Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích làm rõ về đặc điểm phức tạp và độc đáo của xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.53 KB, 18 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển của toàn cầu, kéo theo đó là sự hợp tác một cách
sâu rộng về mọi mặt trên mọi phương diện về văn hóa, kinh tế, khoa học,… giữa
các nước đã tạo tiền đề làm phát sinh mạnh mẽ các quan hệ có yêu tố nước
ngoài ngày càng phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của các
Điều ước quốc tế đa phương, song phương, các hiện tượng nẩy sinh từ các hệ
thống pháp luật như hiện tượng xung đột pháp luật để góp phần giải quyết các
quan hệ mang yếu tố nước ngoài. Trong đó, xung đột pháp luật là một trong
những hiện tượng đặc biệt, nó vừa mang tính phức tạp lại vừa mang tính độc
đáo, được áp dụng một cách hiệu quả trong quá trình giải quyết các tranh chấp
dân sự mang yếu tố nước ngoài. Vì vậy, bài phân tích này sẽ góp phần phân tích
và đi tìm hiểu sâu về đặc điểm phức tạp và phong phú của xung đột pháp luật.

1


I.

Những vấn đề chung về xung đột pháp luật
1. Khái niệm
Xung đột pháp luật là một hiện tượng pháp lý trong đó hai hay nhiều hệ

thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng điều chỉnh
một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
Xung đột pháp luật xảy ra trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có
yếu tố nước ngoài và vấn đề đó liên đới tới điều chỉnh của hai hay nhiều hệ
thống pháp luật và vấn đề cần chọn ra để điều chỉnh là cần thiết. Và cần phải
hiểu xung đột pháp luật ở đây là hệ thống luật điều chỉnh của các nước trong
cùng vấn đề đó là khác nhau chư không phải là quy phạm hay chế định luật.
2. Phạm vi có xung đột pháp luật
Như đã nói ở trên xung đột pháp luật chỉ có thể ở dân sự theo nghĩa rộng,


lĩnh vực tư pháp mà không có ở công pháp. Tuy nhiên không phải tất cả các
quan hệ tư pháp đều có xung đột pháp luật mà vẫn có trường hợp ngoại lệ. Đó là
quan hệ sở hữu trí tuệ
Quan hệ sở hữu trí tuệ có tính đặc thù với các đặc điểm như tài sản vô
hình, nên tài sản trí tuệ phát sinh trên cơ sở pháp luật của nước nào, yêu cầu bảo
hộ ở đâu thì được bảo hộ ở đó (phạm vi lãnh thổ nước mình hoặc cả nước
ngoài). Song đối với các quan hệ hợp đồng có đối tượng liên quan đến sở hữu trí
tuệ như hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc chuyển giao quyền sở
hữu các đối tượng sở hữu trí tuệ hoặc các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ gây ra được xem là các quan hệ hợp
đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dân sự bình thường và đều có xung
đột pháp luật1

1 Trường Đại học Luât Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr55.

2


II.

Xung đột pháp luật là một hiện tượng pháp lý phức tạp và độc đáo

1. Tính phức tạp của hiện tượng xung đột pháp luật.
1.1Tính phức tạp trong cách thức giải quyết xung đột pháp luật
Trước hết phải nói đến nguyên nhân dẫn đến xung đột pháp luật. Sự xuất
hiện của xung đột pháp luật là sự tổng hợp của nhiều nguyên nhân như: sự bình
đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có sự chấp
nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài của nhà nước hay các quan hệ dân
sự vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Chính các nguyên nhân trên đã dẫn đến hiện
tượng xung đột pháp luật, tức là sẽ có ít nhất hai hệ thống pháp luật cùng có thể

điều chỉnh một quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
Vấn đề đặt ra ở đây chính là làm thế nào để các chủ thể có thể lựa chọn ra được
một hệ thống pháp luật phù hợp để giải quyết? Vì mỗi quốc gia khác nhau thì sẽ
có các hệ thống pháp luật khác nhau nên việc lựa chọn hệ thống pháp luật nào
giải quyết sẽ rất khó khăn và phức tạp. Bởi việc lựa chọn hệ thống pháp luật còn
phải phù hợp với các nguyên tắc, các quy định cụ thể, chứ không thể lựa chọn
tùy tiện theo lợi ích của một trong các bên hay phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
một trong các bên chủ thể.
Tư pháp quốc tế đưa ra hai phương pháp giải quyết chủ yếu sau: phương
pháp thực chất và phương pháp xung đột. Phương pháp thực chất là phương
pháp dùng quy phạm thực chất, trực tiếp điều chỉnh quan hệ mà không cần qua
bất kỳ một khâu trung gian nào2. Tức là các quan hệ sẽ được điều chỉnh một
cách trực tiếp mà không phải dẫn chiếu đến pháp luật của bất kỳ quốc gia nào.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xây dựng các quy phạm thực chất là rất khó khăn và
mất thời gian. Do đó, các quan hệ trong tư pháp quốc tế sẽ được điều chỉnh chủ
yếu bởi phương pháp còn lại, đó là phương pháp xung đột (sử dụng các quy
phạm xung đột để điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có
yếu tố nước ngoài). Phương pháp xung đột được áp dụng, được đưa ra giải quyết
các vấn đề của xung đột pháp luật khi mà phương pháp thực định không thể giải
quyết được vấn đề được đưa ra. Vì về bản chất, để xây dựng được một quy
phạm thực định là rất khó, nên trong các hệ thống pháp luật thường quy định và
đưa ra những quy phạm xung đột, quy định một cách chung nhất về hướng giải
2Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr56.

3


quyết cho vấn đề, cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khi được nói đến.
Tuy nhiên, chính những quy định trong quy phạm xung đột này lại dẫn đến tính
phức tạp cho hiện tượng xung đột pháp luật. Vì về bản chất, như đã nói ở trên,

quy phạm xung đột chỉ quy định một cách chung chung, quy định về hệ thống
pháp luật có thể giải quyết quan hệ đang tranh chấp chứ không quy định một
cách rõ ràng hay cụ thể quyền và lợi ích của các bên như trong quy phạm thực
chất, vì nhiệm vụ của quy phạm xung đột chỉ là xác định xem hệ thống pháp luật
nào sẽ điều chỉnh, giải quyết các quan hệ dân sự, chứ không trực tiếp giải quyết
các quan hệ đó. Trên cơ sở xác định được hệ thống pháp luật áp dụng quan
phương pháp xung đột thì mới sử dụng các quy định thực định trong hệ thống
pháp luật được lựa chọn để giải quyết quan hệ.
Do đó, phương pháp xung đột chỉ mới là một bước gián tiếp trong việc
giải quyết các quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài
chứ chưa đi đến đích cuối cùng là giải quyết được các quan hệ dân sự.Trong
nhiều trường hợp, khi đã áp dụng phương pháp xung đột và dẫn chiếu ra được
quy phạm xung đột để áp dụng nhưng các bên vẫn không thể giải quyết được
vấn đề tranh chấp. Vì quy phạm xung đột của hai hệ thống pháp luật khác nhau,
không thống nhất về các quy định, khi đó, các bên lại đặt ra vấn đề lựa chọn hệ
thống pháp luật để giải quyết vấn đề tranh chấp. Bên cạnh đó, vì căn bản các
quy phạm xung đột không quy định cụ thể và thống nhất về một hệ thống pháp
luật nào được áp dụng để giải quyết vấn đề dân sự, nên sau khi tiến hành việc
chọn lựa hệ thống pháp luật thì hoạt động này còn có thể dẫn đến hàng laotj các
các vấn đề mới như việc dẫn chiếu ngược, dẫn chiếu đến nước thứ ba,… tạo lên
một cái vòng luẩn quẩn, xoay vòng giữa các hệ thống pháp luât, không có hồi
kết. Chính việc này đã tạo nên sự phức tạp trong việc giải quyết các vấn đề trong
xung đột pháp luật, đã cho ta thấy tính phức tạp trong hiện tượng này. Sự phức
tạp xuất hiện ngay trong phương pháp giải quyết vấn đề của xung đột pháp luật.
Nó phức tạp trong việc lựa chọn hệ thống pháp luật giải quyết quan hệ dân sự,
phức tạp trong việc các quy định trong quy phạm xung đột của các hệ thống
pháp luật là khác nhau nhưng lại có quan hệ với nhau gây lên những trường hợp
dẫn chiếu ngược hay dẫn chiếu đến nước thứ ba, gây khó khăn cho quas trình
giải quyết các quan hệ, khó khăn cho quá trình lựa chọn.
4



Như vậy, quá trình giải quyết các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu
tố nước ngoài có rất nhiều bước, trong đó phương pháp giải quyết xung đột pháp
luật chỉ là một trong các bước ấy. Đây chính là điểm phức tạp đầu tiên mà nhóm
tìm ra được từ hiện tượng xung đột pháp luật.
1.2Tính phức tạp trong áp dụng pháp luật nước ngoài của xung đột pháp
luật.
Xuất phát từ quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là các
quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài nên khi giải quyết các
quan hệ này nếu không có các quy phạm thực chất trực tiếp điều chỉnh quan hệ
thì các cơ quan có thẩm quyền bắt buộc phải dùng các quy phạm xung đột. Việc
thừa nhận các quy phạm này cũng đồng nghĩa với việc thừa nhận có thể áp dụng
pháp luật nước ngoài theo sự dẫn chiếu của quy phạm này. Tuy nhiên, việc trong
trường hợp nào được áp dụng pháp luật nước ngoài, các yêu cầu khi áp dụng,
các quy định về xác định luật nước ngoài, thứ tự áp dụng pháp luật,… rất phức
tạp, gây ra nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng, có thể nói đây là nội dung
thể hiện rõ nhất tính phức tạp của hiện tượng xung đột pháp luật. Để áp dụng
pháp luật nước ngoài trong từng trường hợp cụ thể, ta phải xác định nội dung
quy định pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu bởi quy phạm xung đột thông
thường hay quy phạm xung đột thống nhất, được các bên thống nhất áp dụng
hay được cơ quan có thẩm quyền xác định luật nước ngoài là hệ thống pháp luật
có mối liên hệ gắn bó nhất. Ở mỗi trường hợp cụ thể, nếu được dẫn chiếu bởi
quy phạm xung đột thông thường thì luật nước ngoài phải được áp dụng cũng
giống như được dẫn chiếu bởi quy phạm xung đột thống nhất. Tuy nhiên, nếu
quy phạm xung đột thông thường là do nhà nước thỏa thuận xây dựng thì quy
phạm xung đột thống nhất lại được xây dựng dựa trên các Điều ước quốc tế.
Chính vì vậy, để xác định được một cách chính xác nhất hệ thống pháp luật được
áp dụng ta cần phải xác định được nguồn gốc hình thành của quy phạm xung
đột.

Ngoài ra, để việc áp dụng pháp luật nước ngoài, ta cũng cần phải tìm hiểu
rõ cách thức xác định luật nước ngoài như thế nào, ai có trách nhiệm tìm hiểu và
xác định luật nước ngoài. Tính phức tạp của vấn đề này thể hiện ở việc tùy từng
5


trường hợp cụ thể, tùy từng quốc gia mà chủ thể có quyền và nghĩa vụ xác định,
tìm hiểu luật nước ngoài là khác nhau. Một số nước quy định về luật nước ngoài
được coi như là chứng cứ, vì vậy, đương sự có nghĩa vụ phải chứng minh về sự
cần thiết và thuyết phục cơ quan nhà nước về sự cần thiết đó. Ở Việt Nam, tùy
từng trường hợp thì chủ thể có trách nhiệm tìm hiểu và xác định luật nước ngoài
có thể là đương sự hoặc cơ quan có thẩm quyền. Những quy định như vậy, trong
nhiều trường hợp sẽ gây ra những khó khăn cho các chủ thể trong quá trình giải
quyết các quan hệ dân sự mang yếu tố nước ngoài, gây ra những bất cập, sự
phức tạp trong hiện tượng xung đột pháp luật.
Bên cạnh đó, thứ tự áp dụng pháp luật trong vụ việc tư pháp quốc tế cũng
thể hiện được sự phức tạp trong xung đột pháp luật. Tùy từng trường hợp cụ thể
mà thứ tự áp dụng pháp luật lại khác nhau, mang đến sự phức tạp trong quá trình
áp dụng pháp luật, gây ra sự khó khăn cho cơ quan cóc thẩm quyền, khó khăn
cho nhận thức của các chủ thể tham gia. Theo đó, thứ tự áp dụng pháp luật chia
làm hai trường hợp là đối với các vụ việc tư pháp quốc tế thông thường (áp dụng
pháp luật theo quy định của Điều ước quốc tế, theo đó là pháp luật quốc gia, áp
dụng pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất) và các quan hệ tư pháp
quốc tế đặc biệt.
1.3Tính phức tạp được thể hiện trong các vấn đề pháp lý phát sinh khi áp
dụng pháp luật nước ngoài hay nói cách khác chính là hiệu lực của quy
phạm xung đột.
Như đã tình bày ở phần trên, khi xuất hiện hiện tượng xung đột pháp luật
thì sẽ dùng các phương pháp để giải quyết. Và sẽ không có gì nếu như các chủ
thể có thể áp dụng phương pháp thực chất, tức là sử dụng loại quy phạm pháp

luật quy định cụ thể cách thức ứng xử của các chủ thể tham gia quan hệ, quy
định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ tư pháp
quốc tế, trực tiếp điều chỉnh, tác động tới quan hệ (quy phạm thực chất). Tuy
nhiên, vì các quy phạm thực chất rất khó xây dựng nên phương pháp chủ yếu
vẫn là phương pháp xung đột; khi không có quy phạm thực chất thì các quy
phạm xung đột (không quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan

6


hệ, không quy định hình thức và các biện pháp chế tài có thể được áp dụng đối
với bên vi phạm) sẽ được áp dụng.
Việc áp dụng quy phạm xung đột sẽ dẫn đến trường hợp là phải dẫn chiếu
đến luật nước ngoài. Tuy nhiên, không phải quy phạm nào khi dẫn chiếu đến
luật nước ngoài cũng làm phát sinh các vấn đề pháp lý. Cụ thể, đối với quy
phạm xung đột thông thường khi dẫn chiếu đến luật nước ngoài thì nghĩa là toàn
bộ hệ thống pháp luật nước ngoài (bao gồm quy phạm thực chất và quy phạm
xung đột), điều này chính là nguyên nhân chính dẫn đến các vấn đề pháp lý phát
sinh như dẫn chiếu ngược, dẫn chiếu đến nước thứ ba,… Còn đối với quy phạm
xung đột thống nhất, khi dẫn chiếu đến luật nước ngoài thì chỉ là phần quy phạm
thực định của hệ thống pháp luật nước ngoài chứ không bao gồm cả quy phạm
xung đột (điều này cũng được áp dụng trong trường hợp các bên thỏa thuận áp
dụng luật nước ngoài). Do đó, cần phân biệt rõ hai trường hợp dẫn chiếu này khi
áp dụng quy phạm xung đột.
Đi vào các vấn đề phát sinh khi áp dụng pháp luật nước ngoài:
Một là, bảo lưu trật tự công. Bảo lưu trật tự công được hiểu là không áp
dụng pháp luật nước ngoài nếu hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài
trái “trật tự công”. Hiện nay, giáo trình cũng như các tài liệu khác đều chưa có
khái niệm chính thống và đầy đủ về “trật tự công”. Và vấn đề này đã đặt ra một
rào cản rất lớn cho các chủ thể khi mà mỗi quốc gia sẽ lấy nó làm lý do cho việc

không áp dụng pháp luật nước ngoài khi có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến
một hệ thống pháp luật nước ngoài nào đó. Vì mỗi quốc gia đều có chủ quyền
riêng, họ có đầy đủ các quyền để bảo vệ “trật tự công” của họ khỏi những ảnh
hưởng từ bất cứ việc gì kể cả việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Không một
chuẩn mực nào có thể bao hàm đầy đủ nghĩa của cụm từ “trật tự công”, điều này
hoàn toàn toàn phụ thuộc vào cách nhìn nhận của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tính
phức tạp chưa dừng lại ở đó, xuất phát từ quan niệm của mỗi quốc gia về “trật tự
công” thì việc từ chối áp dụng luật nước ngoài không phải là từ chối hoàn toàn
hệ thống pháp luật, thậm chí là từng quy phạm cụ thể, điều đó còn tùy thuộc vào
từng tình huống cụ thể mà quốc gia có thể từ chối áp dụng hay không. Bởi có

7


khi cũng cùng một quy phạm đó, nhưng được áp dụng ở mỗi tình huống khác thì
sẽ không gây ảnh hưởng đến trật tự công.
Hai là, dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba. Như đã
nhắc đến ở phần trên, khi pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu thì gồm có cả
quy phạm xung đột và quy phạm thực chất hay không? Điều này còn phụ thuộc
vào quy phạm xung đột dẫn chiếu. Ở đây chỉ đề cập đến trường hợp dẫn chiếu
đến toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài và lúc này có thể sẽ xảy ra hiện
tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba. Dẫn chiếu
ngược là hiện tượng pháp luật nước được dẫn chiếu, dẫn chiếu trở lại pháp luật
nước dẫn chiếu3. Dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba là hiện tượng pháp luật
nước được dẫn chiếu, dẫn chiếu đến pháp luật nước khác 4. Tính phức tạp được
thể hiện ở đây như sau: khi có hiện tượng dẫn chiếu ngược hoặc dẫn chiếu đến
pháp luật nước thứ ba thì sẽ xảy ra trường hợp dẫn chiếu lặp lại, tức là pháp luật
nước được dẫn chiếu, dẫn chiếu ngược trở lại pháp luật nước dẫn chiếu, và cứ
như thế pháp luật nước dẫn chiếu lại tiếp tục dẫn chiếu đến pháp luật nước được
dẫn chiếu. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải xây dựng một cơ chế để đảm bảo

rằng thời điểm hay điều kiện để chấm dứt việc dẫn chiếu, nhằm đảm bảo cho
việc giải quyết các quan hệ được nhanh chóng và hiệu quả hơn. Cũng tương tự
như hiện tượng dẫn chiếu ngược, việc dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba cũng
cần có cơ chế để khác phục, bởi khi dẫn chiếu đến pháp luật của một nước, mà
nước đó lại tiếp tục dẫn chiếu đến một nước nữa thì sẽ gây ra rất nhiều khó khăn
trong quá trình giải quyết quan hệ.
Ba là lẩn tránh pháp luật. Đây là một trong những vấn đề phát sinh trong
quá trình áp dụng quy phạm xung đột, thể hiện một phần nào đó hiệu lực của
quy phạm xung đột trong quá trình giải quyết các quan hệ tư pháp quốc tế.
Thông qua các trường hợp xảy ra trong thực tiễn, việc lẩn tránh pháp luật đã góp
phần giúp ta có cái nhìn rõ và bao quát hơn về hiệu lực của quy phạm xung đột,
thông qua đó cũng thấy được phần nào đó sự phức tạp của hiện tương xung đột
pháp luật. Theo đó, lẩn tránh pháp luật là hiện tượng các đương sự đã bằng các
32, 3 Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1999,
tr.185.
4

8


hành vi của mình như thay đổi quốc tịch, thay đổi nơi cư trú hoặc chuyển hóa tài
sản,…để đạt được mục đích là áp dụng hệ thống pháp luật có lợi nhất cho mình5.
Vì về bản chất, xung đột pháp luật là hiện tượng mà hai hay nhiều hệ
thống pháp luật khác nhau có thể cùng điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài. Trong khi đó, các quy định trong các hệ thống pháp luật này lại
khác nhau, đem đến những lợi ích cho các chủ thể là khác nhau, chính vì vậy,
các chủ thể luôn ming muốn được áp dụng pháp luật của một hệ thống pháp luật
sao cho có lợi nhất cho mình. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, đã gây ra
những trường hợp, vì muốn đem lại lợi ích cho mình, các chủ thể đã tìm cách
thay đổi quốc tịch, nơi ở, chuyển đổi tài sản để được áp dụng pháp luật nơi mà

mình mong muốn, tạo ra những khó khăn cho quá trình giải quyết các quan hệ tư
pháp quốc tế, từ đó tạo nên sự phức tạp trong xung đột pháp luật. Tuy nhiên,
cũng có ý kiến cho rằng, đây hoàn toàn là quyền của các chủ thể, vì quan hệ dân
sự là quan hệ bình đẳng, thể hiện sự tự do lựa chọn cũng như thỏa thuận giữa
các bên, chính vì vậy, đây không thể coi là hành vi lẩn tránh. Tuy nhiên, dù theo
hướng giải thích nào thì hành vi trên cũng thể hiện được sự phức tạp của xung
đột pháp luật. Chính xung đột pháp luật đã làm cho các chủ thể khó khăn trong
việc lựa chọn hệ thống pháp luật để giải quyết các tranh chấp, bên cạnh đó, vì
lợi ích của bản thân mình mà họ phải có những hành vi nhất định để có thể được
lựa chọn một hệ thống pháp luật phù hợp, bảo vệ được tối đa lợi ích của mình.
Chính những điều đó đã đem lại những sự phức tạp trong quá trình giải quyết
các tranh chấp trong tư pháp quốc tế, thể hiện rõ sự phức tạp trong xung đột
pháp luật.
2. Tính độc đáo của hiện tượng xung đột pháp luật.
2.1Xung đột pháp luật là đặc thù của tư pháp quốc tế.
Xung đột pháp luật là hiện tượng đặc thù của tư pháp quốc tế xuất phát từ
những nhóm nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nhóm nguyên nhân về khách quan, gồm: sự khác biệt về kinh tế,
chính trị và xã hội giữa các quốc gia và đối tượng điều chỉnh có yếu tố nước ngoài.
Về sự khác biệt đầu tiên, các quốc gia đều tồn tại dựa trên một nền tảng kinh tế
5Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, 2017, tr98.

9


nhất định ứng với một chế độ sở hữu – một bộ phận quan trọng của cơ sở hạ tầng,
có mối quan hệ biện chứng với kiến trúc thượng tầng mà pháp luật là một thành tố
quan trọng của nó. Bên cạnh đó, mỗi quốc gia lại có những điều kiện về địa lý, về
lịch sự hình thành và con đường phát triển khác nhau nên dẫn đến có hệ thống pháp
luật khác nhau là tất yếu. Về đối tượng điều chỉnh, các quan hệ mà tư pháp quốc tế

điều chỉnh là các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài, chúng
luôn gắn ít nhất với hai hoặc có thể nhiều hơn hệ thống pháp luật mà các hệ thống
pháp luật thì luôn bình đẳng với nhau trong việc điều chỉnh một quan hệ nên dẫn
đến phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật.
Thứ hai, nhóm nguyên nhân về chủ quan: sự thừa nhận của nhà nước về
khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài. Thực tế cho thấy rằng, mặc dù có sự
khác biệt về hệ thống pháp luật giữa các quốc gia (hội đủ các yếu tố khách quan)
nhưng không có sự thừa nhận của nhà nước thì hiện tượng xung đột pháp luật
vẫn không thể nào tồn tại được. Chẳng hạn như những quan hệ trong lĩnh vực
công, ví dụ điển hình là quan hệ hành chính và quan hệ hình sự có yếu tố nước
ngoài. Trong những lĩnh vực này, nhà nước không đặt ra việc một hay nhiều hệ
thống pháp luật bình đẳng trong việc điều chỉnh các quan hệ này – những quan
hệ đặc biệt được xác định là sự ổn định của an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội vì khi đặt ra pháp luật bảo vệ những quan hệ này, bất kỳ một nhà nước nào
cũng luôn xác định phải bảo vệ những giá trị cốt lõi, nên tảng của chính mình.
Nếu như thừa nhận pháp luật nước ngoài được áp dụng trong những lĩnh vực
này đồng nghĩa với việc các quốc gia đã từ bỏ một phần trách nhiệm của mình
trong việc bảo vệ những giá trị nên tảng mà họ đã đặt ra lúc đầu. Những quan hệ
này được bảo vệ nghiêm ngặt và tuyệt đối trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, một
khi các quan hệ này bị xâm hại thì đồng nghĩa với việc các giá trị căn bản của
cuộc sống, xã hội bị tác động đến, các lợi ích công cộng, nhà nước, quốc gia bị
xâm hại thì bất kể người vi phạm là ai, ở đâu đều bị xử lý theo quy định của
pháp luật quốc gia nơi quan hệ bị xâm hại. Còn đối tượng điều chỉnh của tư
pháp quốc tế lại là các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài,
bản chất của quan hệ này là dân sự, các bên chủ thể ngang quyền và bình đẳng
với nhau. Chính yếu tố này tạo cơ sở để cân nhắc việc áp dụng pháp luật của các
quốc gia trong việc giải quyết các quan hệ liên quan đến nhiều quốc gia. Và một
10



lý do nữa là việc áp dụng pháp luật nước nào khi giải quyết các quan hệ dân sự
này sẽ được giới hạn trong một chừng mực nhất định thông qua các quy định về
bảo lưu trật tự công.
Qua những lý do nêu trên thì có thể khẳng định rằng hiện tượng xung đột
pháp luật là hiện tượng đặc thù của Tư pháp quốc tế - đây cũng là điểm độc đáo
nhất của hiện tượng này. Bên cạnh đó, một hiện tượng này có tính hai mặt, thể
hiện ở việc nó vừa tác động tích cực và cả tiêu cực cho hệ thống pháp luật và
quá trình giải quyết vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài.
Tác động tiêu cực của xung đột pháp luật: Tòa án phải xác định hệ thống
pháp luật phù hợp kéo dài thời gian giải quyết vấn đề vì sự xung đột pháp luật là
hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể
được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Chính vì vậy
mà cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia liên quan sẽ phải xác định hệ thống
pháp luật nào phù hợp để giải quyết. Tuy nhiên, việc xác định và áp dụng không
phải là vấn đề dễ dàng đối với tất cả cơ quan có thẩm quyền giải quyết của các
quốc gia bởi do sự khác biệt về điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội
dẫn đến sự khác biệt về hệ thống pháp luật kéo theo sự khác biệt trong việc áp
dụng pháp luật. Các bên liên quan phải chờ đợi do vấn đề không thể giải quyết
ngay ảnh hưởng việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các bên. Việc không
giải quyết ngay cũng do ảnh hưởng từ việc Tòa án phải xác định được hệ thống
pháp luật phù hợp để giải quyết vấn đề.
Tác động tích cực của xung đột pháp luật: Việc tiếp cận với các khác biệt sẽ
giúp các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia liên quan nhận thấy các điểm
mạnh yếu của hệ thống pháp luật quốc gia trong tương quan với các hệ thống
pháp luật khác trên thế giới, qua đó giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia.
Sự khác biệt sẽ chỉ xảy ra giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia (sẽ giải
quyết thông qua việc lựa chọn) khác với các mâu thuẫn giữa các ngành luật bên
trong hệ thống pháp luật của quốc gia (được giải quyết bằng nguyên tắc luật
chung được ưu tiên áp dụng).
2.2Quy phạm xung đột – quy phạm đặc thù trong tư pháp quốc tế


11


Quy phạm xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần phải áp
dụng để điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước
ngoài trong một tính huống cụ thể.6
Theo lí luận chung về nhà nước và pháp luật, một quy phạm pháp luật
thông thường sẽ có cơ cấu gồm ba phần: giả định, quy dịnh và chế tài nhưng
không nhất thiết trong một quy phạm pháp luật phải có đầy đủ cả 3 yếu tố mà
trong nhiều trường hợp chỉ cần một hoặc hai yếu tố, ví dụ: Điều 190 Bộ luật dân
sự 20157, quy phạm này chỉ bao gồm 2 bộ phận là giả định (chủ sở hữu) và quy
định (được sử dụng tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại
hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác). Đối vơi quy phạm xung đột, do tính đặc thù
của nó là loại quy phạm chỉ nhằm dẫn chiếu luật nên về cơ cấu quy phạm xung
đột chỉ có hai phần, hay hai bộ phận là phần vi phạm và phần hệ thuộc.8
Phạm vi là phần chỉ ra quy phạm xung đột này được áp dụng cho loại quan
hệ dân sự theo nghĩa nghĩa rộng nào, đó có thể là quan hệ sở hữu, quan hệ hợp
đồng, quan hệ thừa kế… và thông thường phạm vi sẽ luôn đứng đầu câu. Hệ
thuộc là phần chỉ ra hệ thống pháp luật nước nào áp dụng để điều chỉnh quan hệ
đã được xác định trong phần phạm vi, gồm: hệ thuộc luật nhân thân (hệ thuộc
luật nơi cư trú và quốc tịch), hệ thuộc luật quốc tịch của pháp nhân, hệ thuộc
luật nơi có tài sản, hệ thuộc luật các bên ký kết hợp đồng lựa chọn, hệ thuộc luật
nơi thực hiện hành vi (ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, thực hiện nghĩa vụ
và nơi tiến hành kết hôn), hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại và hệ
thuộc luật toà án. Phần hệ thuộc chính là phần dẫn chiếu luật, thông thường phần
này sẽ đứng cuối câu, sau phần phạm vi và các điều kiện đặc biệt. Ví dụ: Điều
682 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Giám hộ được xác định theo pháp luật của
nước nơi người được giám hộ cư trú”, theo quy phạm này thì phần phạm vi là


6 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr63.
7 Điều 190.Quyền sử dụng của chủ sở hữu
Chủ sở hữu được sử dụng tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến
lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
8 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2017, tr635.

12


quan hệ giám hộ còn phần hệ thuộc luật là phần chỉ ra luật nước nơi người được
giám hộ cư trú.
Điểm độc đáo của quy phạm xung đột thể hiện ở chỗ nó không chỉ được cấu
tạo đặc biệt hơn so với quy phạm pháp luật thông thường (2 bộ phận: phạm vi và hệ
thuộc luật so với 3 phần: giả định, quy định và phạm vi) mà cơ cấu của nó lúc nào
cũng phải đủ cả hai bộ phận và nếu thiếu đi một trong hai bộ phận ấy thì không thể
nào hình thành nên quy phạm xung đột, còn đối với quy phạm thông thường thì
không nhất thiết phải đầy đủ cả ba bộ phận mà vẫn có thể chỉ hai hoặc một bộ phận.
Ngoài ra, sự đa dạng trong hệ thuộc luật
Bên cạnh đó, quá trình áp dụng pháp luật nước ngoài là một quá trình phức tạp
đòi hỏi, người áp dụng trong cơ quan có thẩm quyền phải am hiểu không những
pháp luật của quốc gia mình mà còn pháp luật quốc tế và các bước như xác định luật
nước ngoài, thứ tự áp dụng pháp luật nước ngoài nhằm giải quyết đúng đắn các quan
hệ.
2.3Tính độc đáo trong phương pháp giải quyết xung đột pháp luật
Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật là cách thực giải quyết vấn đề khi
có tình huống hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác có thể được áp
dụng để điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế. Trong đó có hai phương pháp chủ
yếu được sử dụng là phương pháp thực chất và phương pháp xung đột.
Phương pháp thực chất là phương pháp giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đơn

giản, tránh được sự mâu thuẫn giữa các hệ thống pháp luật khi điều chỉnh các quan
hệ. Có 2 loại quy phạm thực chất, gồm: quy phạm thực chất thông thường (quy định
trong hệ thống pháp luật quốc gia) và quy phạm thực chất thống nhất (quy định trong
các điều ước quốc tế). Hiệu quả của phương pháp này rất cao nhưng việc xây dụng
một quy phạm xung đột thực chất không phải là chuyện dễ dàng đối với bất kỳ một
quốc gia nào trên thế giới, nếu xây dựng tất cả quy phạp thực chất để điều chỉnh tất
cả quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài thì đây là điều bất khả thi.
Vì vậy, bên cạnh phương pháp thực chất còn một phương pháp nữa đó là phương
pháp xung đột.

13


Phương pháp xung đột là phương pháp gián tiếp, nó chỉ giúp tìm ra hệ
thống pháp luật cần được áp dụng và nếu muốn giải quyết triệt để thì cơ quan có
thẩm quyền phải xem xét, áp dụng các quy định của hệ thống pháp luật được
dẫn chiếu đến để giải quyết. Có thể nói, đây là phương pháp phổ biến, bao quát
và đặc thù so với phương pháp thực chất nên nó cũng được các quốc gia sử dụng
rộng rãi trong tư pháp quốc tế. Thực tế có những trường hợp không xuất hiện
xung đột pháp luật nhưng lại thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế thì
phương pháp này vẫn phát huy tác dụng vốn có của nó, cụ thể trong quan hệ sở
hữu trí tuệ theo quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự 2015.9
Hai phương pháp này đều được vận dụng trong thực tế phù hợp với
hoàn cạnh và điều kiện cụ thể, trong đó một thì bao quát, rộng rãi còn một thì
cụ thể hiệu quả nhưng đối với phương pháp xụng đột thì nó lại chiếm ưu thế
hơn so với phương pháp thực chất không những về số lượng mà còn về tính
chất – nó được xem như môt phương pháp gián tiếp để tìm ra các quy phạm
thực chất, hay nói cách khác phương pháp xung đột là phương pháp gián tiếp
còn phương pháp thực chất là phương pháp trực tiếp điều chỉnh quan hệ trong
tư pháp quốc tế.

2.4Những vấn đề về hiệu lực của quy phạm xung đột
Thứ nhất, bảo lưu trật tự công. Điểm độc đáo của nội dung này thể hiện ở
chỗ mặc dù có quy phạm xung đột để điều chỉnh các quan hệ trong tư pháp quốc
tế nhưng hiệu lực của các quy phạm này không phải là tuyệt đối mà trong một
chừng mực nào đó (chừng mực này do nhà nước đặt ra với tên gọi bảo lưu trật
tự công) nó vẫn có thể bị từ chối áp dụng nhưng không vì thế nào dẫn đến sự
thiếu điều chỉnh trong những trường hợp này, thay vào đó hệ thuộc luật toà án sẽ
được lựa chọn để điều chỉnh. Bên cạnh đó, việc áp dụng bảo lưu trật tự công
không phải là việc phủ nhận hoàn toàn vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài, nó
chỉ là việc gạt bỏ đi một hay một số quy phạm cụ thể của pháp luật nước ngoài
mà nếu áp dụng sẽ xâm phạm đến trật tự công của quốc gia sở tại. Cũng cần
phải hiểu rằng việc loại bỏ này là trong những trường hợp cụ thể hay nói cách
9 Điều 679. Quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo pháp luật của nước nơi đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được yêu cầu bảo
hộ.

14


khác, một quy phạm pháp luật nước ngoài không được áp dụng trong trường hợp
này nhưng lại được vận dụng để giải quyết trong trường hợp khác. Ví dụ: Điều
670 Bộ luật dân sự 201510.
Thứ hai, dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba. Đây là
một vấn đề vô cùng phức tạp nhưng mang nhiều nét độc đáo. Có thể nói, điểm
độc đáo của vấn đề này thể hiện ở việc mỗi quốc gia có quyền tự mình lựa chọn
việc thừa nhận hay không hiện tượng dẫn chiếu ngược hoặc dẫn chiếu đến pháp
luật của nước thứ ba. Ngoài ra, các quốc gia còn thể thoả thuận và xây dựng nên
các quy phạm xung đột thống nhất nhằm góp phần tạo nên sự thuận lợi cho quá
trình áp dụng pháp luật.
Thứ ba, lẩn tránh pháp luật - một điểm độc đáo của hiện tượng xung đột

pháp luật bởi mặc dù sự xung đột đã được giải quyết bằng nhiều phương pháp
khác nhau, được điều chỉnh bằng nhiều quy phạm khác nhau nhưng ở đâu đó
trên thực tế, bằng các hành vi hợp pháp của mình, chủ thể vẫn có thể “lựa chọn”
một hệ thống pháp luật có lợi nhất cho bản thân. Có thể xem đây đơn giản là
trường hợp không thuộc phạm vi điều chỉnh của quy phạm xung đột hoặc cái
“đáng nhẽ” chỉ là giả định còn cái mà quy phạm điều chỉnh mới là thực tế. Đồng
thời, thấy rằng chỉ trong tư pháp quốc tế hay cụ thể hơn là khi xuất hiện hiện
tượng xung đột pháp luật thì chủ thể mới có thể bằng các hành vi của mình tìm
kiếm hệ thống pháp luật có lợi nhất cho bản thân.
KẾT LUẬN
Xung đột pháp luật là một hiện tượng pháp lý phức tạp và độc đáo. Nhờ
có hiện tượng xung đột pháp luật làm phong phú thêm các quan hệ luật công
cũng như quan hệ tư pháp quốc tế. Qua đó, các quốc gia có sự thừa nhận hay
không thừa nhận xung đột pháp luật để áp dụng pháp luật phù hợp với thể chế
10 Điều 670. Trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài
1. Pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam;
b) Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy
định của pháp luật tố tụng.
2. Trường hợp pháp luật nước ngoài không được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì pháp luật Việt
Nam được áp dụng.

15


chính trị và nền kinh tế của quốc gia đó. Trong quá trình hội nhập, sự hợp tác giả
quyết để dung hòa giữa các quốc gia là rất cần thiết để không làm ảnh hưởng
đên quyền và lợi ích hợp pháp của công dân các bên vừa tăng thêm sự hữu nghị
hợp tác, không vì sự xung đột pháp luật giải quyết không thỏa đáng mà ảnh
hưởng đến mối quan hệ của các nước.


16


DANH MỤC THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự 2015.
2. Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung 2009.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, 2017.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb.
CAND, Hà Nội, 1999.
5. Nguyễn Hồng Bắc, Hướng dẫn học và ôn tập môn Tư pháp quốc tế, Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, 2014.

17


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU......................................................................................................1
I. Những vấn đề chung về xung đột pháp luật....................................................2
1. Khái niệm.....................................................................................................2
2. Phạm vi có xung đột pháp luật.....................................................................2
II. Xung đột pháp luật là một hiện tượng pháp lý phức tạp và độc đáo..............3
1. Tính phức tạp của hiện tượng xung đột pháp luật.......................................3
1.1

Tính phức tạp trong cách thức giải quyết xung đột pháp luật...............3

1.2


Tính phức tạp trong áp dụng pháp luật nước ngoài của xung đột pháp

luật. ...............................................................................................................4
1.3

Tính phức tạp được thể hiện trong các vấn đề pháp lý phát sinh khi áp

dụng pháp luật nước ngoài hay nói cách khác chính là hiệu lực của quy
phạm xung đột.................................................................................................5
2. Tính độc đáo của hiện tượng xung đột pháp luật.........................................9
2.1

Xung đột pháp luật là đặc thù của tư pháp quốc tế................................9

2.2

Quy phạm xung đột – quy phạm đặc thù trong tư pháp quốc tế..........11

2.3

Tính độc đáo trong phương pháp giải quyết xung đột pháp luật.........12

2.4

Những vấn đề về hiệu lực của quy phạm xung đột.............................14

KẾT LUẬN.........................................................................................................16
DANH MỤC THAM KHẢO..............................................................................17

18




×