nước
rất tốt, thường được khai thác ở tầng 60 – 90m. Đây là
nguồn nước bổ sung quan trọng của Thành phố.
Về thủy văn, hầu hết các sông rạch Thành phố Hồ
Chí Minh đều chòu ảnh hưởng dao động bán nhật triều
của biển Đông. Mỗi ngày nước lên xuống hai lần, theo
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
12


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí


đó thủy triều thâm nhập sâu vào các kênh rạch trong
phố, gây nên tác động không nhỏ đối với sản xuất
nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực
nội thành.
Mực nước triều bình quân cao nhất là 1,1m. Tháng có
mực nước cao nhất là tháng 10 – 11, thấp nhất là tháng 6
– 7. Về mùa khô, lưu lượng của nguồn các sông nhỏ, độ
mặn 4% có thể thâm nhập sâu trên sông Sài Gòn đến
Lái Thiêu, có năm đến tận Thủ Dầu Một và trên sông
Đồng Nai đến Long Đại. Mùa mưa lưu lượng của nguồn
nước lớn, nên mặn bò đẩy lùi ra xa hơn và độ mặn bò
pha loãng đi nhiều.
Từ khi có các công trình thủy điện Trò An và thủy lợi
Dầu Tiếng ở thượng nguồn, chế độ chảy tự nhiên
chuyển sang chế độ điều tiết qua Tuabin, đập tràn và
cống đóng – xả, nên môi trường vùng hạ du từ Bắc Nhà
Bè trở nên chòu ảnh hưởng của nguồn, nói chung đã
được cải thiện theo chiều hướng ngọt hóa. Dòng chảy
vào mùa kiệt tăng lên, đặc biệt trong các tháng từ
tháng 2 đến tháng 5 tăng lên 3 -6 lần so với tự nhiên.
Vào mùa mưa, lượng nước được điều tiết giữ lại trên hồ,
làm giảm thiểu khả năng úng lụt đối với những vùng
trũng thấp; nhưng ngược lại, nước mặn lại xâm nhập sâu
hơn. Tuy nhiên, nhìn chung, đã mở rộng được diện tích cây
trồng bằng việc tăng vụ mùa canh tác. Ngoài ra, việc
phát triển các hệ thống kênh mương, đã có tác dụng
nâng cao mực nước ngầm trên tầng mặt lên 2 -3m, tăng
thêm nguồn cung cấp nước phục vụ cho sản xuất và sinh
hoạt của Thành phố.

2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
13


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

2.1.2.1. Lòch sử hình thành và phát triển quận Bình Tân
Quận Bình Tân là một quận mới được thành lập gồm
10 phường theo nghò đònh số 130/NĐ – CP Ngày 5/11/2003.
Sau khi được tách ra từ huyện Bình Chánh thì đòa giới điều
chỉnh gồm có diện tích là 5.188,67 ha và dân số là
254.635 người bao gồm 10 phường: An Lạc, An Lạc B, Bình
Hưng Hòa, Bình Hưng Hòa A, Bình Hưng Hòa B, Bình Trò Đông
A, Bình Trò Đông B, Tân Tạo, Tân Tạo A.
2.1.2.2. Dân số
 Diện tích toàn quận là 51,88 km2.
 Dân số lúc mới tách quận năm 2003 là 254.635
người nhưng đến năm 2005

dân số của quận đã

tăng lên đến 408.364 người, trong dó có 194.438 nam
và 213.926 nữ.
 Mật độ dân số trung bình là 7.871 người/km 2.
2.1.2.3. Thực trạng phát triển kinh tế
Quận Bình Tân là một quận ngoại thành mới được
thành lập, nó là cửa ngõ phía Nam của Thành phố Hồ
Chí Minh bởi nó quản lý bến xe Miền Tây, một bến xe

mà hằng năm đưa đón lượng khách rất lớn từ các tỉnh
thuộc Tây Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh.
Phía Bắc giáp với quận 12, huyện Hóc Môn; Phía Đông
giáp với quận Tân Phú, quận 6, quận 8; phía Nam giáp
quận 8, huyện Bình Chánh; phía Tây giáp với huyện Bình
Chánh; mà các quận, huyện này đều có tình hình kinh tế
– xã hội rất phát triển với tốc độ đô thò hóa chóng
mặt. Do đó, quận Bình Tân có nhiều điều kiện thuận lợi
trong việc phát triển ngành thương mại, dòch vụ, cũng như

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
14


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

ngành thủ công nghiệp. Biểu hiện của sự phát triển dó
là:
 Tổng số lượng doanh nghiệp trong toàn quận là 1.490
doanh nghiệp, thu hút tổng số lượng lao động toàn
quận là 145.184 người. Trong các ngành nghề như sau:
 Ngành công nghiệp chế biến 786 doanh nghiệp thu
hút 131.745 lao động tham gia sản xuất.
 Ngành thương mại – dòch vụ – khách sạn nhà hàng có
565 doanh nghiệp thu hút 6.154 lao động.
 Ngành xây dựng có 114 doanh nghiệp và thu hút
4.879 lao động.
 Ngành giao thông vận tải gồm có 25 doanh nghiệp
u1t 2.406 lao động tham gia.

Biểu hiện rõ nhất của sự phát triển kinh tế đó là sự
gia tăng mạnh mẽ của các giá trò sản xuất của quận
từ khi thành lập đến năm 2005:
 Giá trò sản xuất năm 2003 là 966.551 triệu đồng.
 Giá trò sản xuất của năm 2004 lá 1.299.109 triệu
đồng.
 Giá trò sản xuất của năm 2005 là 1.722.650 triệu
đồng.
2.1.2.4. Y tế
Toàn quận có:
 1 Trung Tâm Y tế Quận
 10 trạm Y tế phường
 1 phòng khám Đa Khoa
 Toàn quận có số lượng cán bộ y tế tham gia hoạt
động khám và chữa bệnh là: 50 bác só, 10 y só, 91 y
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
15


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

tá điều dưỡng; đã khám và chữa bệnh cho 379.890
lượt bệnh nhân vào năm 2004 và 449.539 lượt bệnh
nhân vào năm 2005.
2.1.2.5. Giáo dục
Vào năm học 2005 – 2006 toàn quận có:
 Khối mầm non có 30 trường bao gồm cả Công lập,
Bán công và tư thục. 185 lớp với 275 giáo viên và
có 5916 bé.

 Khối dân tiểu học có 11 trường bao gồm cả dân
lập và công lập với 336 lớp, 370 giáo viên và
13.056 học sinh.
 Khối trung học cơ sở gồm có 8 trường bao gồm cả
khối dân lập và công lập với 172 lớp; số giáo
viên là 312 người với 7432 học sinh.
2.2. TỔNG QUAN VỀ BÃI CHÔN LẤP – BÃI CHÔN
LẤP GÒ CÁT
2.2.1. Khái quát về Bãi Chôn Lấp
2.2.1.1. Khái niệm
Theo quy đònh của TCVN 6696-2000, bãi chôn lấp chất
thải rắn hợp vệ sinh được đònh nghóa là khu vực được quy
hoạch thiết kế, xây dựng để chôn các chất thải phát
sinh từ các khu dân cư, đô thò và các khu công nghiệp.
Bãi chôn lấp chất thải rắn bao gồm các ô chôn lấp
chất thải, vùng đệm, các công trình phụ trợ khác như
trạm xử lý nước, trạm xử lý khí thải, trạm cung cấp điện
nước, văn phòng làm việc, …
2.2.1.2. Phân loại
Phân loại bãi chôn lấp hợp vệ sinh, theo cơ chế vận
hành, bãi chôn lấp được chia thành:
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
16


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

 Bãi chôn lấp khô: bãi chôn lấp khô là dạng phổ
biến nhất để chôn lấp chất thải sinh hoạt và chất

thải công nghiệp. Chất thải được chôn lấp ở dạng
khô hoặc dạng ướt tự nhiên trong đất khô và có
độ ẩm tự nhiên. Đôi khi cần tưới nước cho chất thải
khô để tránh bụi khi vận chuyển và tạo độ ẩm khi
cần thiết. Bãi chôn lấp được xây dựng ở nơi khô
ráo.
 Bãi chôn lấp ướt: bãi chôn lấp ướt là một khu vực
được ngăn để chôn lấp chất thải thường tro hoặc
các phế thải khai thác dầu mỏ có dạng bùn. Ưu
điểm: bãi chôn lấp ướt chỉ thích hợp với vận
chuyển chất thải nhão vì để hợp lý với đường ống.
Nhược điểm: bề mặt thoát nước kém, đường ống
dễ bò tắc và chi phí lớn cho việc đào đắp.
 Loại kết hợp: xử lý bùn ở bãi chôn lấp ướt là rất
tốn kém nên thông thường người ta xử lý bùn tại
bãi chôn lấp khô cùng với rác thải sinh hoạt. Ưu
điểm: phương pháp này cho phép kinh phí đầu tư ban
đầu cũng như chi phí trong vận hành là tương đối
nhỏ. Nhược điểm: Làm tăng mức nguy hiểm của
nước rác. Nếu bãi chôn lấp nằm trong khu vực có
khả năng gây ô nhiễm cho nguồn nước ngầm thì
bùn có hàm lượng hữu cơ và sắt cao nên không
chôn lấp ở bãi này.
Ngoài ra, theo kết cấu và hình dạng tự nhiên cũng có
thể chia các bãi chôn lấp thành các loại sau:
 Bãi chôn lấp nổi: Là các bãi chôn lấp được xây
dựng ở những khu vực có đòa hình bằng phẳng, bãi
được sử dụng theo phương pháp bề mặt. Chất thải
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang

17


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

được chất cao thành đống cao từ 10 – 15 mét. Xung
quanh các ô chôn lấp phải xây dựng các đê bao.
Các đê này không có khả năng thấm nước để
ngăn chặn sự thẩm thấu của nước rác ra môi
trường xung quanh.

 Bãi chôn lấp chìm: Là các bãi tận dụng điều kiện
đòa hình tại những khu vực ao hồ tự nhiên, các moong
khai thác mỏ, các hào, rãnh hay thung lũng có sẵn.
Trên cơ sở đó kết cấu các lớp lót đáy bãi và
thành bãi có khả năng chống thấm. Rác thải sẽ
được chôn lấp theo phương thức lấp đầy.

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
18


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

2.2.2. Khái quát về bãi Chôn Lấp Rác Gò Cát
Diện tích tổng cộng 25ha, trong đó 17,5 ha bao gồm 5 ô
dùng chôn lấp rác, diện tích còn lại là nhà xưởng và
vành đai cây xanh.
Công suất của bãi chôn lấp 2000 – 2500 tấn /ngày.

Tổng công suất của 5 ô chôn lấp là 3.750.000 tấn trong
khoảng thời gian vận hành là 5 năm.
Số lượng cán bộ công nhân

viên là 146 người, chia

làm 3 ca (1 ca ngày và 2 ca đêm). Công trường hoạt động
24/24 bất kể ngày lễ hay chủ nhật. Việc thu gom rác từ
thành phố về đây lên tới bãi chôn lấp đều phải có
người quản lý, hướng dẫn cụ thể.
 Bãi chôn lấp thiết lập phù hợp với tiêu chuẩn IMC
(Cách ly – Quản lý – Kiểm soát). Mọi hoạt động
chuyển rác từ thành phố về trạm trung chuyển, rồi
lên bãi chôn lấp được thực hiện vào buổi tối từ 6
giờ chiều đến 6 giờ sáng. Đòa điểm của bãi chôn
lấp rất thuận lợi về mặt đòa chất, đòa hình. Theo
Liên đoàn đòa chất 8 đã khoan thử nghiệm 5 lỗ khoan
đòa chất, với độ sâu 50m cho mỗi lỗ. Kết quả cho
thấy:
 0,0-0,3m: lớp cát, cát pha màu vàng, xám trắng
 0,3-3,3m: lớp sét lẫn với laterit
 3,3-4,0m: sét màu xám trắng, phớt vàng.
 4,0-4,6m: sét pha cát màu xám trắng
 4,6-11,5m:sét màu xám trắng, phớt vàng
 11,5-15m: sét màu nâu vàng
 15-24m : cát hạt nhỏ màu vàng
 24-31,7m: sét màu nâu, đôi chỗ có chứa các ổ von
sắt
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang

19


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

 35-50m : cát hạt nhỏ, màu vàng.
Bên cạnh đó, đất ở bãi chôn lấp có tính không thấm
rất tốt. Theo số liệu của Sở Giao Thông Công Chánh cho
thấy loại đất ở đây có tốc độ thấm nước là
0,018cm/giờ, hệ số này rất phù hợp cho một bãi chôn
lấp hợp vệ sinh.
2.2.2.1. Đònh nghóa bãi chôn lấp hợp vệ sinh
Công trường xử lý rác Gò Cát là bãi chôn lấp hợp
vệ sinh. Chôn lấp hợp vệ sinh được đònh nghóa là kỹ
thuật thải bỏ chất thải rắn trên mặt đất theo phương
cách mà nó có thể bảo vệ môi trường. Mặt khác bãi
chôn lấp hợp vệ sinh phải được thiết kế và vận hành
sao cho giảm đến mức thấp nhất các tác động đến sức
khoẻ cộng đồng và môi trường.
Bãi chôn lấp hợp vệ sinh khi thiết kế và vận hành
phải có lớp lót đáy chống thấm, lớp che phủ hàng
ngày và lớp che phủ trung gian, có hệ thống thu gom
nước rò rỉ, hệ thống thu gom và xử lý khí thải, được che
phủ cuối cùng và duy tu, bảo trì sau khi đóng bãi.

Hệ thống thu
gom và xử lý
khí
Lớp vật liệu
có khả năng

côlấp
lậphợp
nước
2.2.2.2. Nguyên lý của phương pháp chôn
vệ sinh
và khí thải
HỐ CHÔN
RÁC
Khí bãi
rác

Nước
rỉ rác
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền
- K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
20

Hệ thống thu
gom và xử lý


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

2.2.2.3. Quy trình vận hành bãi chôn lấp hợp vệ sinh
Bao gồm 3 quy trình cơ bản đó là:
 Vận hành tiếp nhận và chôn lấp rác.
 Quy trình thu gom và xử lý nước rỉ rác.
 Quy trình thu gom và xử lý khí bãi rác.
Vận hành tiếp nhận và chôn lấp rác

Cân rác: Rác phải được cân để xác đònh khối lượng
rác chôn tại bãi và cũng là căn cứ để tính toán chi phí.
Khu trung chuyển: Là nơi để tập kết rác trước khi được
chuyển vào chôn tại hố chôn. Thông thường các xe chở
rác không thể chạy vào hố chôn mà việc vận chuyển
phải thông qua các xe chuyên dụng.

Quy trình hoạt động tại sàn phân loại

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
21


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Sàn
phân loại

Xe kobel kẹp rác đưa
lên xe tải chuyên
dùng chuyển lên bãi

Hướng dẫn xe
rác vào sàn
phân loại

Phun EM, rải
bokasi
(khử mùi)


Xe xúc gom
rác
thành
đóng
Tổng vệ sinh toàn
bộ khu
vực sàn sau khi
Trung chuyển rác: Ráchết
sau rác
khi tập kết tại khu trung chyển

sẽ được xe xúc chuyên dụng gom thành đống, sau đó được
một loại xe chuyên dụng khác bốc lên các xe trung
chuyển và được chuyển đến đổ tại hố chôn.
Đổ rác tại hố chôn: Tại hố chôn, mỗi ngày rác được
đổ ở các vò trí đã đònh sẵn trong kế hoạch. Diện tích đổ
mỗi ngày được tính toán sao cho vừa đủ để lớp rác cao
2,2m (sau khi đầm nén).
San ủi và đầm nén rác: Rác được đổ thành từng
đống tại hố chôn. Sau đó được xe ủi san phẳng thành
từng lớp cao 0,6 m. Tiếp theo xe đầm nén chuyên dụng sẽ
chạy trên mặt rác để đầm nén rác. Mỗi một vò trí phải
đảm bảo xe đầm qua ít nhất 6 lần. Sau khi đầm nén, tỷ
trọng rác phải trên 0,7 tấn/m 3. Quá trình được lặp lại cho
đến khi chiều cao lớp rác đạt 2,2,m.
Công tác khử mùi: Chế phẩm khử mùi được sử dụng
tại các vò trí có thể gây ra mùi hôi như khu trung chuyển,
khu chôn lấp, rãnh thu nước rỉ rác, hố chứa nước tạm.


SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
22


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Rác sinh hoạt của
thành phố
Cân
Tập kết tại sàn trung
chuyển

Phun thuốc diệt mầm
bệnh

Phun EM và rải Bokashi
khử mùi

Sơ đồ vận hành tiếp nhận và chôn lấp rác

Trung chuyển rác

Đổ rác tại hố chôn
San, ủi, đầm nén
Lắp giếng thu khí,
phủ lớp đất trung
gian, phủ bạt tách
nước mưa
Vệ sinh công trường

hàng ngày

Kiểm tra kỹ thuật
hàng ngày
Đủ 9 lớp
rác

Chưa đủ 9
lớp rác

Phủ lớp trên cùng
và hoàn tất hệ
Quản lý mầm bệnh:
Để quản
thống
thu khí lý các loại mầm bệnh
và các vật trung gian truyền bệnh có thể sinh ra rừ rác
Đóng
bãi
như ruồi, muỗi… Theo đònh
kỳ
hoặc đột xuất, thuốc diệt
SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
23


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

ruồi, muỗi được sử dụng tại các khu trung chuyển, khu

chôn rác, khuôn viên công trường và khu vực lân cận.
Lắp giếng thu khí: Trong quá trình đổ, san ủi và đầm
nén rác, các giếng thu khí sẽ được lắp và nâng dần cao
độ cho đến khi bãi rác đạt đủ cao độ.
Phủ lớp đất trung gian: Khi lớp rác đạt chiều cao 2,2m ta
phủ một lớp đất trung gian dày 15 cm nhằm hạn chế
phát tán ô nhiễm mùi hôi, bụi…đồng thời ngăn nước
mưa thấm vào rác. Ngoài ra, để hạn chế tối đa nước mưa
thấm vào rác, mùi hôi phát tán, một loại bạt nhựa sẽ
được phủ tạm thời mỗi ngày lên bề mặt bãi rác tại
những khu vực có khả năng thấm cao.
Vệ sinh công trường: Sau mỗi đêm tiếp nhận rác, sáng
sớm hôm sau toàn bộ hệ thống đường nhựa nội bộ, sàn
trung chuyển sẽ được quét dọn và rửa sạch sẽ. Tất cả
các xe khi ra khỏi công trường sẽ được rửa sạch bánh xe
thông qua bể rửa xe gần cửa ra vào.
Kiểm tra kỹ thuật: Mỗi ngày tổ giám sát kỹ thuật sẽ
kiểm tra toàn bộ công trường để phát hiện và xử lý
kòp thời các sai xót trong vận hành, trong công tác duy tu
và bảo dưỡng thiết bò nhằm hạn chế tối đa các sự cố
có thể xảy ra.
Lớp phủ trên cùng: Khi rác đủ cao độ, lớp phủ trên
cùng sẽ được thực hiện. Quy trình thực hiện lớp phủ trên
cùng như sau: phủ lớp vật liệu trung gian bảo vệ tấm vật
liệu HDPE, trải màng HDPE, phủ lớp cát thoát nước, phủ
lớp đất trên cùng, trồng thảm thực vật tạo cảnh quan,
hoàn tất các giếng thu khí và hệ thống đường ống thu
khí.
Đóng cửa: Khi bãi rác tiếp nhận đủ rác đồng thời lớp
phủ trên cùng hoàn thiện thì công tác đóng cửa được

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học
Trang
24


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

xem như hoàn tất. Lúc này công việc còn lại của bãi
rác chỉ là việc vận hành hệ thống xử lý nước rỉ rác
và cụm nhà máy thu khí, máy phát điện.
Quy trình thu gom và xử lý nước rỉ rác
Nước rỉ rác được thu gom về trạm xử lý bằng các
thiết bò thu gom được bố trí dưới mỗi ô chôn lấp, 5 ô
chôn lấp sẽ có 5 giếng thu nước. Các giếng này có
ống nối với nhau và được bơm về trạm xử lý nước thải.
Nước rỉ rác
Giếng thu
nước rỉ

Hoá
chất

Tiếp
nhận,điều
hoà
Khử canxi
Bùn dư
UASB
Tiền khử nitơ


Máy cấp
khí

Bùn dư
Bể hiếu khí

HỐ CHÔN
RÁC

Hậu khử nitơ
Hoá
chất

Xử lý hoá
học

Bùn
lắng

Lọc
Không
Cấp oxy
khí
Quy trình thu gom, xử lý khí

Nước xử lý đạt
tiêu chuẩn B
TCVN 5945 - 1995

SVTH: Hồ Thò Minh Truyền - K2002 – Khoa môi trường và công nghệ sinh học

Trang
25


×