Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

TÁC ĐỘNG TIỀM NĂNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – EU ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 86 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
--------***--------

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại

TÁC ĐỘNG TIỀM NĂNG CỦA HIỆP ĐỊNH

THƢƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – EU ĐỐI VỚI
NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM


Họ và tên sinh viên

: Trần Thị Bích Phƣơng

Mã sinh viên

: 1111110286

Lớp

: Anh 17 - Khối 5 Kinh tế

Khoá

: 50

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : ThS. Đỗ Ngọc Kiên

Hà Nội, tháng 5 năm 2015


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU DỆT MAY .......3
1.1. Một số lý thuyết về tác động của tự do hoá thƣơng mại đối với xuất

UU
FFTT
SSuu

aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

khẩu dệt may .........................................................................................................3
1.1.1. Lý thuyết về lợi thế so sánh...................................................................3
1.1.2. Lý thuyết về sự ưu đãi của các yếu tố ...................................................6
1.1.3. Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia ...............................................9
1.1.4. Mô hình cân bằng bộ phận ..................................................................13

1.2. Thực tiễn tác động của một số hiệp định thƣơng mại tự do đối với xuất
khẩu dệt may .......................................................................................................16
1.2.1. Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản ..................................17
1.2.2. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc ...................................20

CHƢƠNG 2: TÁC ĐỘNG TIỀM NĂNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI
TỰ DO VIỆT NAM – EU ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM ..............................................................................................................24

2.1. Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam và các nhân tố tác động tới
xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trƣờng EU ....................................24
2.1.1. Thực trạng của ngành dệt may Việt Nam ...........................................24
2.1.2. Các nhân tố tác động tới xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị
trường EU .......................................................................................................29

2.2. Tác động tiềm năng của Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam – EU
đối với ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam ..............................................35
2.2.1. Khái quát về Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU .................35
2.2.2. Tác động tổng thể của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đối
với nền kinh tế Việt Nam ...............................................................................38
2.2.3. Tác động tiềm năng của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
đối với ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam ............................................42
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU DỆT
MAY CỦA VIỆT NAM SAU KHI HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO VIỆT
NAM – EU CÓ HIỆU LỰC ....................................................................................56


3.1. Cơ hội và thách thức đối với ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam
sau khi Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam – EU có hiệu lực ...................56
3.1.1. Cơ hội ..................................................................................................56
3.1.2. Thách thức ...........................................................................................58
3.2. Mục tiêu và định hƣớng phát triển ngành dệt may xuất khẩu của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay............................................................................61

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC

HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

3.2.1. Mục tiêu phát triển ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay .................................................................................................61
3.2.2. Định hướng phát triển ngành dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay ..........................................................................................64

3.3. Một số kiến nghị để đẩy mạnh xuất khẩu dệt may của Việt Nam sau
khi Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam – EU có hiệu lực..........................66
3.3.1. Đẩy mạnh sản xuất nguyên liệu dệt may để đáp ứng quy tắc xuất xứ
của EU ............................................................................................................66
3.3.2. Phát triển cả chất và lượng cho nhân lực ngành dệt may để nâng cao
năng lực sản xuất ............................................................................................67
3.3.3. Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và đổi mới công nghệ trong sản xuất
dệt may để nâng cao năng suất lao động ........................................................68
3.3.4. Thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là cho ngành dệt, hoạt động đào
tạo nhân lực và đổi mới công nghệ ................................................................70
3.3.5. Đẩy mạnh xây dựng thương hiệu, nghiên cứu nhu cầu và hoạt động

xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường tại EU ........................................70
3.3.6. Khuyến khích sử dụng công nghệ sạch trong sản xuất và xử lý chất
thải dệt may để đảm bảo sự phát triển bền vững............................................71
3.3.7. Hình thành các cụm công nghiệp và tổ hợp tác dọc chuỗi cung ứng đề
gắn kết các doanh nghiệp trong ngành và nâng cao hiệu quả sản xuất ..........72
3.3.8. Khuyến khích các doanh nghiệp dệt may chuyển dần từ gia công sang
các phương thức xuất khẩu có giá trị gia tăng cao hơn ..................................73

KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
AKFTA

ASEAN

EVFTA

FDI
FTA
GDP
GSP

Tiếng Việt

ASEAN – Korea Free Trade

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN –


Area

Hàn quốc

Association of Southeast

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam

Asian Nations

Á

European Union

Liên minh châu Âu

EU – Vietnam Free Trade

Hiệp định thương mại tự do Việt

Agreement

Nam – EU

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Free Trade Agreement


Hiệp định thương mại tự do

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

Generalized System of

Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo


EU

Tiếng Anh

Preferences

HS
MFN
R&D
RCA

Harmonized System

Hệ thống hài hoà

Most Favoured Nation

Nguyên tắc tối huệ quốc

Research and Development

Nghiên cứu và phát triển

Revealed Comparative

Lợi thế so sánh biểu hiện

Advantage

SPS


TBT

Sanitary and Phytosanitary

Các biện pháp kiểm dịch động,

Measures

thực vật

Technical Barriers to Trade

Hàng rào kỹ thuật đối với thương
mại

VJEPA

WTO

Vietnam – Japan Economic

Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam

Partnership Agreement

- Nhật Bản

World Trade Organization


Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số bảng

Tên

Trang

1.1

Kim ngạch nhập khẩu dệt may từ Việt Nam của Nhật Bản

18

giai đoạn 1996 - 2005
1.2

Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Nhật

20

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU

FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Bản giai đoạn 2011 - 2014

1.3

Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng dệt may của Việt

22

Nam sang Hàn Quốc giai đoạn 2003 – 2006

1.4

Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hàn

23

Quốc giai đoạn 2011 – 2014


2.1

Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam giai đoạn

25

2013 – 2014

2.2

Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam theo mã HS

27

năm 2012

2.3

Hệ số RCA của sản phẩm dệt may Việt Nam theo mã HS

28

năm 2012

2.4

Kim ngạch nhập khẩu dệt may của Việt Nam giai đoạn

29


2013 - 2014

2.5

Kim ngạch xuất khẩu dự kiến của Việt Nam sang EU trong

39

trường hợp không có và có EVFTA

2.6

Tác động dự kiến của EVFTA đối với kim ngạch xuất

44

khẩu dệt may sang EU của Việt Nam

2.7

Kim ngạch nhập khẩu dệt may từ một số nước của EU

45

năm 2014

2.8

Kim ngạch xuất khẩu dệt may dự kiến của Việt Nam sang


46

EU theo ba kịch bản của MUTRAP

3.1

Các mục tiêu cụ thể của ngành dệt may Việt Nam đến năm
2030

63


DANH MỤC HÌNH VẼ
Số hình

Tên

Trang

Mô hình so sánh chi phí lao động tương đối

5

1.2

Mô hình thương mại so sánh tỷ lệ các yếu tố sản xuất

8

1.3


Mô hình lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter

10

1.4

Mô hình cân bằng bộ phận đối với nước nhỏ

14

1.5

Mô hình cân bằng bộ phận đối với nước lớn

15

2.1

Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam giai đoạn

25

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU

FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

1.1

2005 - 2013

2.2

Cơ cấu xuất khẩu dệt may của Việt Nam theo thị trường
năm 2013 và 2014

26


1

LỜI MỞ ĐẦU
Dệt may vốn là một trong những ngành công nghiệp thế mạnh của Việt Nam,
là ngành tiên phong trong chiến lược xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam ra thị
trường thế giới, thu về cho nước ta một lượng ngoại tệ không nhỏ. Với tốc độ tăng

trưởng nhanh và kim ngạch xuất khẩu khá cao trong nhiều năm liền, ngành dệt may

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm tới nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới,
trở thành đối tác quen thuộc của nhiều nền kinh tế phát triển, điển hình là Mỹ, Liên
minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc,… Đặc biệt, so với các thị trường xuất
khẩu khác thì EU được coi là thị trường rộng lớn, có tiềm năng mở rộng và phát
triển hơn cả.

Tuy nhiên, hiện nay, tỷ trọng hàng dệt may mà EU nhập khẩu từ Việt Nam so
với tổng giá trị nhập khẩu dệt may của khu vực này còn rất thấp, chưa tương xứng
với tiềm năng phát triển của ngành cũng như mối quan hệ thương mại giữa hai bên.

Bên cạnh đó, nếu phân tích sâu hơn thì ngành dệt may của nước ta vẫn tồn tại một
số yếu tố bất lợi cho sự phát triển bền vững, đặc biệt là các ngành công nghiệp phụ
trợ phát triển chưa tương xứng cũng như các hàng rào thuế quan và phi thuế quan
còn nhiều bất cập. Trước bối cảnh đó, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU
(EVFTA) được kỳ vọng sẽ mở ra một cánh cửa mới cho ngành dệt may xuất khẩu
của Việt Nam và góp phần cải thiện kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong thời
gian tới.

Vì vậy, việc nghiên cứu, dự báo và đánh giá các tác động tiềm năng của Hiệp
định thương mại tự do này tới ngành công nghiệp dệt may sẽ góp phần tạo tiền đề
cho Nhà nước và doanh nghiệp có hướng phát triển hiệu quả và nhanh chóng đạt
được những mục tiêu ngắn hạn và dài hạn về thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cán
cân thương mại. Vì lý do trên, em lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Tác động tiềm năng
của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đối với ngành dệt may xuất khẩu
của Việt Nam” cho bài khoá luận tốt nghiệp với mục tiêu đánh giá các tác động của
Hiệp định lên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cũng như phân tích rõ hơn các cơ
hội và thách thức đối với ngành hàng này trong bối cảnh Hiệp định được đàm phán
thành công và đi vào thực hiện và đề xuất một số kiến nghị để các doanh nghiệp


2
trong ngành thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm dệt may sang thị trường
EU đầy hứa hẹn.
Khoá luận sẽ phân tích những nội dung dự kiến của Hiệp định thương mại tự
do Việt Nam – EU có ảnh hưởng tới ngành dệt may nước ta, từ đó cụ thể hoá các
tác động tiềm năng của Hiệp định và chứng minh vai trò thúc đẩy sản xuất và xuất

UU
FFTT
SSuu

aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường châu Âu của Hiệp định thương
mại tự do Việt Nam – EU.

Để thực hiện khoá luận, một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử
dụng kết hợp với nhau như mô tả, so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp,
thống kê…

Khoá luận được kết cấu làm ba chương:

 Chương 1 trình bày một số cơ sở lý thuyết và thực tiễn về tác động của hiệp
định thương mại tự do đối với xuất khẩu dệt may;

 Chương 2 phân tích thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu dệt
may của Việt Nam sang thị trường EU, đồng thời đánh giá những tác động tiềm

năng của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đối với ngành dệt may xuất
khẩu của Việt Nam;

 Chương 3 làm rõ những cơ hội, thách thức đối với ngành dệt may xuất khẩu
nước ta khi Việt Nam ký kết hiệp định thương mại tự do với EU và đề xuất một số
kiến nghị để tận dụng lợi ích của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU đối
với xuất khẩu dệt may.

Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới ThS. Đỗ Ngọc Kiên, giảng viên Khoa
Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành
khoá luận này.


3

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC
ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI TỰ DO ĐỐI VỚI
XUẤT KHẨU DỆT MAY
1.1. Một số lý thuyết về tác động của tự do hoá thƣơng mại đối với xuất khẩu
dệt may

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu

aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Tự do hoá thương mại là xu thế chủ đạo trong thương mại quốc tế, là quá trình
các quốc gia cắt giảm và tiến tới xoá bỏ các rào cản thương mại, bao gồm quá trình
cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan, xoá bỏ sự phân biệt đối xử, tạo lập sự
cạnh tranh bình đẳng nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho thương mại phát triển
(Bùi Thị Lý và cộng sự, 2009, trang 42).

Để giải thích lợi ích của thương mại quốc tế cũng như tác động của tự do hoá
thương mại đã có rất nhiều lý thuyết, mô hình ra đời, trong đó lý thuyết về lợi thế so
sánh, lý thuyết về sự ưu đãi của các yếu tố, lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia
và mô hình cân bằng bộ phận là bốn lý thuyết thương mại tương đối nổi bật. Trong
khuôn khổ của khoá luận này, các lý thuyết này sẽ được phân tích trong bối cảnh
gắn với xuất khẩu sản phẩm dệt may để làm nổi bật tác động của thương mại tự do
đối với hoạt động xuất khẩu dệt may.
1.1.1.

Lý thuyết về lợi thế so sánh

Khi một nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về sản xuất một loại hàng
hoá thì lợi tích từ việc tự do hoá thương mại rõ ràng. Tuy nhiên, hiện nay các nước
phát triển thường sản xuất hiệu quả hơn các nước đang phát triển trong hầu hết các

mặt hàng nhưng thương mại quốc tế vẫn diễn ra ngày càng mạnh mẽ giữa hai nhóm
nước này. Theo David Ricardo, thực tế này xuất phát từ lý thuyết về lợi thế so sánh
mà theo đó, tất cả các quốc gia đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế.
Học thuyết của nhà kinh tế chính trị người Anh, David Ricardo, ra đời trong
thời kỳ tư bản chủ nghĩa, sau khi cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành. Chính
sự phát triển cao độ của chủ nghĩa tư bản và phân công lao động đã tạo tiền đề cho
David Ricardo đưa ra những tư tưởng kinh tế tiến bộ và mang tính thời đại.
Trong tác phẩm “Những nguyên lý của kinh tế chính trị học và thuế khoá”,
nhà kinh tế Ricardo (1817) đã phát biểu nội dung của lý thuyết về lợi thế so sánh


4
như sau: Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng có giá cả thấp hơn một cách
tương đối so với quốc gia kia. Nói cách khác, một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt
hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả cao hơn một cách tương đối so
với quốc gia kia.
Cụ thể, quốc gia A sẽ sản xuất và xuất khẩu mặt hàng X và nhập khẩu mặt

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

hàng Y khi:

Mặc dù giả định về tự do hoá thương mại hoàn toàn của mô hình là rất khó
thực hiện và mô hình còn mang tính giản đơn nhưng lý thuyết về lợi thế so sánh ra
đời đã góp phần giải thích cho thương mại quốc tế trong trường hợp mà một số
nước có lợi thế tuyệt đối về hầu hết các mặt hàng trong khi một số khác lại hầu như
không chiếm được lợi thế tuyệt đối trong bất cứ ngành hàng nào. Lý thuyết đã kêu
gọi tự do hoá thương mại, xoá bỏ chính sách bảo hộ mậu dịch trong bối cảnh hội
nhập ngày nay.

Trong lĩnh vực dệt may, một số nước đang phát triển như Việt Nam, Trung
Quốc, Thái Lan có lợi thế so sánh vượt trội so với các quốc gia phát triển như Mỹ,
EU, Nhật Bản,… bởi các nước này sở hữu nguồn lao động dồi dào với giá nhân
công rẻ nên chi phí lao động để sản xuất ra các sản phẩm dệt may nói chung thấp
hơn một cách tương đối so với các nước phát triển ở trình độ cao. Có thể thấy hiện
nay, Việt Nam, Trung Quốc,… xuất khẩu một lượng lớn hàng dệt may đủ các loại
sang thị trường Mỹ và các nước châu Âu phát triển để đổi lại các sản phẩm có hàm
lượng vốn và công nghệ cao từ các nước này.

Nguồn gốc của lợi thế so sánh có thể đến từ lợi thế về tự nhiên, tài nguyên, khí
hậu, địa hình, cũng có thể đến từ kỹ thuật, nguồn lao động lành nghề,… Trong sản
xuất dệt may thì địa hình, khí hậu thích hợp cho việc trồng bông, sản xuất vải và
nguồn lao động dồi dào được xem là những nhân tố chính mang lại lợi ích so sánh

cho một quốc gia. Đồng thời, đối với các quốc gia có truyền thống và tên tuổi trong
ngành hàng dệt may thì vấn đề năng suất lao động thường khá khả quan do lao động
có kinh nghiệm và tay nghề, do đó chi phí lao động càng được hạ thấp hơn.


5
Như vậy, theo lý thuyết về lợi thế so sánh, một quốc gia sẽ sản xuất và xuất
khẩu các sản phẩm dệt may nếu:

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Hình 1.1: Mô hình so sánh chi phí lao động tƣơng đối


Hàng hoá
khác

Nước B

Nước A

O

Dệt may

Nguồn: Tác giả tự xây dựng

Trong mô hình trên, nước A có chi phí lao động để sản xuất dệt may thấp hơn
một cách tương đối so với nước B nên nước A nên chuyên môn hoá sản xuất dệt
may để xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá khác.
Hiện nay, khái niệm “lợi thế so sánh biểu hiện” (Revealed Comparative
Advantage – RCA) của Bela Balassa được dùng để đo lường mức độ lợi thế so sánh
của sản phẩm này với sản phẩm khác và của nước này với nước khác. Theo Balassa


6
(1965), hệ số RCA đối với hàng dệt may của quốc gia V được xác định theo công
thức:
RCA = (ETV/EV) : (ETW/EW)
Trong đó: ETV là kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước V;
EV là tổng kim ngạch xuất khẩu của nước V;

UU
FFTT

SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

ETW là kim ngạch xuất khẩu dệt may của thế giới;
EW là tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới.

 RCA ≥ 2,5 cho thấy ngành dệt may có lợi thế so sánh rất cao;
 1 < RCA < 2,5 cho thấy ngành dệt may có lợi thế so sánh;
 RCA ≤ 1 cho thấy ngành dệt may không có lợi thế so sánh.
Dựa trên cơ sở dữ liệu của Trung tâm thương mại quốc tế (2015b) về kim
ngạch xuất khẩu dệt may và tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và thế giới có
thể tính được RCA của các sản phẩm dệt may theo công thức trên, theo đó RCA của
sản phẩm dệt may Việt Nam phân theo Hệ thống hài hoà (HS) với mã HS 61, 62 và
63 năm 2012 lần lượt là: 4,91; 6,07 và 2,51. Có thể thấy, dệt may Việt Nam có lợi
thế so sánh rất cao và có tiềm năng xuất khẩu lớn.
1.1.2.


Lý thuyết về sự ưu đãi của các yếu tố

Trong lý thuyết về lợi thế so sánh, David Ricardo chỉ xem xét tới lao động là
đầu vào sản xuất nhưng trên thực tế, để sản xuất ra một sản phẩm dệt may cũng như
bất cứ mặt hàng nào phải sử dụng một tập hợp của các yếu tố: vốn, công nghệ, lao
động,… Tuy nhiên giá cả, mức độ sẵn có của chúng ở mỗi quốc gia là không giống
nhau. Trên cơ sở đó, lý thuyết về sự ưu đãi của các yếu tố của hai nhà kinh tế
Heckscher và Ohlin đã ra đời đã giải thích về sự ảnh hưởng của các nhân tố sản xuất
đến thương mại.

Lý thuyết của hai thầy trò nhà kinh tế học Thuỵ Điển, Eli Filip Heckscher và
Bertil Ohlin, ra đời vào đầu thế kỷ XX và là một trong những học thuyết kinh tế tân
cổ điển nổi bật nhất. Lý thuyết là thành quả do Ohlin xây dựng dựa trên các công
trình của Heckscher và được công bố lần đầu trong cuốn sách “Thương mại quốc tế
và thương mại giữa các vùng” (1933) của ông. Vì thế lý thuyết còn được gọi là
Định lý H – O với nội dung: Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà việc


7
sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào của quốc
gia đó.
Mặc dù lý thuyết về sự ưu đãi của các yếu tố đã bổ sung cho lý thuyết về lợi
thế so sánh của David Ricardo: Thương mại không chỉ do sự khác nhau về năng
suất lao động giữa các quốc gia quyết định mà chính sự khác nhau về tỷ lệ các yếu

UU
FFTT
SSuu
aann

i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

tố sản xuất được sử dụng là nguồn gốc của lợi thế so sánh giữa các quốc gia; tuy
nhiên, học thuyết còn tồn tại một số hạn chế do các giả định của học thuyết rất khó
thực hiện như:

 Chưa tính đến sự khác biệt về công nghệ giữa các quốc gia;
 Hiệu suất có thể thay đổi theo quy mô;

 Rất khó tạo ra một thị trường cạnh tranh hoàn hảo đối với cả hàng hoá và
các yếu tố sản xuất;

 Một khi có thương mại tự do thì các yếu tố sản xuất dễ dàng di chuyển từ
quốc gia này sang quốc gia khác;

 Sở thích của từng nước đối với từng mặt hàng là không giống nhau;
 Chưa tính đến chi phí vận chuyển và các rào cản thương mại khác.

Đối với ngành dệt may, theo Định lý H – O, một quốc gia sẽ xuất khẩu dệt
may nếu việc sản xuất dệt may sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất
dồi dào của quốc gia đó.

Vậy để sản xuất dệt may, các yếu tố sản xuất chính bao gồm nguyên vật liệu
như bông, xơ, sợi, vải,…; lao động; máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng; công
nghệ;… Để đơn giản hoá, ta quy các đầu vào trên thành hai yếu tố chính là lao động
và vốn tư bản. So với các ngành công nghiệp khác, sản xuất dệt may sử dụng nhiều
một cách tương đối lao động so với vốn tư bản, hay nói cách khác dệt may là ngành
sản xuất thâm dụng lao động. Do vậy, những quốc gia nào dồi dào một cách tương
đối về số lượng lao động, chi phí nhân công rẻ sẽ có lợi thế trong sản xuất và xuất
khẩu dệt may. Xét về điểm này, rõ ràng các quốc gia đang phát triển như Việt Nam,
Trung Quốc, Thái Lan,… là có ưu thế vượt trội hẳn so với các nước phát triển. Vì
thế có thể nói dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các quốc
gia như Việt Nam hay Trung Quốc.


8
Để cụ thể hoá, ta xem xét mô hình thương mại chuẩn với hai nền kinh tế là
Việt Nam và EU, với hai mặt hàng là vải và thép, trong đó vải là mặt hàng đại diện
cho ngành dệt may với đặc tính thâm dụng lao động còn thép là mặt hàng đại diện
cho những ngành sản xuất thâm dụng vốn.
Hình 1.2: Mô hình thƣơng mại so sánh tỷ lệ các yếu tố sản xuất

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Vải

V1

V0

CV

CE

K

I1

I2

I0


E0

E1

L

O

Thép

Nguồn: Bùi Xuân Lưu và Nguyễn Hữu Khải, 2006

Khi không có thương mại: Việt Nam sản xuất và tiêu dùng tại V0, EU sản xuất
và tiêu dùng tại E0. Hai điểm này nằm trên đường bàng quang I0 tiếp xúc với hai
đường giới hạn khả năng sản xuất của Việt Nam và EU. Ta thấy tiếp tuyến đi qua
V0 dốc hơn tiếp tuyến đi qua E0 cho thấy giá của vải ở Việt Nam rẻ một cách tương
đối so với ở châu Âu và giá thép ở châu Âu rẻ một cách tương đối so với ở Việt
Nam (nguyên nhân là do Việt Nam dồi dào một cách tương đối về lao động còn EU
dồi dào một cách tương đối về vốn). Do đó, Việt Nam có lợi thế sản xuất vải trong
khi EU có lợi thế sản xuất thép.


9
Khi có thương mại tự do: Việt Nam sẽ chuyên môn hoá sản xuất vải còn EU
chuyên môn hoá sản xuất thép. Giá vải sẽ tăng ở Việt Nam, giảm ở châu Âu còn giá
thép sẽ tăng ở châu Âu và giảm ở Việt Nam. Quá trình này diễn ra cho tới khi Việt
Nam sản xuất tại điểm V1 và EU sản xuất tại điểm E1, tại đó mức giá tương quan
giữa hai mặt hàng là như nhau ở Việt Nam và châu Âu (hai đường tiếp tuyến mới


UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

song song). Lúc này, Việt Nam tiêu dùng tại mức CV còn EU tiêu dùng tại mức CE.
Hai điểm CV và CE đều nằm trên các đường bàng quang cao hơn, chứng tỏ cả Việt
Nam và EU đều hưởng lợi từ thương mại.

Vậy, Việt Nam sẽ xuất khẩu KV1 vải để đổi lấy KCV thép, còn EU sẽ xuất
khẩu LE1 thép để đổi lấy LCE vải với KV1 = LCE và KCV = LE1.

Mở rộng mô hình không chỉ với mặt hàng vải và thép mà bao gồm tất cả các
sản phẩm dệt may của các nước đang phát triển và các sản phẩm có hàm lượng vốn
và công nghệ cao của Mỹ và các nước châu Âu phát triển ta có thể thấy một số nước
đang phát triển sẽ có lợi thế trong xuất khẩu sản phẩm dệt may sang các quốc gia

phát triển nếu như các nước đó dồi dào về lao động và các nguyên liệu sử dụng
trong sản xuất dệt may.

Như vậy, cùng với các lý thuyết thương mại cổ điển khác, lý thuyết về sự ưu
đãi của các yếu tố đã góp phần quan trọng trong việc giải thích một xu thế trong
thương mại quốc tế nói chung và trong lĩnh vực xuất khẩu dệt may nói riêng.
1.1.3.

Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia

Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia do Michael Porter đưa ra vào những
năm 1990 để giải thích tại sao một quốc gia lại có vị trí dẫn đầu trong sản xuất một
số sản phẩm. Nếu như hai lý thuyết trên là các lý thuyết cổ điển thì đây là một trong
những lý thuyết mới về thương mại mang đến cái nhìn mới mẻ và toàn diện hơn về
thương mại quốc tế.

Lý thuyết này lập luận rằng lợi thế cạnh tranh của một quốc gia trong sản xuất
một mặt hàng thể hiện ở sự liên kết của bốn nhóm yếu tố: (1) điều kiện các yếu tố
sản xuất, (2) điều kiện về cầu, (3) các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan, (4)
chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành. Ngoài ra, Chính phủ và cơ hội
sẽ tác động đến các nhóm yếu tố cơ bản kể trên và gián tiếp tác động tới năng lực
cạnh tranh của quốc gia.


10
Hình 1.3: Mô hình lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter
Chính phủ

Chiến lược, cơ cấu và
mức độ cạnh tranh ngành


UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Điều kiện các yếu tố sản

Điều kiện về cầu

xuất

Các ngành hỗ trợ và có

Cơ hội


liên quan

Nguồn: Porter, 1990

Theo lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của một
nước trong lĩnh vực dệt may phụ thuộc vào bốn nhóm yếu tố và sự tác động từ phía
Chính phủ và các cơ hội ngẫu nhiên:

 Về điều kiện các yếu tố sản xuất: Các quốc gia có lợi hơn khi sản xuất và
xuất khẩu các sản phẩm sử dụng nhiều yếu tố đầu vào mà quốc gia đó sẵn có; các
doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh nếu họ sử dụng các nhân tố đầu vào có chi phí
thấp, chất lượng cao. Tuy nhiên, việc duy trì lợi thế này lại khác nhau đối với từng
loại đầu vào. Trong lĩnh vực dệt may, các nhân tố đầu vào của sản xuất cũng bao
gồm nhiều nhóm với thuộc tính khác nhau:

- Nhóm đầu vào cơ bản gồm bông xơ, sợi, vải, vị trí địa lý, vốn hay lao

động giản đơn. Hiện nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, tầm quan trọng
của những đầu vào này đang giảm dần, chúng không còn là yếu tố quyết định nhiều
nhất tới lợi thế cạnh tranh của ngành hay quốc gia.
- Nhóm đầu vào cao cấp gồm công nghệ, tính độc đáo của sản phẩm, lao
động có trình độ, tay nghề cao… đang ngày càng thay đổi năng lực cạnh tranh của


11
tất cả các ngành công nghiệp, bao gồm cả ngành dệt may. Sự phát triển của máy
móc làm tăng năng suất lao động và giảm dần sức lao động giản đơn, đồng thời làm
tăng tính thẩm mỹ của sản phẩm may mặc.
Ngoài ra, các đầu vào cũng có thể chia thành đầu vào chung như hệ thống
điện, giao thông, lao động phổ thông,… và đầu vào chuyên ngành dệt may như dây


UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

chuyền dệt vải, các trang thiết bị cắt, may, là,… Sự phân chia này chỉ mang tính
chất tương đối, nó sẽ thay đổi theo thời gian và khác biệt giữa các nước, các khu
vực nhưng nhìn chung việc sở hữu các đầu vào chuyên ngành và mang tính nhân
tạo thường tạo ra lợi thế cạnh tranh cao hơn vì chúng trực tiếp tạo ra giá trị của sản
phẩm dệt may.

Như vậy, việc chủ động về nguồn cung bông, sợi, vải, đầu tư đào tạo lao động
và phát triển công nghệ, dây chuyền sản xuất sẽ mang lại lợi thế cho một quốc gia
trong việc đẩy mạnh sự phát triển của ngành dệt may.



Về điều kiện về cầu: Nhu cầu trong nước quyết định mức độ đầu tư, tốc độ

và động cơ đổi mới của ngành. Sản phẩm dệt may là mặt hàng thiết yếu, vì thế các
quốc gia đông dân và có dân số tăng nhanh thường là những nước có nhu cầu lớn
nhất đối với hàng dệt may, từ đó có năng lực cạnh tranh cao hơn quốc gia khác. Tuy
nhiên, yếu tố quyết định quan trọng hơn tới năng lực cạnh tranh của ngành dệt may
tại một nước là khả năng lan truyền nhu cầu ra thị trường thế giới, tức là các sản
phẩm dệt may do nước đó sản xuất ra không chỉ đáp ứng được thị hiếu của người
dân trong nước mà còn thu hút sức mua của người dân nước khác. Là một nước
đông dân, lại được mệnh danh là “công xưởng của thế giới”, Trung Quốc đang có
thế mạnh rất lớn về nhu cầu đối với hàng dệt may, là đối thủ của không chỉ các
nước đang phát triển mà còn có sức cạnh tranh với cả các quốc gia phát triển trong
phân khúc sản phẩm có giá trị cao.

 Về các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan: Đối với dệt may thì
ngành công nghiệp sản xuất bông xơ, sợi, các ngành cung ứng máy móc, thiết bị dệt
may và chuỗi dịch vụ phân phối, tiếp thị, quảng cáo là những ngành công nghiệp hỗ
trợ trực tiếp và có quan hệ mật thiết trong việc thúc đẩy sản xuất dệt may và đưa sản
phẩm đến với người tiêu dùng. Rõ ràng, tự sản xuất được bông, sợi sẽ giảm chi phí
sản xuất và tạo ra nguồn cung đều đặn, thường xuyên, ít biến động cho sản xuất


12
quần áo và các sản phẩm dệt may khác. Vì vậy, việc quan tâm thúc đẩy các ngành
hỗ trợ và liên quan sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho một nước trong sản xuất và xuất
khẩu dệt may.
 Về chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành: Mục tiêu, chiến
lược phát triển, cơ cấu tổ chức tạo ra lợi thế riêng cho từng doanh nghiệp. Môi


UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

trường cạnh tranh trong nước cũng thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ,
sáng tạo sản phẩm mới và đẩy mạnh xuất khẩu, từ đó góp phần đẩy nhanh sự phát
triển của ngành cả về quy mô và chất lượng sản phẩm. Tại Việt Nam, Trung Quốc,
Thái Lan,… có khá nhiều doanh nghiệp sản xuất dệt may và đa phần các doanh
nghiệp bên cạnh phục vụ tiêu dùng trong nước còn đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ,
EU, Nhật Bản,… Điều này tạo ra một môi trường cạnh tranh đòi hỏi các doanh
nghiệp phải có chiến lược phát triển rõ ràng, tạo ra được những lợi thế riêng để
đứng vững và phát triển.

 Về vai trò của Chính phủ: Chính phủ là người tạo ra môi trường pháp lý,
định hướng, điều tiết, kiểm tra, giám sát các chủ thể trong nền kinh tế. Chính sách

của hầu hết các nước hiện nay là tự do hoá, đẩy mạnh xuất khẩu. Đối với các quốc
gia mà dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực như Việt Nam,
Trung Quốc,… việc Chính phủ khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện hỗ trợ doanh
nghiệp dệt may trong nước sản xuất và xuất khẩu dưới các hình thức trợ cấp tín
dụng, hỗ trợ pháp lý,… đã làm cho ngành dệt may có cơ hội nâng cao năng lực cạnh
tranh, vươn ra thị trường khu vực và thế giới.

 Về vai trò của cơ hội: Cơ hội là những sự kiện xảy ra ngẫu nhiên và bất ngờ
như: sự thay đổi đột ngột về công nghệ, sự thay đổi giá cả các yếu tố đầu vào, sự
biến động của tỷ giá hối đoái,… ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh hội nhập và tự do hoá ngày
càng mạnh mẽ như hiện nay. Ví dụ, giá vải nhập khẩu từ một số nước giảm mạnh
có thể hạ thấp chi phí sản xuất cho các doanh nghiệp dệt may tiếp cận được nguồn
cung này, từ đó làm tăng năng lực cạnh tranh.
Tất cả các yếu tố phân tích ở trên tác động qua lại lẫn nhau và cũng tác động
tới năng lực cạnh tranh quốc gia nhưng sự tác động này là tiêu cực hay tích cực sẽ
khác nhau ở từng nước. Nhìn chung, tự do hoá thương mại, xoá bỏ hàng rào thuế


13
quan và giảm dần các hàng rào phi thuế sẽ có hiệu ứng tích cực tới cả bốn yếu tố và
qua đó, nâng cao lợi thế cạnh tranh của dệt may trên trường quốc tế.
So với các mô hình cổ điển thì mô hình này xét tới nhiều khía cạnh hơn, toàn
diện hơn, qua đó cho phép đánh giá năng lực cạnh tranh chính xác hơn và toàn diện
hơn, đưa đến những nhận định khách quan và hợp lý hơn.

UU
FFTT
SSuu
aann

i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Tuy nhiên, các yếu tố tác động tới lợi thế cạnh tranh quốc gia đã phân tích ở
trên đều có tác động qua lại phức tạp và khó định lượng cụ thể nên khó đánh giá
một cách chi tiết. Chúng ta không thể xác định được cụ thể việc sẵn có đầu vào cho
sản xuất sẽ làm tăng lợi thế cạnh tranh lên bao nhiêu hay sự tăng sản lượng bông,
sợi mà nước ta tự sản xuất được sẽ đóng góp bao nhiêu vào việc nâng cao năng lực
ngành dệt may nếu chỉ dựa vào lý thuyết này.
1.1.4.

Mô hình cân bằng bộ phận

Một trong những nội dung quan trọng của các hiệp định thương mại tự do là
việc cắt bỏ hoàn toàn thuế quan nhập khẩu và những tác động của nó được đánh giá
thông qua mô hình cân bằng bộ phận. Mô hình này cho thấy việc tăng giảm thuế
quan nhập khẩu có tác động như thế nào tới lượng nhập khẩu, giá hàng nhập khẩu,
thặng dư tiêu dùng, thặng dư sản xuất và phúc lợi xã hội tại nước nhập khẩu. Theo

mô hình cân bằng bộ phận thì việc giảm thuế quan nhập khẩu sẽ làm giảm giá, tăng
lượng nhập khẩu và tăng phúc lợi xã hội nhất là đối với những nền kinh tế nhỏ.
Việt Nam là một nước xuất khẩu dệt may điển hình nhưng lại không chủ động
được toàn bộ nguồn nguyên liệu thô cho sản xuất cũng như phải phụ thuộc khá
nhiều vào các nước phát triển về máy móc, dây chuyền sản xuất và công nghệ. Có
tới hơn 70% nguyên liệu dệt may nước ta phải nhập khẩu từ nước ngoài (Trung tâm
xúc tiến thương mại và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh, 2007). Vì vậy việc tăng
giảm thuế quan nhập khẩu ảnh hưởng không nhỏ tới cả xuất khẩu dệt may cũng như
nhập khẩu nguyên liệu, máy móc thiết bị sản xuất. Đây là tình trạng chung không
chỉ của Việt Nam mà của hầu hết các nước đang phát triển khác có dệt may là một
mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Trước hết là mô hình cân bằng bộ phận đối với nước nhỏ. Vì các nền kinh tế
nhỏ thường là các nước xuất khẩu dệt may nhưng phải nhập khẩu khá nhiều nguyên


14
liệu, thiết bị phục vụ cho sản xuất từ các nước khác nên trong mô hình đối với nước
nhỏ, các sản phẩm được xét đến là đầu vào cho ngành sản xuất dệt may.
Hình 1.4: Mô hình cân bằng bộ phận đối với nƣớc nhỏ
P

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu

aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

SD

PD = PW + t

a

b

c

d

PW

DD

0

Q1


Q2

Q3

Q4

Q

Nguồn: Bùi Xuân Lưu và Nguyễn Hữu Khải, 2006

Trường hợp có thuế quan nhập khẩu t: Giá một đơn vị đầu vào dệt may trên
thế giới là PW, giá trong nước là PD cao hơn giá thế giới một lượng là t, trong nước
tự sản xuất được Q2 đơn vị trong khi nhu cầu trong nước là Q3 đơn vị nên phải nhập
khẩu một lượng là đoạn Q2Q3.

Trường hợp không có thuế quan nhập khẩu: Giá trong nước giảm xuống bằng
với giá thế giới là PW nên nguồn cung trong nước giảm xuống mức Q1 trong khi cầu
thì lại tăng lên đến Q4. Lúc này cần nhập khẩu một lượng là đoạn Q1Q4.
Như vậy, tự do hoá thương mại làm tăng lượng nhập khẩu, mặc dù thặng dư
sản xuất giảm a, nguồn thu từ thuế giảm c, nhưng thặng dư tiêu dùng tăng thêm (a +
b + c + d). Vậy việc cắt giảm thuế quan đã làm tăng phúc lợi xã hội thêm (b + d).
Như vậy, mô hình cân bằng bộ phận đối với nước nhỏ đã giải thích cho việc
cắt giảm thuế quan sẽ tác động tới lượng nguyên liệu, máy móc, trang thiết bị, công


15
nghệ trong ngành dệt may mà nước ta và các nước xuất khẩu dệt may khác phải
nhập khẩu từ các nước khác, qua đó làm tăng phúc lợi xã hội của nước nhập khẩu.
Tiếp đến là mô hình cân bằng bộ phận đối với nước lớn. Các nền kinh tế lớn là
những nước nhập khẩu dệt may chủ yếu từ các nước đang phát triển nên trong mô

hình này, sản phẩm được xét đến là các mặt hàng dệt may.

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Hình 1.5: Mô hình cân bằng bộ phận đối với nƣớc lớn

P

SD

PD = PW + t

P’W


a

b

c

PW

d

e

DD

0

Q1

Q2

Q3

Q4

Q

Nguồn: Bùi Xuân Lưu và Nguyễn Hữu Khải, 2006

Trường hợp có thuế quan nhập khẩu t: Giá một sản phẩm dệt may trên thế giới

là PW, giá trong nước là PW + t cao hơn giá thế giới một lượng là t, trong nước tự
sản xuất được Q2 sản phẩm dệt may trong khi nhu cầu trong nước là Q3 sản phẩm
nên phải nhập khẩu một lượng là đoạn Q2Q3.

Trường hợp không có thuế quan nhập khẩu: Giá trong nước giảm xuống bằng
với giá thế giới là PW làm cho nhu cầu trong nước tăng lên; tuy nhiên đây là nước
lớn nên việc tăng nhu cầu sẽ làm giá thế giới cũng như trong nước tăng lên đến mức
P’W. Khi đó, trong nước tự sản xuất được Q1 sản phẩm còn nhu cầu là Q4 nên phải
nhập khẩu một lượng là Q1Q4.


16
Như vậy, đối với những nền kinh tế lớn, tự do hoá thương mại làm giảm giá
nhập khẩu, qua đó thặng dư sản xuất giảm a, thặng dư tiêu dùng tăng (a + b + c +
d) và nguồn thu từ thuế giảm (c + e). Vậy phúc lợi xã hội tăng (b + d – e). So với
một nền kinh tế nhỏ, thì một nước lớn sẽ hưởng lợi ít hơn từ tự do hoá thương mại.
Mô hình cân bằng bộ phận đối với nền kinh tế lớn đã làm rõ tự do hoá thương

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

mại làm tăng sản lượng xuất khẩu dệt may của một nước sang các nền kinh tế phát
triển trên thế giới.

Bốn lý thuyết, mô hình phân tích trên đây dù xuất phát từ những quan điểm
khác nhau, có cách lập luận khác nhau nhưng đều ủng hộ cho quan điểm: Tự do hoá
thương mại mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia, có vai trò quan trọng trong thúc
đẩy sản xuất dệt may tại Việt Nam và xuất khẩu sang thị trường các nước khác trên
thế giới.

1.2. Thực tiễn tác động của một số hiệp định thƣơng mại tự do đối với xuất
khẩu dệt may

Tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương
hay các khu vực mậu dịch tự do là một hình thức của tự do hoá thương mại. Khái
niệm về khu vực mậu dịch tự do từng được nhắc đến trong “Hiệp định chung về
thuế quan và thương mại” (GATT 1947), theo đó WTO (1947) định nghĩa khu vực
mậu dịch tự do là một nhóm gồm hai hay nhiều lãnh thổ thuế quan mà thuế quan và
các quy tắc hạn chế thương mại được triệt tiêu về cơ bản trong trao đổi thương mại
các sản phẩm có xuất xứ từ các lãnh thổ lập thành khu vực mậu dịch tự do.
Hiện nay, khái niệm về các hiệp định thương mại tự do được mở rộng hơn về
phạm vi và sâu hơn về nội dung cam kết. Ngoài những cam kết cắt giảm thuế quan
và hàng rào phi thuế quan, các FTA hiện nay còn bao gồm hàng loạt lĩnh vực mới
như: thương mại dịch vụ, đầu tư, mua sắm chính phủ, cạnh tranh, phát triển bền

vững, sở hữu trí tuệ,…

Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) và các hiệp định
nhằm thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) dưới đây là
những hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là một quốc gia thành viên và cũng
là những hiệp định điển hình có tác động sâu sắc đến sản xuất và xuất khẩu trong
lĩnh vực dệt may.


17
1.2.1.

Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản

Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản bao gồm các cam kết về tự do
hóa thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và khuyến khích thương mại điện tử giữa
Việt Nam và Nhật Bản. Đây là hiệp định tự do hóa thương mại song phương đầu
tiên của Việt Nam và là hiệp định đối tác kinh tế thứ mười của Nhật Bản.

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC

HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Hai nước có ý định thành lập Hiệp định này từ năm 2005 và khởi động các
vòng đàm phán về Hiệp định này từ tháng 1 năm 2007, tức là ngay sau khi Việt
Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sau 9 phiên đàm phán chính
thức và nhiều phiên đàm phán không chính thức, hai bên đã thiết lập được một thỏa
thuận nguyên tắc vào tháng 9 năm 2008 và chính thức ký hiệp định vào ngày 25
tháng 12 năm 2008.

Về mức cam kết chung, trong vòng 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực,
Việt Nam sẽ cắt giảm thuế đối với khoảng 87,66% kim ngạch thương mại và Nhật
Bản sẽ phải đạt mức tự do hoá cao hơn với khoảng 94,53% kim ngạch thương mại.
Vào năm cuối của lộ trình giảm thuế tức là sau 16 năm kể từ ngày thực hiện Hiệp
định, mức tự do hoá của nước ta sẽ đạt đến 92,95% kim ngạch thương mại (Bộ Tài
chính, 2013b). Ngoài thuế quan, hai bên cũng cam kết cụ thể về quy tắc xuất xứ, thủ
tục hải quan, các biện pháp vệ sinh kiểm dịch, tiêu chuẩn kỹ thuật, thương mại dịch
vụ, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh, hợp tác và giải quyết
tranh chấp. Có thể nói nội dung của Hiệp định tương đối toàn diện và có kết cấu
tương tự những FTA thế hệ mới hiện nay.

Đối với lĩnh vực xuất khẩu dệt may, Nhật Bản là một trong những thị trường
nhập khẩu hàng dệt may lớn Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước ta
sang thị trường này chỉ đứng sau Mỹ và Liên minh châu Âu. Vì thế, ký kết Hiệp
định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản, dệt may là một trong những ngành được

hưởng lợi nhiều nhất của Việt Nam.

Trước khi ký kết Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản, Nhật Bản đã
là một bạn hàng tiềm năng của nước ta trong nhiều năm do quy mô sản xuất dệt
may ở Nhật Bản dần thu hẹp và nhu cầu nhập khẩu tăng khá nhanh. Năm 2005, kim
ngạch xuất khẩu dệt may sang thị trường Nhật Bản của nước ta đã đạt tới hơn 700
triệu USD (Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh,


18
2007). Bảng dưới đây sẽ đưa ra những số liệu phản ánh quan hệ thương mại giữa
Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực dệt may trước khi hai bên ký kết VJEPA:
Bảng 1.1: Kim ngạch nhập khẩu dệt may từ Việt Nam của Nhật Bản giai đoạn
1996 - 2005
Năm

Tổng kim ngạch

Tỷ trọng kim

khẩu dệt may từ

nhập khẩu dệt may

ngạch nhập khẩu

Việt Nam của Nhật

của Nhật Bản


dệt may từ Việt

Bản

(triệu USD)

Nam trên tổng kim

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo

Kim ngạch nhập

(triệu USD)


ngạch nhập khẩu

dệt may của Nhật
Bản
(%)

1996

529,1

23.595,0

2,2

1997

598,5

23.078,8

2,6

1998

567,7

21.117,2

2,7


1999

520,9

20.133,5

2,6

2000

640,3

22.273,2

2,9

2001

661,2

24.266,5

2,7

2002

600,1

23.189,3


2,6

2003

592,1

23.812,7

2,5

2004

636,8

24.757,4

2,6

2005

703,8

26.195,4

2,7

Nguồn: Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh, 2007
Mặc dù giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản tương đối cao
trong nhiều năm liền nhưng tỷ trọng nhập khẩu dệt may từ Việt Nam so với tổng

lượng nhập khẩu dệt may của Nhật Bản còn khá khiêm tốn, khoảng 2,7%, trong khi
lượng nhập khẩu dệt may từ Trung Quốc, đối thủ cạnh tranh của Việt Nam, chiếm
tới gần 80% (Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh,
2007). Trước bối cảnh đó, việc Nhật giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế cho
hàng dệt may Việt Nam có ý nghĩa vô cùng lớn đối với sự phát triển của ngành.


19
Hiện nay, Nhật Bản đã loại bỏ thuế với hàng dệt may có xuất xứ Việt Nam
trong khi mức thuế mà Nhật Bản áp dụng với sản phẩm dệt may của các nước là
thành viên WTO nhưng không ký hiệp định đối tác kinh tế với Nhật Bản đa phần
trên 10%, có mặt hàng lên tới 16,8% (Hải quan Nhật Bản, 2015a, 2015b và 2015c).
Bên cạnh cam kết giảm thuế nhập khẩu khá sâu, với tư cách là một FTA thế

UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann
i iCC
HHoo
UU
FFTT
SSuu
aann

i iCC
HHoo

hệ mới, Hiệp định cũng quy định về việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, đơn
giản và minh bạch hoá thủ tục hải quan góp phần tạo điều kiện cho các ngành xuất
khẩu mũi nhọn của Việt Nam trong đó có dệt may có cơ hội tiếp cận thị trường
Nhật Bản dễ dàng hơn.

Tuy nhiên, đi kèm với những lợi ích trên, tự do hoá cũng buộc Việt Nam phải
tuân thủ những quy định ngặt nghèo hơn về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với các sản
phẩm dệt may, đảm bảo tuân thủ luật cạnh tranh cũng như các yêu cầu về quyền sở
hữu trí tuệ. Với một nền kinh tế nhỏ như Việt Nam, đây là thách thức không nhỏ.
Thêm vào đó, thị trường Nhật Bản là một thị trường khá khắt khe, người tiêu dùng
ở đây thường chú ý tới từng đường kim mũi chỉ, sự tinh xảo trong sản phẩm dệt
may và thường đưa ra những yêu cầu khá cao trong sản xuất.

Hiệp định cũng cấm mọi hình thức trợ cấp xuất khẩu, gây khó khăn cho các
doanh nghiệp xuất khẩu dệt may nhỏ, non trẻ, chưa có sức cạnh tranh. Đồng thời,
việc sử dụng các biện pháp tự vệ song phương có thể gây khó khăn cho Việt Nam
khi chưa được công nhận là một nền kinh tế thị trường.

Về vấn đề xuất xứ sản phẩm dệt may, hiện nay nước ta phải nhập khẩu phần
lớn nguyên liệu cho sản xuất, trong khi Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật
Bản có quy định về tỷ lệ nội địa hoá tương đối chặt chẽ, tạo áp lực cho doanh
nghiệp Việt Nam. Rõ ràng, để hưởng lợi từ Hiệp định, Nhà nước và doanh nghiệp
phải nỗ lực hơn nữa trong việc chủ động nguồn nguyên liệu thô cũng như phát triển
các ngành phụ trợ như sản xuất bông, sợi, phân phối sản phẩm,…
Mặc dù phải đối mặt với khá nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập và mở
cửa nền kinh tế, nhưng rõ ràng những cơ hội Việt Nam thu được từ Hiệp định vẫn
rất tiềm năng. Cụ thể là sau khi thực hiện hiệp định đối tác kinh tế với Nhật Bản,

kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị trường này không ngừng tăng
trưởng. Năm 2014, kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước ta sang Nhật Bản đạt


×