Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Cơ sở lý luận, xã hội và những vấn đề thực tế để xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021.54 KB, 100 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





LÊ THU NGA








CƠ SỞ LÝ LUẬN, XÃ HỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TẾ
ĐỂ XÁC ĐỊNH DIỆN THỪA KẾ VÀ PHÂN CHIA HÀNG THỪA
KẾ THEO PHÁP LUẬT TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM NĂM 2005





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2009





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LÊ THU NGA





CƠ SỞ LÝ LUẬN, XÃ HỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TẾ
ĐỂ XÁC ĐỊNH DIỆN THỪA KẾ VÀ PHÂN CHIA HÀNG THỪA
KẾ THEO PHÁP LUẬT TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT
NAM NĂM 2005




Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Trung Tập





HÀ NỘI - 2009



1
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan



Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DIỆN THỪA KẾ VÀ
HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
7
1.1.
Khái niệm quyền thừa kế, diện thừa kế và hàng thừa kế theo
pháp luật
7
1.1.1.
Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế
7
1.1.2.
Thừa kế theo pháp luật
12
1.1.3.
Khái niệm diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật
15
1.2.
Mục tiêu điều chỉnh pháp luật các quan hệ thừa kế trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội và vai trò của các quy định về
diện và hàng thừa kế trong quan hệ pháp luật dân sự
20
1.2.1.

Điều chỉnh các quan hệ thừa kế trong quá trình phát triển
kinh tế, xã hội
20
1.2.2.
Các quy định về diện và hàng thừa kế trong quan hệ pháp
luật dân sự
22
1.3.
Những quy định về diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp
luật trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ phát triển
23
1.3.1.
Thời kỳ trước năm 1945
23
1.3.2.
Thời kỳ từ năm 1945 đến nay
27

Chương 2: DIỆN THỪA KẾ VÀ HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2005
39
2.1.
Các yếu tố tác động, chi phối việc xác định diện thừa kế và
39


2
phân chia hàng thừa kế
2.1.1.
Truyền thống lập pháp, phong tục tập quán

40
2.1.2.
Sở hữu tư nhân và quyền tự do kinh doanh
41
2.1.3.
Sự đa dạng của di sản thừa kế
42
2.1.4.
Truyền thống gia đình và vấn đề "Hiếu", "Nghĩa"
43
2.2.
Diện thừa kế theo pháp luật
46
2.2.1.
Thừa kế theo quan hệ huyết thống
46
2.2.2.
Thừa kế theo quan hệ hôn nhân
50
2.2.3.
Thừa kế theo quan hệ nuôi dưỡng
54
2.3.
Hàng thừa kế theo pháp luật
58
2.3.1.
Hàng thừa kế thứ nhất
59
2.3.2.
Hàng thừa kế thứ hai

62
2.3.3.
Hàng thừa kế thứ ba
65
2.3.4.
Trình tự hưởng di sản theo hàng
67
2.4.
Thừa kế thế vị
67

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ
DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN NAY
71
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện những quy định về diện thừa kế
và hàng thừa kế theo pháp luật
71
3.1.1.
Tác động của việc quản lý kinh tế của nước ta đến các giao
lưu dân sự
72
3.1.2.
Thực trạng áp dụng pháp luật về diện và hàng thừa kế theo
pháp luật
73
3.2.
Giải pháp hoàn thiện những quy định về diện thừa kế và hàng
thừa kế theo pháp luật

85
3.2.1.
Về người thừa kế theo pháp luật
86
3.2.2.
Về hàng thừa kế theo pháp luật
87
3.2.3.
Về thừa kế thế vị
89

KẾT LUẬN
90


3

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
93

























4
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng đưa ra
những mục tiêu, chính sách lớn phát triển, đổi mới toàn diện đất nước, xây
dựng Nhà nước pháp quyền với mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh". Để làm được những mục tiêu, chính sách lớn, Nhà
nước đã ban hành các văn bản pháp luật bảo vệ quyền lợi chính đáng của
công dân cũng như các nghĩa vụ cơ bản đối với đất nước nhằm tạo hành lang
pháp lý ổn định, lành mạnh, khuyến khích sự phát triển năng lực cá nhân, sức
mạnh của tập thể, khai thác tối đa tiềm năng con người.
Trong đời sống dân sự, vấn đề thừa kế có một ý nghĩa quan trọng. Tại
Điều 58 Hiến pháp 1992 quy định: "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp
và quyền thừa kế của công dân". Như vậy, "quyền thừa kế" được Hiến pháp
quy định là một quyền cơ bản của công dân.
Năm 1995, Bộ luật Dân sự được ban hành, trong đó tại phần thứ tư

"Thừa kế" đã cụ thể hóa Điều 58 Hiến pháp 1992 theo hướng kế thừa những
nội dung cơ bản của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 để quyền thừa kế của công
dân đi vào cuộc sống, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của cá nhân và mọi
tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Qua mười năm áp dụng, về cơ bản các tranh chấp về thừa kế đã được
giải quyết thỏa đáng, hợp tình, hợp lý. Tuy nhiên, do một số quy định của
phần "Thừa kế" trong Bộ luật Dân sự năm 1995 chưa phù hợp với sự phát
triển của kinh tế - xã hội và do thiếu các quy định cụ thể nên nhiều vụ việc
giải quyết không triệt để làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của
người được thừa kế.


5
Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời đã khắc phục đáng kể những thiếu sót
trước đây, nhiều lĩnh vực đã được quy định cụ thể, đầy đủ hơn, phản ánh trình
độ và kỹ thuật lập pháp ở nước ta về lĩnh vực dân sự nói chung và lĩnh vực thừa
kế nói riêng đã đạt trình độ cao và phù hợp hơn với thực tế đời sống xã hội.
Tuy đã có những quy định tương đối chi tiết, cụ thể so với hệ thống văn
bản pháp luật về thừa kế trước đây nhưng do tính chất phức tạp của loại quan hệ
này, thực tiễn áp dụng pháp luật về thừa kế, trong đó có việc áp dụng những quy
định về diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự năm
2005 cho thấy những quy phạm của chế định này vẫn còn những bất cập, chưa
thực sự đáp ứng được những tình huống phát sinh của quan hệ thừa kế, các
tranh chấp về thừa kế vẫn tiếp tục gia tăng và có những diễn biến phức tạp.
Do vậy, việc nghiên cứu để tìm hiểu, lý giải bản chất pháp lý của các
quy định về thừa kế theo pháp luật nói chung, diện và hàng thừa kế theo pháp
luật nói riêng trong Bộ luật Dân sự, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện
để góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thừa kế là vấn đề
mang tính cần thiết. Đây cũng chính là lý do luận chứng cho việc chúng tôi
quyết định lựa chọn đề tài "Cơ sở lý luận, xã hội và những vấn đề thực tế để

xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ
luật Dân sự Việt Nam năm 2005" cho luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, các đề tài nghiên cứu về thừa kế tương đối nhiều, đề cập
đến các khía cạnh khác nhau của chế định thừa kế. Việc nghiên cứu được thực
hiện ở các cấp độ khác nhau như: Các khóa luận cử nhân, luận văn cao học,
các luận án tiến sĩ.
- Luận án tiến sĩ:
+ Tác giả Phùng Trung Tập với đề tài: "Thừa kế theo pháp luật của
công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay".


6
+ Tác giả Phạm Văn Tuyết với đề tài: "Thừa kế theo di chúc trong Bộ
luật Dân sự Việt Nam".
+ Tác giả Nguyễn Minh Tuấn với đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn
của những quy định chung về thừa kế trong Bộ luật Dân sự".
- Luận văn cao học:
+ Tác giả Nguyễn Thị Vĩnh với đề tài: "Thừa kế theo pháp luật trong
Bộ luật Dân sự Việt Nam".
+ Tác giả Nguyễn Thị Hồng Bắc với đề tài: "Một số vấn đề thừa kế
theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam".
+ Tác giả Phan Thị Kim Chi với đề tài: "Diện và hàng thừa kế theo
quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005".
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu, bài viết về thừa kế trong
các tạp chí như: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp
chí Luật học, Tạp chí Dân chủ và pháp luật…
Tuy nhiên, về "Cơ sở lý luận, xã hội và những vấn đề thực tế để xác
định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật
Dân sự Việt Nam năm 2005" chưa có công trình nghiên cứu, bài viết nào tiếp

cận một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống. Đặc biệt, với sự ra đời của
Bộ luật Dân sự năm 2005, hiện nay nhiều vấn đề lý luận cần tiếp tục được
nghiên cứu, hoàn thiện và thực tiễn áp dụng những quy định về diện và hàng
thừa kế theo pháp luật đã và đang phát sinh thêm những bất cập mới.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Thừa kế theo pháp luật là một trong hai hình thức thừa kế được pháp
luật Việt Nam quy định. Khác với hình thức thừa kế theo di chúc thể hiện sự
định đoạt tài sản của người có tài sản trước khi chết thì thừa kế theo pháp
luật lại mang tính nguyên tắc với các quy định của Nhà nước, các điều kiện,


7
trình tự, thủ tục về thừa kế phải theo quy định của pháp luật về diện và hàng
thừa kế.
Thực tế có nhiều trường hợp người có di sản không lập di chúc trước
khi chết hoặc có lập di chúc nhưng di chúc bị thất lạc, di chúc không hợp
pháp một phần hay toàn bộ, những người được chỉ định làm người thừa kế
theo di chúc từ chối quyền nhận di sản hoặc bị tước quyền hưởng di sản Như
vậy, giải quyết thừa kế trong những trường hợp này phải được thực hiện theo
điều kiện và trình tự pháp luật quy định. Những quy định của pháp luật về diện
và hàng thừa kế đóng vai trò rất quan trọng, phải thể hiện được ý chí của Nhà
nước phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, luôn phải đảm bảo truyền thống
đoàn kết, tương thân, tương ái của các thành viên trong gia đình, sự công
bằng của xã hội, đặc biệt là đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Pháp lệnh Thừa kế ban hành ngày 30/8/1990 đã đáp ứng được các yêu
cầu giải quyết tranh chấp về thừa kế trong đầu những năm đất nước đi vào đổi
mới toàn diện theo mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra. Đặc biệt, ngày
28/10/1995 Bộ luật Dân sự Việt Nam đầu tiên được ban hành, đánh dấu bước
phát triển mạnh mẽ của pháp luật dân sự kể từ xưa đến nay. Tiếp đến là Bộ
luật Dân sự năm 2005, với sự kế thừa và hoàn thiện các quy định về thừa kế

trước đây đã khắc phục những hạn chế, thiếu sót, bổ sung các quy phạm mới
nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Từ lý do trên, nghiên cứu đề tài "Cơ sở lý luận, xã hội và những vấn
đề thực tế để xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật
trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005" để thấy được: Sự hoàn thiện của
Bộ luật Dân sự trong việc quy định diện và hàng thừa kế theo pháp luật, đánh
dấu bước phát triển của pháp luật về thừa kế của nước ta trong thời kỳ đổi
mới, hội nhập và phát triển. Mặt khác, thông qua việc nghiên cứu đề tài nhằm
hoàn thiện nội dung khoa học các quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp
luật trong Bộ luật Dân sự hiện hành. Phân tích nội dung các quy định về diện


8
và hàng thừa kế góp phần làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của các quy
định trên, tìm ra những bất cập, hạn chế của các quy định về diện và hàng
thừa kế, đề xuất hướng hoàn thiện những quy định này trong Bộ luật Dân sự
năm 2005.
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn nghiên cứu các vấn đề sau:
- Những vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế theo pháp luật.
- Các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội tác động, ảnh hưởng
đến việc xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật.
- Nội dung quy định về diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật
trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
- Thực tiễn áp dụng các quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài
Kế thừa và phát triển luật dân sự Việt Nam trước đây, Bộ luật Dân sự
năm 2005 đã quy định "Thừa kế" là một chế định quan trọng. Với những quy
định cụ thể và chi tiết về thừa kế, đặc biệt là sự bổ sung, mở rộng hơn trong
các quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật, Bộ luật Dân sự năm
2005 đã góp phần đảm bảo xã hội ổn định, phát triển, phát huy truyền thống

đoàn kết, tương thân, tương ái của người thân trong gia đình, họ tộc.
Kết quả nghiên cứu về "Cơ sở lý luận, xã hội và những vấn đề thực tế
để xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ
luật Dân sự Việt Nam năm 2005" đóng góp vào việc bổ sung và hoàn thiện
những vấn đề lý luận của các quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật,
tạo cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện phần thứ tư của Bộ luật Dân sự.
Phân tích nội dung quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật
giúp chúng ta hiểu sâu hơn, chính xác hơn về những quy phạm pháp luật điều
chỉnh nhóm quan hệ thừa kế, một nhóm quan hệ xã hội trên thực tế luôn có


9
nhưng diễn biến đa dạng, phức tạp, đồng thời tạo cơ sở pháp lý quan trọng,
kịp thời, cần thiết cho việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế trong thực
tiễn nhanh chóng, công minh, khách quan, đúng pháp luật.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để tiếp cận đề tài: "Cơ sở lý luận xã hội và những vấn đề thực tế để
xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật
Dân sự Việt Nam năm 2005", để đạt được những mục tiêu nghiên cứu, xuất
phát từ các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp quy nạp.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về diện thừa kế và hàng thừa kế theo
pháp luật

Chương 2: Diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật
Dân sự Việt Nam năm 2005.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện những quy định về diện và hàng thừa
kế theo pháp luật Việt Nam hiện hành.


10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DIỆN THỪA KẾ
VÀ HÀNG THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT

1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN THỪA KẾ, DIỆN THỪA KẾ VÀ HÀNG THỪA
KẾ THEO PHÁP LUẬT
1.1.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế
Thừa kế là một quan hệ xã hội, là việc chuyển dịch tài sản của người
đã chết cho những người còn sống. Thừa kế xuất hiện đồng thời với quan hệ
sở hữu và quá trình phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của lịch sử loài
người. Thừa kế tài sản trong xã hội nguyên thủy là sự kế thừa mang tính tự
nhiên, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của gia đình, thị tộc và xã hội.
Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người đã xuất hiện quan hệ sở
hữu, do vậy, thừa kế đã có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ này. Ở
thời kỳ đầu của xã hội cộng sản nguyên thủy, những điều kiện về kinh tế, xã
hội và hôn nhân phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc,
nên việc thừa kế nhằm di chuyển tài sản của người đã chết cho những người
còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống, những phong tục tập
quán của thị tộc và được tổ chức theo chế độ mẫu hệ (hay mẫu quyền).
Khi nghiên cứu về nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà
nước, Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng: "Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào
mà dòng dõi chỉ tính theo bên mẹ và tập quán kế thừa lúc ban đầu trong thị
tộc thì chỉ những người thân trong thị tộc mới được kế thừa những thành viên

đã chết trong thị tộc. Tài sản phải được giữ lại trong nội bộ thị tộc đó" [1, tr. 91].
Như vậy, vào thời kỳ nguyên thủy, việc thừa kế được hình thành theo
tập quán của thị tộc. Tài sản của thị tộc do người mẹ quản lý, khi người mẹ


11
chết thì di chuyển cho những người thân thích trong thị tộc và tài sản của thị
tộc được lưu truyền đời này qua đời khác. Đây chính là hình thức thừa kế đầu
tiên của xã hội loài người về tư liệu sản xuất nhằm tiếp tục duy trì cuộc sống
chung cho thị tộc. Sự kế thừa tài sản trong thị tộc theo chế độ mẫu hệ đã đặt
nền móng ban đầu cho sự hình thành và phản ánh tính tất yếu của việc thừa kế
tài sản theo huyết tộc.
Dần dần, sự phát triển ngày càng cao của nền sản xuất xã hội làm thay
đổi địa vị của người phụ nữ. Sự xuất hiện của ngành nông nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt đòi hỏi sức lực và trí tuệ của những người
đàn ông, vì thế sản phẩm lao động do họ làm ra không những đủ nuôi sống
gia đình mà bắt đầu có tích lũy. Vì vậy, địa vị gia đình của người đàn ông dần
dần được thiết lập. Từ đó trong quan hệ gia đình xác lập huyết thống theo họ
cha và chế độ gia đình phụ hệ thay thế cho mẫu hệ. "Thế là dòng dõi tính theo
đằng mẹ và quyền kế thừa của người mẹ bị xóa bỏ, dòng dõi tính theo đằng
cha và quyền kế thừa của người cha được xác lập. Cuộc cách mạng đó đã xảy
ra ở các dân tộc văn minh, vào lúc nào và như thế nào, điều đó chúng ta hoàn
toàn không rõ" [1, tr. 92].
Như vậy, tương ứng với từng giai đoạn phát triển của lịch sử loài
người là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của hình thức gia đình, sự thay
đổi quan hệ sở hữu và theo đó quan hệ thừa kế cũng thay đổi. Ngay từ khi
Nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế đã
tồn tại như một tất yếu khách quan và nó thuộc về phạm trù kinh tế. Thừa kế
xuất hiện phụ thuộc vào chế độ sở hữu, bản chất của quan hệ thừa kế do chế
độ sở hữu quyết định. Nếu sở hữu là yếu tố đầu tiên để xuất hiện quan hệ thừa

kế thì thừa kế là phương tiện duy trì, củng cố và phát triển quan hệ sở hữu.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cải xã hội ngày
càng được làm ra nhiều hơn và có dư thừa. Đời sống trong mỗi gia đình và xã
hội đã có sự thay đổi. Những người có địa vị trong thị tộc, bộ lạc đã lợi dụng


12
chức phận để chiếm đoạt một phần sản phẩm của thị tộc. Những người đó đã
trở thành những người giàu có trong xã hội và xã hội nguyên thủy bắt đầu tan
rã, xã hội có giai cấp đã xuất hiện. Sự phân hóa này về cơ bản dựa theo mức
độ, giá trị tài sản, tư liệu sản xuất mà các tầng lớp người trong xã hội chiếm
hữu được khác nhau, từ đó hình thành nên chế độ tư hữu về tài sản. Hình thức
thừa kế phù hợp với chế độ tư hữu về tài sản hình thành, đánh dấu bước ngoặt
mới trong quan hệ tài sản và quan hệ thừa kế tài sản.
Từ khi Nhà nước ra đời cùng với sự phân chia xã hội thành giai cấp và
chế độ tư hữu được hình thành, việc chiếm giữ những của cải vật chất giữa
người với người được điều chỉnh bằng pháp luật theo hướng có lợi cho giai
cấp thống trị xã hội. Thông qua những quy phạm pháp luật, Nhà nước điều
chỉnh quan hệ thừa kế trong việc xác định phạm vi chủ thể, nội dung, hình
thức, điều kiện chuyển dịch tài sản thừa kế và những vấn đề khác có liên quan
đến việc thừa kế tài sản.
Với những phân tích trên có thể thấy, thừa kế tài sản là một phạm trù
pháp luật, xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và phát triển của xã hội
có phân chia giai cấp dựa trên cơ sở tư hữu về tài sản, thể hiện ở sự dịch
chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống theo trình tự, thủ tục
pháp luật quy định.
Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước dùng pháp luật điều chỉnh quan hệ
thừa kế, vì vậy quan hệ thừa kế là đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Như
vậy, để phát sinh quan hệ pháp luật thừa kế, khái niệm quyền thừa kế mới
xuất hiện. Nếu thừa kế là nhóm những quan hệ xã hội phát sinh ngay cả trong

một xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa có nhà nước thì quyền thừa kế chỉ
có thể phát sinh trong một xã hội có nhà nước và có pháp luật.
Quyền thừa kế được hiểu là một bộ phận của chế định thừa kế, do vậy
nó chứa đựng những yếu tố, tính chất, đặc điểm của một chế định pháp luật.
Nếu chế định thừa kế điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực thừa kế thì


13
quyền thừa kế là chế định pháp luật, là tổng hợp các quy phạm pháp luật về
thừa kế, quy định việc bảo vệ và điều chỉnh việc chuyển tài sản và quyền tài
sản của người chết cho những người sống. Quyền thừa kế với tư cách là một
chế định pháp luật của Nhà nước, xuất hiện trên cơ sở sự chấm dứt quyền sở
hữu của một người (đã chết) và sự chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm tài
sản của người chết cho người còn sống có quyền.
Các hình thức dịch chuyển di sản của một người đã chết cho những
người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật là những cơ sở xác lập quyền
sở hữu đối với di sản của người được hưởng thừa kế hợp pháp. Như vậy, giữa
quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế có mối liên hệ hữu cơ với nhau, từ chỗ
pháp luật quy định cho cá nhân có quyền sở hữu tài sản của mình bằng những
quyền năng cụ thể như chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, thì dựa vào đó pháp
luật cũng quy định cho họ có quyền năng trong lĩnh vực thừa kế. Trong các xã
hội dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì pháp luật thừa kế
cũng chủ yếu duy trì chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do đó có thể
nói rằng quyền sở hữu là tiền đề, là cơ sở để từ đó xuất hiện các quyền năng
về thừa kế. Nếu quyền thừa kế là quyền năng cụ thể của công dân trong việc
để lại và nhận di sản thừa kế, thì những quyền năng cụ thể này là kết quả tất
yếu của những quyền năng trong quyền sở hữu. Chính thông qua việc thừa kế
di sản, những người hưởng thừa kế trở thành chủ sở hữu đối với tài sản đó.
Họ có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với các tài sản mà họ được
thừa kế.

Như vậy, quyền sở hữu và quyền thừa kế có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Hình thức sở hữu quyết định việc thừa kế trong xã hội, do đó, quyền
thừa kế mang bản chất giai cấp sâu sắc. Trong chế độ phong kiến và tư sản,
giai cấp bóc lột chiếm hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì di
sản của họ để lại cho con cháu không chỉ truyền lại về quyền lực kinh tế mà
truyền lại quyền lực chính trị để duy trì sự áp bức, bóc lột của những giai cấp


14
đó đối với nhân dân lao động. Chức năng xã hội của pháp luật thừa kế trong
xã hội bóc lột là nhằm duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác các quan hệ tư
hữu về tư liệu sản xuất và bằng chính cách đó đảm bảo cho giai cấp thống trị
khả năng chiếm hữu thành quả lao động của người khác nhờ có sở hữu của mình.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, chế định thừa kế bảo vệ phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó, một số nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng và
vô chính phủ đã truyền bá những quan điểm sai lầm về khả năng cải tạo xã
hội tận gốc rễ chỉ bằng cách hủy bỏ thừa kế. Họ khẳng định, hủy bỏ quyền sở
hữu tư bản chủ nghĩa chính là đi đến tiêu diệt chế độ tư bản chủ nghĩa, bởi vì
tư bản sẽ không được chuyển giao theo thừa kế. Các quan điểm này đã bị các
nhà mácxít tiền bối phê phán kịch liệt và chứng minh rằng quyền thừa kế
không phải là nguyên nhân mà là hậu quả của sự bất công về xã hội và kinh tế
trong một xã hội dựa trên tư hữu. Bởi vậy, hủy bỏ thừa kế không thể là cơ sở
để cải tạo xã hội. Công cuộc cải tạo đó chỉ có thể đạt được bằng cách xóa bỏ
xã hội bóc lột và quyền tư hữu tư liệu sản xuất.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã
hội thuộc về nhân dân lao động, vì vậy, chế độ thừa kế trước hết nhằm đảm bảo
cho người lao động yên tâm, tích cực phấn khởi lao động sản xuất để được
hưởng thành quả lao động của mình, chuyển thành quả đó cho người thừa kế.
Ở nước ta, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,
Nhà nước dân chủ cộng hòa non trẻ đứng trước nhiệm vụ cấp thiết phải xóa

bỏ hệ thống pháp luật thực dân phong kiến và xây dựng hệ thống pháp luật
mới của nhân dân lao động trong đó có pháp luật về thừa kế. Chức năng xã
hội của pháp luật thừa kế từ lúc này đảm bảo cho việc thiết lập một trật tự xác
định người nào có thể thay thế người đã chết tham gia vào quan hệ tài sản, và
bằng cách nào đó bảo đảm cho người lao động yên tâm sản xuất tạo ra nhiều
của cải vật chất thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình và chuyển những
thành quả đó cho những người thừa kế của mình sau khi chết.


15
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta, với chính sách xây dựng nhiều
thành phần kinh tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, do đó quyền thừa kế là một trong
những quyền cơ bản của công dân được Nhà nước bảo hộ. Công dân có quyền
để lại tài sản gắn với quyền sở hữu và trong một số trường hợp gắn liền với
quyền sử dụng tài sản cho cá nhân hoặc tổ chức theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Công dân có quyền sở hữu
về thu nhập hợp pháp của cải để dành…Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp
pháp và quyền thừa kế của công dân" [18].
Như vậy, trong các chế độ xã hội khác nhau, con người đều có quyền
thừa kế tài sản, tuy nhiên phạm vi quyền thừa kế được bảo hộ thế nào do bản
chất chế độ xã hội quyết định. Pháp luật của các nhà nước đều quy định cá nhân
có quyền để lại di sản và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Với tư cách là một chế định pháp luật về thừa kế, quyền thừa kế là
tổng hợp các quy định của Nhà nước, quy định những tài sản nào được
chuyển dịch, phạm vi chủ thể để lại di sản và nhận di sản, quyền, nghĩa vụ của
các chủ thể. Đồng thời quy định trình tự, phương thức phân chia di sản theo di
chúc và theo pháp luật.
1.1.2. Thừa kế theo pháp luật
Từ khi xuất hiện Nhà nước và pháp luật, đặc biệt là khi có Bộ luật cổ

La Mã đến nay, pháp luật về thừa kế quy định có hai hình thức thừa kế, đó là
thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết
cho những người khác còn sống theo sự định đoạt của người lập di chúc. Việc
định đoạt của người có tài sản được thể hiện trong di chúc là căn cứ để những
người được chỉ định trong di chúc hưởng di sản khi người lập di chúc chết.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp di chúc làm phát sinh các quan hệ


16
pháp luật về thừa kế. Thực tiễn cuộc sống cho thấy có những trường hợp tuy có
di chúc nhưng ý chí định đoạt di sản của người có di sản không được bảo đảm
như bị cưỡng ép hay tạm thời bị mất năng lực hành vi dân sự khi lập di chúc;
hoặc sự định đoạt của họ không phù hợp với các quy định của pháp luật; hoặc ý
chí định đoạt đó thể hiện không đầy đủ đối với khối di sản mà họ có, vì vậy
không thể phân chia di sản theo di chúc của người có di sản để lại. Trong trường
hợp này, theo quy định của pháp luật, di sản thừa kế sẽ được để lại cho những
người còn sống có quan hệ thân thích theo điều kiện, trình tự hàng thừa kế,
nói cách khác, việc chia di sản sẽ thực hiện theo ý chí của Nhà nước, không
phụ thuộc vào ý chí của người để lại di sản. Đó chính là thừa kế theo pháp luật.
Như vậy, thừa kế di sản theo pháp luật được thực hiện trong trường
hợp người chết không để lại di chúc hoặc tuy có để lại di chúc nhưng di chúc
không hợp pháp, di chúc không thể thực hiện được. Pháp luật về thừa kế của
các nước trên thế giới đều quy định chung về căn cứ để xác định thừa kế theo
pháp luật. Tuy nhiên, ở mỗi nước quy định những căn cứ để xác định thừa kế
theo pháp luật có sự khác nhau.
Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định tại Điều 1620: "Khi
một người qua đời không để lại di chúc hoặc đã làm di chúc nhưng di chúc của
người đó không có hiệu lực, thì toàn bộ tài sản của người đó sẽ được phân chia
cho những người thừa kế theo pháp luật" [10]; "Khi một người qua đời có để lại

di chúc mà di chúc đó định đoạt, hoặc chỉ có hiệu lực đối với một phần tài sản của
người đó, thì phần tài sản không được định đoạt hoặc không bị tác động bởi di chúc
đó phải được chia chho những người thừa kế theo pháp luật của người đó" [10].
Theo Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan, những căn cứ để chia
thừa kế theo pháp luật gồm:
- Người chết không để lại di chúc;
- Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần;
- Phần tài sản không được định đoạt trong di chúc.


17
Ở Việt Nam, những trường hợp thừa kế theo pháp luật được quy định
tại Điều 675 Bộ luật Dân sự năm 2005, cụ thể:
- Không có di chúc;
- Di chúc không hợp pháp;
- Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di
chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
- Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà
không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản;
- Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
- Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực
pháp luật;
- Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng
họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức
được hưởng di sản theo di chúc nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.
Như vậy, giữa hai hình thức thừa kế có mối quan hệ nhất định, đó là
các mối quan hệ mang tính loại trừ. Thừa kế theo pháp luật được thực hiện khi:
- Không có hình thức thừa kế theo di chúc;

- Có hình thức thừa kế theo di chúc nhưng người có tài sản lập di chúc
chỉ định đoạt một phần tài sản;
- Có di chúc nhưng di chúc không thực hiện được (trong các trường
hợp người được thừa kế theo di chúc không có quyền hưởng di sản, từ chối
quyền hưởng di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc nhưng không còn vào
thời điểm mở thừa kế).


18
Nếu thừa kế theo di chúc là sự dịch chuyển tài sản của một người theo
ý chí của người đó khi còn sống cho người được chỉ định bằng di chúc là bất
kỳ ai (kể cả tổ chức và Nhà nước) thì thừa kế theo pháp luật chỉ là cá nhân và
được pháp luật quy định trong số những người thuộc diện thừa kế của người
để lại di sản. Những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được pháp luật
chỉ định hưởng di sản theo trật tự ưu tiên là hàng thừa kế. Hưởng di sản theo
trật tự hàng thừa kế tuân theo nguyên tắc pháp luật, hàng trước loại trừ hàng
sau trong việc hưởng di sản. Tuy nhiên, người thuộc hàng thừa kế phải là
người có quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật.
Có thể nói, thừa kế theo pháp luật là một trong hai hình thức thừa kế
do pháp luật quy định vừa bảo đảm quyền đương nhiên của người có tài sản
được để lại tài sản sau khi chết, vừa bảo vệ quyền của những người thuộc diện
thừa kế của người có tài sản để lại. Đây là hình thức thừa kế truyền thống
được bảo tồn trong quá trình phát triển của xã hội loài người nhằm củng cố cơ
sở vật chất của mối quan hệ huyết thống, gia đình.
1.1.3. Khái niệm diện thừa kế và hàng thừa kế theo pháp luật
1.1.3.1. Khái niệm diện thừa kế theo pháp luật
Một trong những vấn đề chính yếu của thừa kế theo pháp luật là việc
xác định phạm vi những người có quyền thừa kế theo pháp luật. Tính đến thời
điểm hiện nay, pháp luật thừa kế của nước ta chưa từng có quy định như thế

nào là diện thừa kế. Tuy nhiên, căn cứ vào những người thừa kế trong các
hàng thừa kế, việc xác định diện thừa kế theo pháp luật được làm rõ vì diện
thừa kế theo pháp luật chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp luật.
Về diện thừa kế, qua các chế độ xã hội khác nhau nhưng cùng có
điểm chung là do quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và quan hệ hôn
nhân chi phối. Mặt khác, phạm vi những người có quyền hưởng di sản thừa kế
theo pháp luật còn phụ thuộc vào quan điểm lập pháp qua các thời kỳ lịch sử


19
của một quốc gia nhất định. Căn cứ vào quan điểm lập pháp mà phạm vi
những người có quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật được quy định ở
diện rộng, hẹp khác nhau.
Ở nước ta, trước năm 1945, dưới chế độ thực dân, phong kiến với ý
thức bảo vệ chế độ tư hữu tài sản nhằm duy trì sự bóc lột của mình, giai cấp
thống trị đề cao quyền tư hữu và xem đó là quyền thiêng liêng nhằm duy trì
quan hệ nội tộc, do đó quan hệ huyết thống luôn được đề cao và là cơ sở quan
trọng nhất trong việc xác định những người có quyền thừa kế theo pháp luật
Dưới chế độ dân chủ nhân dân kể từ năm 1945 đến nay, diện thừa kế
ngày càng được mở rộng xét theo quan hệ huyết thống. Pháp luật thừa kế của
nhà nước ta đã xóa bỏ những tàn tích của chế độ phong kiến trong việc xác
định diện thừa kế theo pháp luật. Quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa
các con trong gia đình đã được pháp luật quy định nhằm loại bỏ tư tưởng gia
trưởng, trọng nam khinh nữ, bảo vệ quyền thừa kế của người vợ góa và người
con gái đã kết hôn. Người vợ góa dù đã kết hôn với người khác vẫn thuộc
diện thừa kế theo pháp luật của chồng đã chết. Đây là một quy định có tính
cách mạng, nó không những làm thay đổi quan hệ trong xã hội mà còn thay
đổi tận gốc tư tưởng "xuất giá tòng phu", đồng thời bảo vệ trực tiếp quyền
thừa kế của người vợ góa, mà trước đó người vợ góa đã kết hôn không thể có
được quyền này.

Các nguyên tắc cơ bản trong việc xác định diện thừa kế theo pháp luật
được dựa trên cơ sở hiến định. Điều 9 Hiến pháp năm 1946 quy định: "Đàn bà
ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện". Theo những nguyên tắc
chung được quy định trong Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950, theo những
hướng dẫn trong các Thông tư số 1742-BNC ngày 18/9/1956 của Bộ Tư pháp,
Thông tư số 594-NCPL ngày 27/8/1968 của Tòa án nhân dân tối cao ghi nhận
quyền bình đẳng của vợ, chồng trong gia đình, quyền bình đẳng giữa nam, nữ
trong việc hưởng di sản; các con của người để lại di sản không phân biệt giới


20
tính, độ tuổi, có năng lực hành vi hay không có năng lực hành vi dân sự đều
thuộc diện thừa kế theo pháp luật và họ được thừa kế tại hàng thừa kế thứ
nhất, được hưởng phần di sản ngang nhau. Nếu pháp luật của chế độ phong
kiến luôn coi trọng quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và lấy đó làm
căn cứ để quy định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật, thì pháp luật
thừa kế của chế độ dân chủ, nhân dân ở nước ta còn coi trọng quan hệ hôn
nhân và theo đó, diện thừa kế theo pháp luật còn bao gồm vợ, chồng của
người để lại di sản. Đặc biệt, kể từ khi Pháp lệnh Thừa kế ngày 30/8/1990 và
Bộ luật Dân sự năm 1995 được ban hành, diện thừa kế theo pháp luật đã được
mở rộng theo quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ. Diện thừa kế theo pháp
luật còn được mở rộng hơn nữa khi Bộ luật Dân sự năm 2005 được ban hành.
Căn cứ vào quy định các hàng thừa kế tại Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005,
diện những người thừa kế theo pháp luật đã được mở rộng hơn so với quy
định về diện thừa kế theo pháp luật được quy định tại Bộ luật Dân sự năm
1995. Bề trên có các cụ nội, ngoại; ông bà nội, ngoại; bố, mẹ, chú, bác, cô, dì,
cậu ruột của người để lại di sản; ngang bậc có vợ, chồng; anh, chị, em ruột
của người để lại di sản; bề dưới có các cháu, các chắt và các cháu ruột mà
người để lại di sản là chú, bác, cô, dì, cậu ruột.
Theo quy định tại Điều 635 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người thừa

kế theo pháp luật chỉ là cá nhân và phải là người còn sống vào thời điểm mở
thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành
thai trước khi người để lại di sản chết. Về nguyên tắc, di sản phải được di
chuyển cho người còn sống, do vậy, người sinh ra mà không còn sống thì
không thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề xác định khái
niệm sinh ra và còn sống trên thực tiễn phải được quy định rõ, bởi nó ảnh
hưởng rất lớn đến kỷ phần thừa kế của những người khác. Hiện tại, Bộ luật
Dân sự hiện hành chưa có quy định cụ thể về vấn đề trên nên hầu hết trên
thực tế, khi giải quyết vấn đề này thì áp dụng Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày
10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch. Ngoài ra, theo Khoản 3 Điều 14


21
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "Năng lực pháp luật của cá nhân có từ khi
người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết". Tuy nhiên, người đã thành
thai trước khi người để lại di sản chết và sinh ra còn sống thì thuộc diện thừa
kế theo pháp luật.
Để xác định phạm vi những người có quyền hưởng di sản thì phải căn
cứ trên ba mối quan hệ: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi
dưỡng. Những người này có mối quan hệ gần gũi, thân thuộc nhất đối với
người để lại di sản. Tuy nhiên, không phải tất cả những người này đều được
quyền hưởng di sản của người chết để lại. Nếu những người trong phạm vi
những người thừa kế di sản có hành vi vi phạm pháp luật theo Điều 643 Bộ
luật Dân sự năm 2005 thì họ sẽ không có quyền hưởng di sản.
Việc xác định diện thừa kế theo pháp luật là việc rất quan trọng, bởi
đó là cơ sở để xác định những người có quyền hưởng di sản thừa kế, người
không có quyền hưởng di sản và đảm bảo quyền, lợi ích của các chủ thể khác
trong mối quan hệ thừa kế. Mặt khác, việc xác định đúng những trường hợp
thuộc diện thừa kế theo pháp luật sẽ ngăn chặn được những hành vi lừa dối,
trái pháp luật nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.

Pháp luật bao giờ cũng là sự phản ánh của một chế độ xã hội nên chế
định thừa kế cũng mang tính chất lịch sử qua từng thời kỳ nhất định. Xuất
phát từ đặc điểm này cũng như đã nhận định ở trên: Cách xác định diện thừa
kế của nước ta qua từng thời kỳ khác nhau nhưng đều có đặc điểm chung là
do quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng và quan hệ gia đình chi phối. Tuy
nhiên, trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội thì quan điểm lập pháp
cũng không giống nhau nên những quy định về việc xác định diện thừa kế
theo pháp luật cũng ở mức độ rộng, hẹp khác nhau.
Qua những phân tích về diện thừa kế theo pháp luật có thể nhận định:
Diện thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người có quyền hưởng
di sản thừa kế được chia theo pháp luật mà khi còn sống người để lại di sản có


22
mối quan hệ huyết thống. quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng với những
người trong phạm vi thuộc một hoặc các mối quan hệ đó.
1.1.3.2. Khái niệm hàng thừa kế theo pháp luật
Diện thừa kế theo pháp luật là là phạm vi những người có quyền hưởng
di sản thừa kế được chia theo pháp luật. Như vậy, không phải mọi cá nhân
thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều được hưởng di sản thừa kế mà việc
hưởng di sản thừa kế luôn được xác định theo trình tự hàng.
Luật thực định của các nước đều có quy định các hàng thừa kế song
chưa có quy định thế nào là hàng thừa kế. Tuy nhiên, khái niệm này cũng ít
nhiều được đề cập tới trong một số tài liệu chuyên khảo.
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học: "Hàng thừa kế là nhóm
người có quan hệ cùng tính chất gần gũi với người để lại di sản" [40, tr. 64].
Khái niệm này đã nêu bật vấn đề cơ bản là hàng thừa kế theo pháp luật luôn
luôn bao gồm những người có quan hệ gần gũi với người để lại di sản.
Theo Từ điển Luật học: "Trong trường hợp không có di chúc thì hàng thừa
kế là thứ tự ưu tiên hưởng di sản theo quy định của pháp luật" [43, tr. 182-183].

Định nghĩa đã hàm chứa trong nó yêu cầu phân chia những người thuộc diện
thừa kế thành các hàng thừa kế khác nhau với mức ưu tiên hưởng di sản khác
nhau. Tuy nhiên, quan điểm này chưa hợp lý ở chỗ: không chỉ có trường hợp
không có di chúc thì vấn đề thừa kế theo pháp luật mới được đặt ra. Nhiều
trường hợp, mặc dù người để lại thừa kế có để lại di chúc nhưng di chúc đó
không được thực hiện hoặc không thực hiện được thì việc phân chia di sản
thừa kế cũng phải được tiến hành theo hình thức thừa kế theo pháp luật. Như
vậy, khái niệm này đã không bao quát hết các trường hợp thừa kế theo pháp luật.
Có thể nói, hàng thừa kế là một khái niệm động và mang tính lịch sử,
Các nước khác nhau có những quy định khác nhau về hàng thừa kế, thậm chí
trong cùng một quốc gia nhưng vào những thời điểm cụ thể lại quy định số lượng


23
hàng thừa kế khác nhau. Trên thực tế, từng hàng thừa kế đôi khi còn bao gồm
nhiều đối tượng, có những người có quan hệ thân thích tương đồng với người
để lại di sản thừa kế, có khi lại không tương đồng. Nguyên tắc phân chia di
sản trong cùng một hàng và giữa các hàng cũng có thể không đồng nhất. Vì
vậy, khó có thể đưa ra một định nghĩa đúng với mọi hoàn cảnh, mọi thời kỳ.
Tuy nhiên, trong phạm vi của đề tài nghiên cứu về cơ sở lý luận, thực
tiễn để xác định diện thừa kế và phân chia hàng thừa kế của pháp luật Việt
Nam hiện hành, có thể hiểu một cách chung nhất về hàng thừa kế như sau:
Hàng thừa kế là thứ tự những người thuộc diện thừa kế được hưởng di
sản theo quy định của pháp luật, những người này có quyền ngang nhau
trong việc nhận di sản. Các hàng thừa kế được sắp xếp theo một trật tự tuyệt
đối trên nguyên tắc những người ở hàng thừa kế trước có mối quan hệ thân
thích gần gũi hơn với người để lại di sản so với những người ở hàng thừa kế
sau và việc hưởng di sản của hàng thừa kế trước loại trừ quyền hưởng di sản
của hàng thừa kế sau.
1.2. MỤC TIÊU ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT CÁC QUAN HỆ THỪA KẾ

TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC QUY
ĐỊNH VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1.2.1. Điều chỉnh các quan hệ thừa kế trong quá trình phát triển
kinh tế, xã hội
Trong mỗi quốc gia, pháp luật luôn đóng vai trò quan trọng, là công
cụ điều hành và quản lý xã hội của Nhà nước, đồng thời là phương tiện không
thể thiếu nhằm hướng dẫn các cá nhân, chủ thể trong xã hội thực hiện các
hành vi xử sự đúng theo quy định, vừa đảm bảo được lợi ích của cá nhân, vừa
đảm bảo lợi ích chung của xã hội.
Pháp luật dân sự luôn có vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật,
với mục tiêu chính là điều chỉnh các quan hệ tài sản nhằm thúc đẩy phát triển

×