Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Vật quyền trong tư pháp La Mã và vật quyền trong pháp luật dân sự Việt Nam nhìn dưới góc độ so sánh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.51 KB, 77 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẬT QUYỀN TRONG TƯ PHÁP
LA MÃ..................................................................................................................6
1. Khái niệm và đặc điểm vật quyền...................................................................6
2. Các nguyên tắc cơ bản của vật quyền...........................................................13
3. Phân loại vật quyền và mối liên hệ giữa các vật quyền................................15
CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH VỀ VẬT QUYỀN TRONG................................19
TƯ PHÁP LA MÃ.............................................................................................19
I. Khái quát chung về tư pháp La Mã..................................................................19
1. Lịch sử hình thành tư pháp La Mã................................................................19
2. Cơ sở luật và nguồn của luật La Mã.............................................................22
II. Vật quyền trong tư pháp La Mã......................................................................24
1. Chiếm hữu.....................................................................................................25
2. Quyền sở hữu................................................................................................29
CHƯƠNG III. ĐỐI CHIẾU QUY ĐỊNH VỀ VẤN ĐỀ VẬT QUYỀN
TRONG PHÁP LUẬT LA MÃ VỚI QUY ĐỊNH VỀ VẬT QUYỀN TRONG
LUẬT DÂN SỰ 2015.........................................................................................36
I. Sự giống nhau của quy định về vấn đề vật quyền trong pháp luật la mã với quy
định về vật quyền trong luật dân sự 2015...........................................................36
II. Sự khác nhau của quy định chung về vật quyền trong pháp luật la mã với quy
định về vật quyền trong luật dân sự 2015...........................................................36
1. Về chế định vật quyền....................................................................................36
2. Chế định vật..................................................................................................38
III. So sánh các quy định về vật quyền cụ thể trong tư pháp La Mã và vật quyền
trong Luật dân sự Việt Nam (bộ luật dân sự 2015).............................................45
1. Quyền chiếm hữu..........................................................................................46
2. Quyền sở hữu................................................................................................50
3. Quyền địa dịch..............................................................................................56
4. Quyền hưởng dụng........................................................................................58
5. Quyền bề mặt................................................................................................61


1


6. Vật quyền bảo đảm.......................................................................................64
I. Kiến nghị.......................................................................................................68
1. Thừa nhận khái niệm vật quyền....................................................................68
2. Xác lập, thực hiện, chấm dứt vật quyền........................................................70
3. Bảo vệ vật quyền...........................................................................................72
II. KẾT LUẬN...................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................75

2


PHẦN MỞ ĐẦU
Chế định vật quyền không phải là một chế định mới trong pháp luật dân sự.
Vật quyền đã được quy định trong tư pháp La Mã từ những năm trước công
nguyên. Luật La Mã được coi là bộ luật có sức ảnh hưởng rộng rãi và mạnh mẽ
nhất đến hệ thống pháp luật của các quốc gia hiện đại. Vì những lý do khách
quan trong lịch sử, pháp luật Việt Nam cũng ảnh hưởng từ pháp luật La Mã, đặc
biệt là các chế định ở lĩnh vực dân sự. Trong đó phải kể đến chế định vật quyền,
tuy là ở thời kỳ những năm trước công nguyên nhưng pháp luật La Mã lại điều
chỉnh những vấn đề cơ bản cốt lõi của pháp luật dân sự, nói chính xác là điều
chỉnh những vấn đề trọng tâm của quan hệ dân sự (quan hệ tài sản, quan hệ nhân
thân, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong giao lưu dân sự).
Tại Việt Nam, từ năm 1986, nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến
tích cực và đang không ngừng phát triển. Sự phát triển không ngừng này là sự
nỗ lực, đóng góp xây dựng ở tất cả các mặt của toàn thể dân tộc Việt Nam, một
trong những công cụ có ý nghĩa chính là hệ thống pháp luật, trong đó có Bộ luật
dân sự. Bộ luật Dân sự từ năm 1995 rồi Bộ luật Dân sự 2005 đã có những đóng

góp lớn lao trong việc nâng cao tính công bằng trong xã hội, ổn định hơn các
giao dịch trong quan hệ dân sự, giải phóng sức lao động cho xã hội, góp phần ớn
vào sự ổn định và phát triển không ngừng của kinh tế - xã hội Việt Nam,...
Bên cạnh những gì mà Bộ luật dân sự đã đóng góp cho sự phát triển của đất
nước Việt Nam hiện nay thì cũng còn những mặt, những điểm chưa thực sự hoàn
thiện. Trong xã hội Việt Nam mở của hội nhập sâu rộng với quốc tế, nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, những chế định của bộ luật dân sự Việt
Nam vẫn còn những điểm hạn chế chưa thực sự phù hợp, đặc biệt là chế định về
vật quyền. Sự tác động cũng như vai trò của chế định này lên xã hội dường như
chưa được pháp luật giải quyết thấu đáo. Kết cấu của chế định này cũng chưa
được hợp lý khi chưa khái quát được chế định chung cho chế định vật quyền khi
đưa nó vào pháp luật dân sự. Nội hàm của vật quyền trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam dường như còn bị bó hẹp trong các quyền sở hữu tài sản.
3


Khi Hiến pháp Việt Nam có sự sủa đổi bổ sung thành bản Hiến pháp hiện
hành (Hiến pháp 2013), Bộ luật Dân sự theo đó cũng được sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh phát triển của đất nước. Bộ luật Dân sự 2015
được Quốc hội khóa XIII thông qua vào lần họp lần thứ 10 ngày 24 tháng 11
năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. Chế định vật quyền lúc
này đã được ghi nhận và phát triển trở thành chế dộ trọng tâm, cốt lõi nhằm ghi
nhận và bảo vệ quyền của chủ thể đối với tài sản, từ đó làm cơ sở cho việc bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vòa các giao dịch
dân sự, thương mại,... góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, chính do sự phát triển không ngừng của xã hội đã tạo những khó
khăn cho việc lập pháp cũng như hành pháp. Những chế định vật quyền trong
Bộ luật Dân sự Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa thực sự phù hợp với thực tế,
hay nói chính xác hơn, sự điều chỉnh của các chế định vật quyền đối với các
tranh chấp dân sự liên quan đến vật quyền trên thực tế chưa đạt được hiệu quả

như mong muốn. Những quy định vẫn còn gây ra nhiều băn khoăn, trăn trở cho
những người áp dụng pháp luật và mọi người, những chủ thể trong giao lưu dân
sự về tên gọi, phạm vi điều chỉnh, nội hàm thực sự của vật quyền. Bên cạnh đó,
kết cấu những chế định vật quyền trong Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn chưa thực
sự hợp lý như vẫn còn quy định quyền chiếm hữu của người được giao tài sản
thông qua giao dịch dân sự (Điều 188) ở phần quyền chiếm hữu của chủ sơ
hữu... Chưa khái quát được bản chất, nội hàm thực sự của vật quyền gây khó
hiểu, chưa làm rõ được các quyền năng của quyền sở hữu với các vật quyền
khác như quyền sử dụng (một quyền năng của quyền sở hữu) và quyền hương
dụng (vật quyền khác),...
Như vậy, pháp luật Việt Nam, cụ thể pháp luật Dân sự Việt Nam đã có
những sự tiếp thu chọn lọc từ pháp luật La Mã cổ đại về chế độ vật quyền cho
phù hợp với xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập phát triển và nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đem lại nhiều đóng góp lớn cho sự quản
lý xã hội nói chung, quản lý các quan hệ dân sự trong xã hội nói riếng, góp phần

4


thúc đẩy kinh tế phát triển. Song song với đó vẫn còn những điểm cần phải
đưuọc xem xét để hoàn thiện hơn nữa.
Vì những lý do nêu trên, chúng tôi cho rằng, việc nghiên cứu tìm hiểu về
“Vật quyền trong tư pháp La Mã và vật quyền trong pháp luật dân sự Việt
Nam nhìn dưới góc độ so sánh” là một việc cần thiết và có ý nghĩa quan trọng
cả về mặt lý luận và mặt thực tiễn.

5


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẬT QUYỀN TRONG TƯ PHÁP

LA MÃ.
1.

Khái niệm và đặc điểm vật quyền

I.1.

Khái niệm vật quyền

Quyền đối với vật (real right) và quyền yêu cầu hay trái quyền (right under
an obligation –or personal right) đã tồn tại từ trong pháp luật La Mã (cách đây
hơn 2000 năm). Trên cơ sở các quy định vật quyền, pháp luật đã xác lập thẩm
quyền quyền năng) trực tiếp và thường xuyên của chủ thể - người có quyền sử
dụng toàn bộ hay một phần hoặc toàn bộ đồ vật nằm trong các quan hệ vật
quyền vì lợi ích của mình. Mặc dù các luật gia La Mã không nêu ra định nghĩa
cụ thể về vật quyền nhưng khái niệm vật quyền và trái quyền đã tồn tại từ thời
kỳ này. Đến thời kỳ cận đại, BLDS đầu tiên và nổi tiếng trên thế giới (Bộ luật
Napoleon - 1804) cũng đã ghi nhận về các vật quyền ngay trong phần thứ 2 (vật
quyền). Theo thời gian, việc vận dụng lý thuyết vật quyền - trái quyền đem lại
lợi ích chung cho tất cả các hệ thống pháp luật dân sự, từ phương diện cấu trúc
lập pháp, đến phương diện thực tiễn.
Trong quan niệm của người La Mã cổ đại, vật quyền (jus in re) được hiểu
là quyền được chủ thể (người có quyền) thực hiện trực tiếp và tức thì trên một
vật mà không cần vai trò trung gian của một người khác. Quan hệ vật quyền trên
nguyên tắc hình thành từ hai yếu tố: chủ thể của quyền (con người) và đối tượng
của quyền (vật). Quan hệ ấy vận hành mà không cần đến vai trò của một chủ thể
khác, đặc biệt là không cần sự hợp tác hoặc trợ lực của chủ thể khác. Mọi chủ
thể khác đều phải tôn trọng quyền này. Tính chất trực tiếp và tức thì của vật
quyền được thể hiện trong cách thức tác động bằng hành vi vật chất và cả hành
vi pháp lý của chủ thể lên đối tượng của quyền.

Như vậy, theo cách hiểu trên thì khái niệm vật quyền được dùng theo
cách của người La Mã cổ đại có nghĩa hẹp - là quyền được thực hiện trực tiếp
trên một vật chất cụ thể và xác định khái niệm vật (res) sẽ không bao hàm tài
sản như cổ tức, trái phiếu, chứng khoán, quyền ưu tiên, quyền tương lai,
6


quyền đối với tài sản cầm cố, thế chấp... Tuy nhiên, có thể thấy rằng một số
loại tài sản như giấy tờ có giá, quyền tài sản không được đề cập đến trong
pháp luật La Mã là bởi chúng chưa xuất hiện và tồn tại trong đời sống kinh tế
của La Mã cổ đại. Hơn nữa, khi nghiên cứu về khái niệm vật quyền trong
pháp luật La Mã, tác giả Edinburgh cho rằng: “Một thứ gì đó (thing) được
nhìn nhận là vật (res) trong luật La Mã là thủ mà người La Mã dùng để chỉ
tài sản thuộc sở hữu của một người nào đó (person's property). Vật (res)
trong luật La Mã không chỉ là vật với nghĩa vật chất” và “hữu hình” mà còn
bao gồm cả những thứ phi vật chất” và “vô hình” giống như quyền đối với
tài sản. Nói cách khác, vật (res) trong luật La Mã dùng để chỉ tất cả những
thứ mà có thể là đối tượng của một quyền hoặc thông qua nó để các quyền
được thực hiện bởi các chủ thể, bao gồm các đối tượng vật chất (vật) và tài
sản vô hình (quyển) như quyền thừa kế, dịch quyền”.
Theo quan niệm của các nước theo văn hoá pháp lý Romano-Germanic,
cũng như trong khoa học pháp lý hiện đại ngày nay, đối tượng của vật quyền
không chỉ được hình dung là một vật cụ thể, mà vật quyền được hiểu là quyền
của một chủ thể đối với một tài sản, cho phép chủ thể trực tiếp thực hiện các
quyền năng được pháp luật thừa nhận đối với một tài sản? Theo tiếng Anh, thuật
ngữ “things” với thuật ngữ property (tài sản) có nội hàm về cơ bản là giống
nhau. “Things” được hiểu là những đối tượng của sự chiếm hữu hoặc được hiểu
là tài sản. Bên cạnh đó, khái niệm “property” (tài sản) được định nghĩa theo
nghĩa rộng hơn và tiếp cận ở góc độ pháp lý, là toàn bộ những quyền là một chủ
thể có được đối với một tài sản nhất định và được Nhà nước bảo vệ. Với cách

hiểu này, khái niệm tài sản được mở ra đối với bất cứ loại quyền và lợi ích có
giá trị nào theo không gian đa chiều, bao gồm cả tài sản cố định và tài sản lưu
động, hữu hình và vô hình, tài sản đã hình thành hoặc chưa hình thành, vấn đề
nhượng quyền, địa dịch... Khái niệm tài sản rộng, có tính khái quát cao nên hệ
thống pháp luật của nhiều nước đã phát triển thành quyền tài sản. “Tài sản
không phải là một vật mà là một quyền hoặc một loạt quyền được cưỡng chế
thực hiện trong quan hệ với những người khác. Giải thích cách khác, thuật ngữ
7


tài sản có nghĩa là những quan hệ giữa con người liên quan đến các yêu cầu đối
với những thú hữu hình và vô hình”. Ngày nay, thuật ngữ vật quyền (real right)
đang dần được thay thế bởi một thuật ngữ hiện đại hơn là quyền đối với tài sản
(property right” hoặc “law on property”), được hiểu là “quyền mà một người có
đối với tài sản và có tính đối kháng với người khác”.
Như vậy, cùng với sự phát triển của lý luận và pháp luật, khái niệm vật
quyền trong xã hội hiện đại ngày nay có thể được hiểu dưới hai góc độ chủ
quan và khách quan.
Theo nghĩa chủ quan, vật quyền có thể được hiểu là quyền của một chủ thể
bằng hành vi của mình tác động lên tài sản theo ý chí của mình mà không phụ
thuộc vào người khác để nhằm thỏa mãn lợi ích của mình. Theo nghĩa này vật
quyền là quyền đối vật cho phép chủ thể trực tiếp thực hiện các quyền năng
được pháp luật thừa nhận đối với tài sản, khác với trái quyền là quyền của một
người yêu cầu một người khác thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất
định (quyền đối nhân).
Theo nghĩa khách quan, thì vật quyền là toàn bộ các quy phạm pháp luật
quy định về các loại vật quyền và nội dung của từng loại vật quyền, về căn cứ
phát sinh, chấm dứt các loại vật quyền, nguyên tắc thực hiện, bảo vệ vật quyền,
về các huy chế quyền mà người có vật quyền phải tuân thủ khi thực hiện các
quyền năng của mình. Theo nghĩa này thì vật quyền được hiểu là một chế định,

pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật về vật quyền được ghi nhận trong
pháp luật dân sự để phân biệt với các chế định khác như chế định thừa kế, hợp
đồng, hoặc bồi thường thiệt hại...
I.2.

Đặc điểm pháp lý của vật quyến

Vật quyền với cách hiểu chung nhất là quyền của một người đối với một
vật, là quyền chi phối trực tiếp của người đó đối với vật. Vật quyền là quyền
tuyệt đối, áp dụng đối với tất cả mọi người. Trên cơ sở đó, vật quyền hàm chứa
những đặc điểm pháp lý nhất định của nó mà trên nguyên tắc, quyền đối nhân
(trái quyền) không có, đó là:
Thứ nhất, tính đối vật (quyền chi phối trực tiếp với vật)
8


Phải khẳng định rằng thông qua vật quyền cho phép chủ thể có quyền được
trực tiếp tác động lên tài sản hay là quyền chi phối trực tiếp đối với tài sản đó.
Vật quyền thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa người có quyền và tài sản. Tính
đối vật của vật quyền thể hiện sự chi phối của các chủ thể lên tài sản. Các chủ
thể thực hiện vật quyền thông qua hành vi của mình nhằm tác động trực tiếp lên
tài sản như nắm giữ, khai thác công dụng, sử dụng, bảo quản, giữ gìn tài
sản....Tính đối vật trong vật quyền thể hiện mối liên hệ trực tiếp giữa người với
vật (tài sản) mà không cần có vai trò của bất kỳ người thứ ba nào khác. Đồng
thời, tính đối vật của vật quyền còn thể hiện thông qua các trường hợp là trực
tiếp tác động lên tài sản của mình hoặc trực tiếp tác động lên tài sản của người
khác. Quyền sở hữu là một vật quyền thể hiện sự trực tiếp tác động lên tài sản
của mình. Chủ sở hữu có quyền tự mình nằm giữ, chi phối tài sản, tự mình khai
thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản hoặc định đoạt về mặt pháp lý
hoặc về mặt thực tế đối với tài sản. Ngoài ra, chủ thể có vật quyền có thể trực

tiếp tác động lên tài sản của người khác thể hiện thông qua các vật quyền khác
như Quyền hưởng dụng, Quyên bề mặt, Quyền địa dịch... Trong khi quyền đối
nhân đòi hỏi người có quyền phải yêu cầu người có tài sản thực hiện nghĩa vụ
giao tài sản hoặc lợi ích vật chất gắn liền với tài sản cho mình.
Thứ hai, tính tuyệt đối (có hiệu lực đối với tất cả mọi người).
Vật quyền có hiệu lực đối với tất cả mọi người và phải được mọi người tôn
trọng. Vật quyền được bảo vệ một cách tuyệt đối, không bị xâm phạm bởi bất kỳ
chủ thể nào khác. Tất nhiên, để đối kháng được với người thứ ba, thì điều cần
thiết là vật quyền phải được người thứ ba nhận biết rõ ràng, chứ không thể tồn
tại một cách mập mờ, lúc ẩn, lúc hiện. Khi vật quyền có hiệu lực thì mọi người
khác trong xã hội đều phải có nghĩa vụ tôn trọng người có vật quyền, không
được xâm phạm đến quyền của người có vật quyền. Để bảo đảm quyền của
người có vật quyền, pháp luật dân sự quy định cho người có vật quyền đối với
tài sản được quyền tự mình sử dụng mọi biện pháp không trái với quy định của
pháp luật nhằm bảo vệ, ngăn chặn người khác có hành vi xâm phạm quyền của

9


mình. Đồng thời, họ cũng được quyền khởi kiện chống lại mọi hành vi xâm
phạm từ phía chủ thể khác.
Đối lập với việc bảo vệ vật quyền, trái quyền cũng được pháp luật bảo vệ
nhưng không mang tính tuyệt đối giống như bảo vệ vật quyền. Trái quyền chỉ
được bảo vệ một cách tương đối khỏi sự xâm phạm của chủ thể mang nghĩa
vụ xác định. Người có trái quyền có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện
nghĩa vụ của mình để bảo đảm quyền, lợi ích của mình. Việc yêu cầu này chỉ
có tác động đối với bên vi phạm nghĩa vụ mà không ảnh hưởng đến những
người khác trong xã hội. Ví dụ: bên bán có quyền yêu cầu bên mua trả tiền
hàng cho mình khi đến hạn phải trả.
Thứ ba, tính lâu dài của vật quyền

Các vật quyền tồn tại lâu dài, không bị hạn chế bởi thời gian cụ thể. Tính
lâu dài của vật quyền không được hiểu là tồn tại mãi mãi, vô thời hạn, không có
thời điểm xác định mà sự tồn tại của các vật quyền thường gắn liền với sự tồn tại
của tài sản. Người có vật quyền sẽ có quyền tác động, chi phối đến tài sản trong
khoảng thời gian dài. Vật quyền sẽ mất đi trong trường hợp tài sản đó không còn
tồn tại nữa. Đối với chủ thể mang vật quyền sẽ có được vật quyền lâu dài kể từ
khi được xác lập vật quyền. Nếu vật quyền được chuyển dịch từ chủ thể này
sang chủ thể khác thì vật quyền đó sẽ tiếp tục tồn tại đối với chủ thể mới thế
quyền. Tính lâu dài của vật quyền cũng là một tính chất nhằm để phân biệt giữa
vật quyền với trái quyền. Trái quyền chỉ tồn tại trong một khoản thời gian xác
định cụ thể mà đã được xác định theo thoả thuận giữa các bên hoặc được định
theo tập quán hoặc quy định của pháp luật.
Thứ tư, tính theo đuổi vật
Vật quyền cho phép người có quyền thực hiện quyền của mình đối với tài
sản bất kể vật đang nằm trong tay bất kỳ người nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào
Đặc tính này được hiểu là người có quyền đối vật có thể thực hiện quyền của
mình đối với tài sản, bất kể tài sản đang nằm trong tay người nào và trong bất
kỳ hoàn cảnh nào1. Đây chính là tính dõi theo vật được thể hiện trong các vật
1 Nguyễn Ngọc Điện (2000), nghiên cứu về tài sản trong luật Dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí
Minh,2000, tr.124

10


quyền. Tức là, chủ thể có vật quyền có quyền được tác động lên tài sản của mình
dù cho tài sản đã được chuyển dịch, nằm trong sự kiểm soát của bất kể chủ thể
nào khác trong xã hội. Khi thay đổi chủ sở hữu tài sản (quyền sở hữu tài sản
được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác) thì các vật quyền khác đang
tồn tại đối với tài sản vẫn được bảo lưu. Ví dụ: Chủ sở hữu của địa dịch hưởng
quyền vẫn được thực hiện quyền của mình trên bất động sản chịu địa dịch dù bất

động sản chịu địa dịch đó được chuyển nhượng lần lượt cho nhiều người; chủ sở
hữu tài sản thế chấp phải tôn trọng quyền kê biên tài sản của chủ nợ nhận thế
chấp; chủ sở hữu có quyền kiện đòi lại tài sản của mình do người khác chiếm
giữ mà không có sự đồng ý của mình...
Đặc tính dõi theo vật còn mang ý nghĩa rất quan trọng đó là đảm bảo cho
sự tồn tại độc lập của các vật quyền khỏi sự lệ thuộc vào quyền sở hữu. Do đó,
các vật quyền khác ngoài quyền sở hữu vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền
sở hữu được chuyển giao. Việc không lệ thuộc giữa vật quyền khác so với quyền
sở hữu cũng là để khẳng định tính chất tuyệt đối của các vật quyền.
Thứ năm, việc thực hiện vật quyền không làm chấm dứt vật quyền
Các chủ thể có vật quyền sẽ thực hiện các hành vi tác động lên tài sản theo
nội dung của vật quyền đó (ví dụ như sử dụng ngôi nhà, dùng lối đi, hưởng hoa
lợi từ khai thác bề mặt đất...). Tuy nhiên, một điểm quan trọng là khi các chủ thế
này thực hiện vật quyền không làm chấm dứt vật quyền. Đây là một đặc điểm cơ
bản để phân biệt vật quyền với trái quyền. Vật quyền sẽ tồn tại trong suốt quá
trình tồn tại của tài sản. Trong khi đó, việc thực hiện trái quyền sẽ là căn cứ làm
chấm dứt trái quyền. Bản chất trái quyền là quyền đối nhân, là quyền yêu cầu
người khác thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định để đem lại lợi
ích cho người yêu cầu. Do đó khi bên có nghĩa vụ thực hiện xong thì nghĩa vụ
được coi là hoàn thành và quan hệ nghĩa vụ chấm dứt.
Thứ sáu, tính dịch chuyển được
Tính dịch chuyển được cũng là một đặc tính của vật quyền. Tính dịch
chuyển được hiểu là vật quyền có thể được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ
thể khác. Tính dịch chuyển được kết hợp với tính tuyệt đối đảm bảo cho các vật
11


quyền có tính độc lập trong việc dịch chuyển. Ngoài chủ sở hữu thì khi một chủ
thể được cấp quyền bề mặt, quyền địa dịch hoặc quyền hưởng dụng muốn dịch
chuyển quyền sang cho chủ thể khác cũng không cần đến sự đồng ý, cho phép

của chủ sở hữu tài sản. Đặc tính này cũng là đặc tính nhằm làm rõ sự khác biệt
giữa vật quyền và trái quyền.
Thứ bảy, vật quyền cho phép người có quyền được ưu tiên thực hiện quyền
của mình đối với tài sản
Vật quyền cho phép người có quyền thực hiện quyền của mình đối với sản
nhằm thỏa mãn lợi ích theo đuổi trước những người khác, đặc biệt là nhà người
theo đuổi có cùng lợi ích đó. Quyền này gọi là quyền ưu tiên. Người có quyền
đối vật có thể loại tất cả những người có quyền đối nhân và cả những người có
quyền đối vật xếp sau mình theo thứ tự đăng ký ra khỏi cuộc chạy đua nhằm
thực hiện các quyền đối với tài sản liên quan. Trong thực tiễn, quyền ưu tiên của
người có quyền đối vật được thể hiện rõ nét qua việc thực hiện quyền của người
nhận cầm cố, nhận thế chấp tài sản. Những người này có quyền được ưu tiên
thanh toán bằng số tiền bán tài sản thế chấp hoặc cầm cố trước các chủ nợ không
có bảo đảm. Đặc điểm này nhằm phân biệt rõ giữa vật quyền và trái quyền, tức
là người có vật quyền được ưu tiên hơn so với người có trái quyền.
Thứ tám, tính lợi ích
Các vật quyền khi được xác lập luôn nhằm mục đích mang lại lợi ích cho
chủ thể mang quyền. Các chủ thể có vật quyền sẽ có những lợi ích nhất định như
được sử dụng bề mặt, được hưởng dụng tài sản, được dùng lối đi qua đất của
người khác... Có thể nói khi chủ thể xác lập vật quyền thì sẽ gắn liền với những
lợi ích nhất định được đi kèm với loại vật quyền đó. Tính lợi ích của vật quyền
cũng là cơ sở để phân biệt các vật quyền đối với các quyền khác mà cũng có sự
tác động vào tài sản nhưng lại không được coi là vật quyền, ví dụ: quyền của
bên giữ tài sản trong hợp đồng gửi giữ tài sản. Trong hợp đồng gửi giữ tài sản,
bên giữ tài sản có thực hiện các hành vi như bảo quản, giữ gìn tài sản... nhưng
quyền của bên giữ tài sản không thể trở thành vật quyền vì hành vi của bên giờ
tài sản không nhằm khai thác lợi ích hay khai thác giá trị từ tài sản, mà hành vi
12



trên chỉ nhằm đáp ứng bảo vệ tốt cho tài sản của người gửi và nhận thù lao từ
công việc này nếu có thoả thuận.
2.

Các nguyên tắc cơ bản của vật quyền

Trong quan hệ giao dịch có người, vật và hành vi. Vật quyền là quyền chi
phối trực tiếp của chủ thế đối với vật, không phụ thuộc hay cần có sự hỗ trợ của
bất cứ ai, để phân biệt với trái quyền là tác động gián tiếp trên vật thông qua
hành vi của chủ thể khác (gọi là bên có nghĩa vụ). Học thuyết vật quyền chứa
đựng các nguyên tắc cơ bản như:
Thứ nhất, nguyên tắc luật định.
Các loại vật quyền cũng như nội dung của chúng đều được pháp luật quy
định cụ thể. Các bên khi tham gia vào hợp đồng không thể tự “sáng tạo” ra các
loại vật quyền mới, thoả thuận giữa các bên chỉ có thể tạo ra trái quyền. Tuy
nhiên, trái quyền này có thể trở thành vật quyền nếu đáp ứng đủ 2 tiêu chí: Được
pháp luật thừa nhận và có cơ chế để công bố công khai quyền với bên thứ ba,
nếu không thì quyền trên vật được tạo ra từ hợp đồng chỉ là một loại “vật quyền
ảo”.2 Trong khi đó, nguyên tắc tự do hợp đồng là nguyên tắc tạo ra trái quyền.
Thứ hai, nguyên tắc tuyệt đối
Tính chất tuyệt đối (theo tiếng La tinh là “erga omnes”) của học thuyết vật
quyền được thể hiện ở chỗ quyền này có hiệu lực đối với tất cả mọi người và bất
kì ai cũng phải tôn trọng. Vật quyền là quyền chi phối trực tiếp đối với vật cho
nên không thể xác lập cùng lúc cùng một vật quyền có cùng nội dung về cùng
một vật (tính loại trừ của vật quyền). Đối với trái quyền thì có thể xác lập từ hai
trái quyền trở lên với một nội dung yêu cầu cùng một người có nghĩa vụ thực
hiện hành vi với cùng một nội dung. Nếu vật quyền là quyền bất khả xâm phạm
và được quyền yêu cầu người khác loại bỏ sự cản trở thì trái quyền chỉ là quyền
tương đối, chỉ có quyền tuyên bố với một chủ thể nhất định nên được cho là
không có hiệu lực loại trừ sự cản trở.

Thứ ba, nguyên tắc công khai
2 Xem: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Điện, Góp ý chế định quyền sở hữu và các vật quyền khác dưới góc độ thực hiện
Chiến lược cải cách tư pháp và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tài liệu Hội thảo
về sửa đổi BLDS năm 2005, Hà Nội, ngày 28/3/2015.

13


Việc công khai vật quyền nhằm đảm bảo các bên thứ ba có thể nhận biết
được rõ ràng đời sống pháp lí của vật quyền, tức là biết được sự tồn tại của vật
quyền cũng như sự dịch chuyển của vật quyền trong giao lưu dân sự. Nguyên tắc
này tránh rủi ro cho các bên thứ ba. Việc áp dụng nguyên tắc công khai cũng có
sự khác nhau giữa các nước. CHLB Đức và Nga lựa chọn phương án coi nguyên
tắc công khai là điều kiện để việc dịch chuyển quyền có hiệu lực. Trong khi đó
một số nước như Pháp, Nhật Bản lại lựa chọn phương án mềm dẻo hơn, coi
nguyên tắc công khai là căn cứ để đối kháng với các bên thứ ba. Điều này có
nghĩa là hợp đồng liên quan đến vật quyền cho dù không được công khai thì vẫn
phát sinh hiệu lực giữa các bên nhưng nó lại mất đi tính đối kháng với người thứ
ba. Trong hệ thống vật quyền thì ngoài chủ sở hữu còn có những người khác
cũng có quyền trên tài sản và những quyền này đều được pháp luật ghi nhận là
vật quyền (chứ không phải trái quyền), vì vậy cần phải có cơ chế công bố..
Nguyên tắc công khai của học thuyết vật quyền tạo nên đặc tính ưu tiên của vật
quyền mà vốn dĩ trái quyền không thể hiện đặc điểm này. Trong trường hợp có
sự xung đột giữa các vật quyền thì người nào công bố vật quyền trước sẽ được
ưu tiên trước; còn trong quan hệ trái quyền thì phải tuân thủ nguyên tắc bình
đẳng giữa các trái chủ - người có quyền lợi. Nếu có nhiều trái chủ cùng có
quyền trên tài sản thì quyền lợi được phân chia theo tỉ lệ. Trong trường hợp có
sự xung đột giữa vật quyền và trái quyền thì vật quyền luôn được ưu tiên trước.
Thứ tư, nguyên tắc tin cậy
Nguyên tắc tin cậy hay còn được gọi sức mạnh công tín được hiểu là khi

một người có lí do chính đáng để tin vào sự thể hiện bề ngoài hoặc biểu trưng gì
đó làm họ suy đoán rằng có sự tồn tại của vật quyền thì cho dù không tồn tại
quyền đó thực sự nhưng sự tin cậy ấy vẫn phải được bảo vệ. Nguyên tắc này
thực chất hướng đến bảo vệ “người ngay tình” trên cơ sở nguyên tắc an toàn
pháp lí đồng thời cũng bảo đảm tính hiệu quả và nhanh chóng của các giao dịch
liên quan đến vật quyền. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng nguyên tắc này có thể
kéo theo sự mất quyền của người có quyền thực sự. Như vậy, dường như có hai
vấn đề đã được “đặt lên bàn cân”: một bên là nguyên tắc an toàn pháp lí đối với
14


các giao dịch, một bên là sự cần thiết bảo vệ quyền lợi của những chủ thể có
quyền thực sự. Rõ ràng, lúc này việc áp dụng nguyên tắc tin cậy trong chừng
mực nào phụ thuộc vào ý chí và sự cân nhắc của nhà làm luật.
Thứ năm, nguyên tắc trừu tượng và tách biệt
Có thể xem đây là nguyên tắc mang tính đặc thù của pháp luật CHLB 3
Đức. Trước hết, nguyên tắc tách biệt được hiểu là tách một quan hệ nghĩa vụ
thành giao dịch trái quyền và giao dịch vật quyền. Nếu giao dịch vật quyền vô
hiệu thì tài sản được hoàn trả cho chủ sở hữu trước đây; nếu giao dịch vật quyền
đã có hiệu lực nhưng giao dịch trái quyền vô hiệu thì bên có quyền chỉ có thể
yêu cầu bồi thường thiệt hại chứ không được kiện đòi lại tài sản. Ví dụ trong
hợp đồng mua bán, thoả thuận một bên giao tiền một bên giao vật chính là giao
dịch trái quyền; còn việc chuyển dịch quyền sở hữu từ bên bán sang bên mua lại
là giao dịch vật quyền.
3.

Phân loại vật quyền và mối liên hệ giữa các vật quyền

3.1.


Phân loại vật quyền

Có nhiều cách để phân loại vật quyền trong luật học của các nước, trong
đó, hai cách đáng chú ý nhất: một cách dựa vào mối quan hệ của chủ thể có
quyền với tài sản cách còn lại dựa vào mức độ tác động vật chất mà chủ thể
được phép thực hiện đối với vật khi tìm kiếm lợi ích.
Thứ nhất, dựa vào mối quan hệ của chủ thể có quyền với tài sản
Dựa vào tiêu chí này, vật quyền được phân biệt thành hai nhóm:
(i) Quyền sở hữu (còn gọi là quyền trên tài sản của mình): gồm quyền tự do
sử dụng, hưởng lợi và định đoạt. Quyền sở hữu được coi là vật quyền thứ nhất,
tuyệt đối, trọn vẹn nhất. Nó có tác dụng thiết lập độc quyền của chủ thể đối với
tài sản, một cách hoàn hảo, từ nắm giữ, kiểm soát về phương diện vật chất, cho
đến khai thác công năng kinh tế và cả số phận vật chất, pháp lý của tài sản đó.
(ii) Các vật quyền khác (còn gọi là quyền trên tài sản của người khác,
hoặc dịch quyền (servitude), hoặc là một số quyền của người không phải là
chủ sở hữu). Gồm có các quyền như quyền hưởng dụng (usuffect), quyền sử
3 Cộng hòa Liên bang Đức

15


dụng (use), quyền ngụ cư Kinhabitation), quyền thuê dài hạn (emptyteusis),
quyền bề mặt (superficies), quyền khai thác kinh tế và quyền quản lý nghiệp
vụ, quyền địa dịch, quyền ưu tiên, vật quyền bảo đảm... Ngoài ra, còn có các
vật quyền đã biệt trên tài sản công được tạo lập bởi Nhà nước vì lợi ích của
chính mình, hay vì lợi ích của tư nhân. Chẳng hạn, quyền khai thác mỏ, quyền
đánh cá, quyền khai thác rừng...
Thứ hai, dựa vào mức độ tác động vật chất mà chủ thể được phép thực
hiện đối với vật trong khuôn khổ tìm kiếm lợi ích, có thể chia vật quyền thành
vật quyền chính và vật quyền phụ.

(i) Vật quyền chính: là các quyền cho phép người có quyền không chỉ nắm
giữ việc kiểm soát vật chất đối với tài sản, mà còn có thể khai thác các khả năng
và đặc biệt là giá trị kinh tế của tài sản. Quyền sở hữu đứng đầu nhóm vật quyền
này do tính chất hoàn hảo của quyền năng: nó tạo điều kiện cho người có quyền
thu được lợi ích từ việc khai thác một cách trọn vẹn các khả năng kinh tế của tài
sản. Các vật quyền chính khác có mức độ hoàn hảo của quyền năng thấp hơn:
quyền hưởng dụng chỉ cho phép người có quyền thu hoa lợi từ việc khai thác tài
sản, chứ không cho phép định đoạt tài sản; với quyền địa dịch, người có quyền
chỉ được khai thác được tài sản ở một khía cạnh nào đó (chẳng hạn, sự tiện lợi
về tầm nhìn, lối đi qua)... Trong pháp luật Việt Nam hiện hành có một số vật
quyền mang tính chất này. Tuy nhiên, do khái niệm vật quyền chưa được chính
thức thừa nhận, chúng chỉ được ghi nhớ bằng những tên gọi đặc thù: quyền sở
hữu, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề, quyền thuê quyền sử dụng đất
ở, đất chuyên dùng. Trừ quyền sở hữu, tất cả các quyền còn lại có đặc điểm
chung là được thực hiện trên tài sản của người khác.
(ii) Vật quyền phụ (còn gọi là vật quyền bảo đảm thực hiện nghĩa vụ) chỉ
có tác dụng tạo ra sự an toàn cho người có quyền trong quá trình tham gia vào
một quan hệ nghĩa vụ với tư cách trái chủ. Thay vì phải lệ thuộc vào vai trò chủ
động của thụ trái để có được sự thực hiện nghĩa vụ thoả đáng, người có vật
quyền có thể tác động vào giá trị tiền tệ của tài sản. Loại vật quyền này chỉ trao
cho người có quyền các quyền năng hạn chế đối với vật. Các quyền năng này chỉ
16


phát huy tác dụng trong những trường hợp được ghi nhận trong luật và được
thực hiện theo những quy định nghiêm ngặt. Quyền của chủ nợ nhận thế chấp,
nhận cầm cố những ví dụ tiêu biểu cho các vật quyền thuộc nhóm này. Trong
chừng mực nào đó, người ta nói rằng vật quyền được gọi là phụ, bởi vì tài sản
đối tượng của quyền được coi như một thứ “dự trữ giá trị (value reserved). Dự
trữ đó sẽ được và chỉ được mang ra sử dụng một khi người có quyền không còn

sự lựa chọn khác cho việc thực hiện trái quyền của mình. Vật quyền phụ không
trao cho người có quyền những công cụ khai thác các khả năng của tài sản để
phục vụ cho cuộc sống, sinh hoạt của mình, như các vật quyền chính. Pháp luật
Việt Nam hiện hành chưa xây dựng khái niệm vật quyền phụ này. Trong luật
thực định có ghi nhận các biện pháp bảo đảm đối vật cho việc thực hiện nghĩa
vụ, như cầm cố, thế chấp tài sản. Với các biện pháp ấy, người thụ hưởng cũng
không có các quyền trực tiếp đối với đối tượng, mà chỉ có quyền đối với giá trị
của đối tượng đó và trong phạm vi giá trị của quyền chủ nợ có bảo đảm.
Ngoài ra, pháp luật một số nước (chẳng hạn pháp luật Đức) chia vật quyền
thành hai loại: vật quyền về nội dung và vật quyền về hình thức. Vật quyền về
nội dung được quy định tại Bộ luật Dân sự và các đạo luật khác (chẳng hạn như
pháp luật về nhà ở, xây dựng...). Vật quyền hình thức được quy định tại các văn
bản điều chỉnh về thủ tục như pháp luật về đăng ký tài sản, đăng ký bất động
sản. Bên cạnh đó, người ta có thể phân loại vật quyền thành vật quyền luật định
và vật quyên ước định. Vật quyền với tính chất là quyền tuyệt đối của chủ thể có
quyền. có tính loại trừ, đối kháng với chủ thể khác, có tính chi phối trực tiếp đối
với tài San, nên phải được pháp luật quy định. Vật quyền ước định là quyền đối
với : San được xác lập trên cơ sở một hợp đồng (hợp đồng cầm cố, thế chấp. ) và
trên pháp luật quy định. Nội dung các loại vật quyền, hiệu lực của vật quyền và
cách thức công khai, công bố vật quyền được pháp luật ghi nhận.
3.2.

Mối liên hệ giữa các vật quyền

Thứ nhất, mối liên hệ giữa vật quyền chính và vật quyền phụ.
Vật quyền chính được tạo ra để giúp cho các chủ thể tác động trực tiếp
vào tài sản, khai thác các giá trị của tài sản. Vật quyền chính thường có trước
17



vật quyền phụ và là cơ sở để phát sinh vật quyền phụ trong quan hệ dân sự.
Vật quyền chính và vật quyền phụ cùng có điểm chung là khi thực hiện đều
tác động lên tài sản. Vật quyền chính tác động lên tài sản nhằm khai thác lợi
ích từ tài sản còn vật quyền phụ tác động lên tài sản nhằm bảo đảm cho một
nghĩa vụ được thực hiện.
Thứ hai, mối liên hệ giữa các vật quyền trong cùng một nhóm quyền.
Nhóm vật quyền chính bao gồm quyền sở hữu và các vật quyền chính: khác
(quyền bề mặt, quyền hưởng dụng, quyền địa dịch). Trong nhóm vật quyền
chính, quyền sở hữu là trung tâm của các vật quyền còn lại. Quyền sở hữu là
nguyên gốc, là quyền ban đầu, tạo cơ sở phát sinh cho các vật quyền còn lại. Các
vật quyền còn lại được phái sinh từ quyền sở hữu. Các vật quyền trong nhóm vật
quyền chính đều có tác động lên tài sản nhưng mức độ tác động, mức độ hoàn
hảo của quyền là khác nhau. Quyền sở hữu của chủ sở hữu là quyền có mức độ
tác động rộng lớn nhất, hoàn hảo nhất. Các vật quyền khác tác động lên tài sản ở
mức độ hạn chế hơn thông qua một phần quyền của quyền sở hữu đối với vật.
Quyền sở hữu là cơ sở ban đầu, là xuất phát điểm làm phát sinh các vật quyền
khác. Ngược lại, các vật quyền khác được hình thành có tác động trở lại quyền
sở hữu, mở rộng quyền sở hữu. Các vật quyền khác giúp cho chủ sở hữu có khả
năng cấp một phần quyền trong quyền sở hữu cho chủ thể khác (quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng...) để nhằm khai thác được các giá trị của tài sản.
Thứ ba, mối liên hệ chung giữa các vật quyền.
Các vật quyền có mối liên hệ chung là đều có sự tác động, hướng đến một
tài sản nhất định nhưng được thông qua những sự tác động khác nhau.

18


CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH VỀ VẬT QUYỀN TRONG
TƯ PHÁP LA MÃ
I. Khái quát chung về tư pháp La Mã

1.

Lịch sử hình thành tư pháp La Mã

1.1.

Sơ lược về Đế chế La Mã

La Mã là tên một quốc gia phát nguyên ở bán đảo Italia vào thế kỷ thứ VII
trước Công nguyên, tồn tại đến thế kỷ thứ VII sau Công nguyên. Thành phố La
Mã được hình thành vào cuối thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên. Lịch sử la
Mã có thể chia làm thời kỳ: thời kỳ Vương chính, thời kỳ Cộng hòa và thời kỳ
quân chủ chuyên chế.
Ở thời kỳ Vương chính (753 trước Công nguyên – 510 trước Công
nguyên), theo huyền thoại người La Mã, vị vua đầu tiên của nước La Mã là vua
Romulus, ông vua này xây dựng và trị vì quốc gia La Mã theo chế độ quân chủ chủ nô. Xã hội La Mã lúc bấy giờ bị phân hóa sâu sác, chế độ phụ quyền đã hình
thành, chế độ tài sản là tài sản chung của cả thị tộc, các thành viên trong thị tộc
có quyền thừa kế của nhau. Xã hội thị tộc của người La Mã được quản lý bằng
ba cơ quan quyền lực bao gồm: Viện nguyên lão, Đại hội nhân dân và Vua.
Viện nguyên lão là tập hợp của 300 thị tộc La Mã, có quyền lực tối cao, có
quyền quyết định mọi công việc quan trọng của nhà nước La Mã; có quyền thảo
luận trước về các đạo luật, các quyền phê chuẩn hoặc phủ quyết những nghị
quyết của Đại hội nhân dân La Mã.
Đại hội nhân dân là đại hội của đàn ông trong 300 thị tộc người La Mã, mỗi
người có một lá phiếu trong đại hội và thể hiện ý muốn của mình thông qua lá
phiếu đó. Đại hội nhân dân quyết định các vấn đề chiến tranh hay hòa bình, chọn
ra một vị vua trong bào tộc.
Vua lúc này chỉ được hiểu là thủ lĩnh quân đội, quyền hành không có sự
bao trùm. Vua ở thời kỳ này không được cha truyền con nối.
Thời kỳ thứ hai là thời kỳ Cộng hòa. Năm 509 trước Công nguyên, các nhà

quý tộc trong xã hội La Mã đã tập hợp lại với nhau lật đổ chế độ xã hội quân chủ
- chủ nô, xây dựng chế độ cộng hòa. Chế độ này được gọi với tên Respublica (từ
19


ghép của res (vật, việc) và từ publica (chung)), tức công việc quản lý nhà nước,
hay công việc xã hội là của chung tất cả mọi người, nên gọi là chế độ cộng hòa.
Bộ máy nhà nước trong thời kỳ này bao gồm: Viện nguyên lão, Đại hội
nhân dân và bộ máy hành chính. Thời kỳ này đã có một sự thay đổi lớn về bộ
máy nhà nước, có thêm bộ máy hành chính nhà nước, Đại hội nhân dân không
còn là đại hội của riêng các đàn ông trong 300 thị tộc người La Mã nữa, mà nó
là đại diện cho 6 đẳng cấp trong xã hội La Mã lúc bấy giờ (các đăng cấp này
được phân chia theo lượng tài sản có được).
Trong hoạt động tư pháp của bộ máy nhà nước cũng thể hiện rõ tư tưởng
cộng hòa, rõ nét nhất là chế độ xét xử tập thể của các quan tòa. Sự tập trung
quyền lực vào tay Viện nguyên lão như một nét đặc trưng của chính trị La Mã.
Ở thời kỳ cộng hòa này của nhà nước La Mã, mặc dù chế độ chính trị đã có
sự thay đổi so với chế độ cũ, song, sự cách biệt giữa bình dân với quý tộc vẫn rất
lớn, nó làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bình dân. Chính vì vậy, bình dân
đã đấu tranh với quý tộc trong suốt khoảng hai trăm năm để đòi những quyền lợi
cảu mình. Đáp lại sự đấu tranh bền bỉ đó là kết quả bình dân đã có được phần
nào những quyền lợi của mình như: cử quan Bảo dân để bảo vệ quyền lợi của
đẳng cấp mình, được chia ruộng đất không còn lệ thuộc như trước, tự do kết hôn
với cả quý tộc, được làm quan chấp chính, bình dân nếu có phá sản cũng biến
thành nô lệ... Những thắng lợi này của bình dân La Mã đã làm cho chế độ Cộng
hòa La Mã được dân chủ hóa thêm một bước khá lớn so với trước.
Thời kỳ thứ ba gọi là thười kỳ chuyên chế (thời kỳ cổ điển, thời kỳ Thượng
đế quốc4). Thời kỳ này bắt đầu với sự cai trị của Vua Octavius theo mô hình
quân chủ nhưng được che đậy dưới hình thức chế độ Cộng hòa (năm 29 trước
Công nguyên). Vua Octavius không giống như vua các thời kỳ trước, ông ta nắm

trong tay mọi quyền hành, quyền năng bao gồm: các quyền lực về quân sự, dân
sự và cả tôn giáo. Ông ta tổ chức lại quân đội, xây dựng bộ máy hành chính
công từ trung ương đến địa phương. Ranh giới của “Đế quốc La Mã” được xác

4 Trường Đại học Cần Thơ, TS. Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật La Mã, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2009.

20


định là đến sông Ranh (Rhin) và sông Đa nuýp (Danube). Đế quốc này được
thống trị tiếp tục bởi bốn triều đại sau đó.
Cuối thời này, còn được gọi là thời kỳ Hạ Đế quốc, cả xã hội lẫn chính trị
của La Mã đều có khủng hoảng. Về xã hội, chế độ nô lệ gặp khủng hoảng lớn,
các chủ nô phải thay đổi cách bóc lột là giao khoán từng khoảnh ruộng lại cho
nô lệ canh tác và nôp tô lại cho chủ nô; đến thế kỷ thứ III sau Công nguyên,
công thương nghiệp phát triển nhanh chóng một thời rồi suy yếu, cư dân thành
thị suy yếu nhiều, kinh tế đi xuống. Về chính trị, sự sâu xé lẫn nhau giữa các thế
lực quân sự từ thế kỷ thứ III sau Công nguyên làm cho đế quốc không còn là
một thực thể chính thống nữa. Đế quốc La Mã bị chia làm hai: Đế quốc Phương
Đông (thủ đô ở Conxtatinop) và Đế quốc phương Tây (thủ dô ở Rome). Đế quốc
phương Tây duy trì đến thể kỷ thứ V rồi sụp đổ; còn Đế quốc Phương Đông duy
trì đến thế kỷ thứ XV dưới tên gọi Đế quốc Byzance. Đây coi như thời kỳ suy
vong cảu Đế quốc La Mã.
1.2.

Tư pháp La Mã

Cùng với sự hình thành và phát triển của Nhà nước La Mã là sự hình thành
và phát triển của Tư pháp La Mã, Luật La Mã.

Tư pháp La Mã phát triển theo sự phát triển của kinh tế và xã hội La Mã.
Các quy định của Luật La Mã là các quy phạm điều chỉnh các quan hệ cá
nhân với cá nhân trong quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Theo đó cho
phép các chủ thể của quan hệ được thỏa thuận để xác lập, thay đổi, chấm dứt
nội dung của quan hệ liên quan đến thay đổi nghĩa vụ và quyền của các bên
tham gia vào quan hệ.
Sự phân chia đẳng cấp trong xã hội ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến việc phân
loại luật. Theo đó, công dân La Mã được hưởng và thực hiện theo pháp luật
dành riêng cho công dân La Mã gọi là luật Dân sự (jus civile) hay còn gọi là
Luật Công dân La Mã, còn người nước ngoài sống ở La Mã thì hưởng và thực
hiện theo Luật chung (jus gentium). Ban đầu, người nước ngoài sống ở La Mã
không được áp dụng luật dành người La Mã mà chỉ được áp dụng luật quy định
dành riêng cho người nước ngoài (jus peregrinorum), nhưng sau đó, theo sự phát
21


triển và mở rộng của xã hội và kinh tế La Mã, sự giao lưu giữa La Mã với bên
ngoài được mở rộng và càng ngày càng phát triển, đó là nguyên nhân có những
quy định cho người nước ngoài sống tại La Mã với tên gọi jus gentium (luật vạn
dân, luật chung), được hiểu là luật cho mọi người.
Luật Dân sự và luật Chung được bổ sung bởi các quy tắc được thẩm phán
rút ra từ hoạt động xét xử và các quy tắc này tạo thành một hệ thống gọi là luật
Thực hành (jus praetorium).
Đến thời Justinian5, Luật Dân sự và Luật chung được hợp nhất thành “Luật
Dân sự La Mã” do những người không phải công dân La Mã hoàn toàn bình
đẳng với công dân La Mã về phương diện dân sự.
2.

Cơ sở luật và nguồn của luật La Mã


Có nhiều quan điểm về nguồn, cơ sở luật của Luật La Mã, nó là Luât thành
văn cụ thể là Luật XII bảng hoặc nó là Tập quán pháp của người La Mã.
Xã hội và kinh tế phát triển kéo theo sự phức tạp trong các quan hệ xã hội,
quan hệ giữa cá nhan với cá nhân về tà sản và nhân thân. Năm 450 Trước Công
nguyên, Đại hội nhân dân đã có yêu cầu soạn luật thành văn thay vì áp dụng tập
quán La Mã để giải quyết, xử lý các vấn đề, các tranh chấp phát sinh trong xã
hội. Đại hội nhân dân đã lập ra Ủy ban đặc trách đề soạn luật thành văn, các điều
luật được tập hợp thành mười hai bảng khắc trên mười hai tấm bảng đồng và
được phổ biến công khai cho tất cả mọi người, gọi đây là Luật XII bảng (khoảng
từ năm 451 đến năm 449 trước Công nguyên). Tức mười hai bảng luật này là sự
chuyển hóa thành văn cảu tập quán pháp
Trước khi có Luật XII bảng, người dân La Mã có ý thức tự giác tuân thủ tập
quán cộng đồng; hơn nữa nhờ sự can thiệp của các pháp quan bằng biện pháp
cướng chế của quyền lực công cộng nên việc tuân thủ ấy càng được bảo đảm.
Xét cho cùng thì nguồn của Luật La Mã là tập quán pháp của người La
mã chứ không phải Luật thành văn. Luật XII bảng được xem là công trình lập
pháp đầu tiên của Nhà nước La Mã, được xem là cơ sở để các pháp quan áp
dụng giải quyết các tranh chấp phát sinh trong xã hội, cũng là cơ sở để hoàn
5 Justinian: Hoàng đế Đông La Mã (527 – 565)

22


thiện Luật Dân sự La Mã, thể hiện thông qua các luạt viết, án lệ (của quan chấp
chính là chủ yếu), kết quả của những nghiên cứu luật học; là công cụ hữu hiệu
để điều hành đất nước.
3.

Đối tượng điều chỉnh của luật La Mã


Luật Dân sự La Mã có ảnh hưởng lớn đến pháp luật thời kỳ hiện đại, là sự
tiến bộ vượt bậc trong pháp luật Dân sự bởi nó điều chỉnh các quan hệ giữa
người với người trong xã hội. Theo đó Luật La Mã điều chỉnh các đối tượng bao
gồm: quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân.
1.1.

Quan hệ tài sản

Quan hệ tài sản mà Luật Dân sự La Mã điều chỉnh là các nhóm quan hệ xã
hội về tài sản phát sinh một cách khách quan trong quá trình sản xuất và lưu
thông các sản phẩm là thành quả của lao động, sáng tạo ra của cải, vật chất. Nó
trở thành quyền và nghĩa vụ của những người tham gia vào quan hệ và quyền
được bảo vệ trong quan hệ tài sản khi có hành vi xâm phạm đến lợi ích vật chất
của công dân La Mã.
Quan hệ tài sản trong Luật Dân sự La Mã bao gồm: Quan hệ vật quyền,
quan hệ trái quyền, quan hệ thừa kế.
Quan hệ vật quyền có quyền đối vật hay còn gọi là vật quyền tức quyền
được thực hiện trực tiếp trên vật, người có quyền này trực tiếp thực hiện quyền
đối với vật mà không cần quan tâm đến ý chí của bất kỳ người nào khác. Quan
hệ trái quyền có quyền đối nhân hay còn gọi là trái quyền, theo luật Dân sự La
Mã quy định thì trái quyền là quyền được thực hiện chống lại hành vi của người
có nghĩa vụ. Ngay từ khi xã hội La Mã phát triển chia thành các thị tộc thì đã
thừa nhận sự thừa kế của những người trong thị tộc với nhua, nên Luật La Mã
điều chỉnh quan hệ thừa kế là một tất yếu khách quan, đảm bảo quyền lợi và
nghĩa vụ trong quan hệ tài sản của công dân La Mã. Quan hệ thừa kế trong Luật
La Mã cũng được phân chia rõ ràng giữa thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo
di chúc, quy định cả việc thanh toán di sản của người chết để lại.
Trong quan hệ sở hữu tài sản, Luật La Mã cũng đã phân biệt giữa sở hữu tài
sản và chiếm hữu tài sản. Trong quyền sở hữu tài sản, Luật La Mã quy định rõ,
23



đầy đủ các quyền năng chiếm hữu (jus possidendi), quyền sử dụng (jus utendi),
quyền hưởng dụng (jus fruendi), quyền định đoạt (jus abutendi) và quyền kiện
đòi lại tài sản khi bị người khác chiếm hữu trái phép (jus vidicandi).
Nghĩa vụ và hợp đồng cũng là đối tượng được điều chỉnh của Luật La Mã.
Theo đó, Luật La mã quy định về các loại hợp đồng cơ bản (mua bán, thuê, vay,
gửi giữ tài sản...), nghĩa vụ phát sinh từ hợp hợp đồng, ngoài hợp đồng, căn cứ
phát sinh thiệt hại và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đó, mức bồi thường từ hành
vi vi phạm hợp đồng.
Trong quan hệ tài sản mà Luật La Mã điều chỉnh, đặc điểm về mặt ý chí
của chủ thể được thể hiện như một điều kiện làm phát sinh trong quan hệ tài sản
giữa các chủ thể.
1.2.

Quan hệ nhân thân

Luật La Mã điều chỉnh quan hệ nhân thân giữa những công dân La Mã
với nhau, giữa công dân La Mã với người không có quốc tịch La Mã, giữa
công dân La Mã với những người không được coi là công dân La Mã (nô lệ).
Quan hệ này được thể hiện qua các quan hệ về quyền gia trưởng, về quyền
danh dự, uy tín, đổi họ của người phụ nữ khi kết hôn, xác định quyền công
dân La Mã cho đứa trẻ sinh ra....
Quan hệ nhân thân trong Luật La Mã không có sự bình đẳng trong quan hệ
vợ chồng, cha con: vợ và con hoàn toàn dưới quyền người cha; người cha có
quyền gia trưởng, còn người vợ, người con lại được coi là những người không
có quyền, không độc lập và trong chừng mực nhất định chỉ như tài sản của gia
chủ. Ví dụ như nếu người vợ bị chiếm đoạt, người chồng sẽ dùng phương thức
kiện đòi tài sản của vật quyền để đòi lại vợ; nếu gia đình thiếu nợ hoặc con gây
ra thiệt hại cho người khác, người cha gán con để trả nợ, bồi thường thay vì trả

nợ hay bồi thường bằng tiền hoặc của cải.
II. Vật quyền trong tư pháp La Mã
Vật quyền trong thời kì La Mã đã thật sự đã rất phát triển và hoàn thiện, và
những quy định trong pháp luật La Mã trong thời kì này thật sự đã rất hoàn
24


chỉnh và nó là nền tảng cho các quy định hiện hành cho pháp luật của đa số các
nước trên thế giới trong đó cả cả Việt Nam.
1. Chiếm hữu
Khái niệm
Chiếm hữu là việc thực hiện một quyền thể hiện thành các giao dịch vật
chất, các biểu hiện bên ngoài của giao dịch ấy, đồng thời cũng là biểu hiện bề
ngoài của quyền năng đối với vật. Đó là quan hệ thực tế giữa một người với một
vật. Người đó là người chiếm hữu, có thể là chủ sở hữu hoặc không phải là chủ
sở hữu đối với vật ấy. Đưới thời cổ đại, chiếm hữu (possessio)đồng nghĩa với
trực tiếp sử dụng (usus). Song dần dần quan niệm về chiếm hữu được trừu tuợng
hóa và trở thành biểu hiện bề ngoài của một quyền.
1.1.

Quan hệ thực tế

Đối tượng của sự chiếm hữu: việc chiếm hữu được xem là một tình trạng
trên thực tế vì thế việc chiếm hữu chỉ thực hiện đối với những tài sản hữu hình
và phải là những tài sản có thể sở hữu được. Vị vậy những tài sản không được
phép chuyển nhượng thì không thể chiếm hữu được.
Đối tượng chiếm hữu trong thời kì này vẫn còn nhiều bất cập và chưa thực
sự phù hợp. Vì thật sự một số tài sản không ở dạng hữu hình vẫn có thể chiếm
hữu được. Và tới thời kỳ cổ điển một số quyền đối vật ( như quyền hưởng hoa
lợi lợi tức,quyền sử dụng hạn chế đối với bất động sản liền kề) cũng có thể được

chiếm hữu như: người thu hoạch hoa lợi cho mình là người có quyền chiếm hữu
quyền hưởng hoa lợi, người thực hiện sử dụng bất động sản liền kề là người
chiếm hữu quyền sử dụng bất động sản liền kề đó.
1.1.1. Yếu tố vật chất của sự chiếm hữu
Chiếm hữu là một tình trạng thực tế, chiếm hữu là việc nắm giữ vật nào đó
về phương diện vật chất. Có nghĩa là là vật đó phải hữu hình và có thể cầm giữ
được vì đó chính là điều kiện cần thiết cho việc khai thác công dụng của vật.
Xác lập chiếm hữu thành một khái niệm
Yếu tố vật chất của việc chiếm hữu dần dần có xu hướng trở thành một
khái niệm. Ví dụ: có thể koi đã chiếm hữu một động sản khi người ta nhận lấy
25


×