Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Biện pháp dạy học phát huy tính tích cực trong môn toán lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.3 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
PhầnI:

Trang

Đặt vấn đề

1

PhầnII: Giải quyết vấn đề

3

1. Thực trạng của vấn đề.

3

2.Các biện pháp tiến hành giải quyết vấn đề

3

3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

13

Phần III: Kết luận

14

- Tài liệu tham khảo



PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
0


Trong công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ
trên khắp đất nước, ngành giáo dục đã và đang chuyển biến khích lệ việc đổi
mới phương pháp dạy học ở các bậc học. Hiện nay ngành Giáo dục và Đào tạo
tiếp tục thực hiện cuộc vận động “Hai không" với bốn nội dung mà Bộ trưởng
Bộ Giáo Dục đã phát động. Để có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có
năng lực, chủ động sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với đời sống xã
hội luôn phát triển, giáo viên tiểu học là người hình thành kiến thức đầu tiên cho
học sinh. Muốn thực hiện tốt mục tiêu giáo dục góp phần đào tạo những con
người linh hoạt, sáng tạo, năng động một trong những định hướng mới với
phương pháp giáo dục tiểu học đó là phương pháp dạy học tích cực đối với các
môn ở tiểu học nói chung và môn Toán nói riêng chính là dạy học theo quan
điểm "Lấy học sinh làm trung tâm" theo hướng tích cực "Thầy cô thiết kế, trò thi
công” nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Huy động mọi khả năng của từng học sinh để học sinh tự khám phá
những nội dung mới của bài học. Giúp đỡ học sinh có các điều kiện và phương
tiện hoạt động để học sinh tự phát hiện ra các tình huống có vấn đề trong học tập
và cuộc sống; tự mình hoặc cùng các bạn trong nhóm, trong lớp lập kế hoạch và
biết lựa chọn kế hoạch hợp lý nhất để giải quyết vấn đề, tập trung mọi cố gắng
để phát triển năng lực, sở trường của mỗi học sinh, tạo cho học sinh có niềm tin
và niềm vui trong học tập, kết quả của cách dạy học tích cực không chỉ góp phần
hình thành cho học sinh các kiến thứ,c kỹ năng, thái độ cần thiết mà còn xây
dựng cho học sinh nhiệt tình với phương pháp học tập sáng tạo. Ở đây vai trò
của người giáo viên trong đổi mới phương pháp dạy Toán còn được đề cao hơn
đó chính là giáo viên không còn đóng vai người truyền thụ kiến thức (chủ yếu
bằng phương pháp thuyết trình, giảng giải để học sinh thụ động nghe và ghi nhớ

như trước đây) mà trở thành người tổ chức điều khiển quá trình dạy học để học
sinh tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh những kiến thức, giáo viên giảng ít
còn học sinh làm việc nhiều. Nếu người giáo viên biết đổi mới phương pháp dạy
học một cách tích cực thì lao động của giáo viên sẽ nhẹ nhàng hơn, học sinh sẽ
tích cực, tự giác học, tự giác chiếm lĩnh được kiến thức một cách chủ động.

1


Cụ thể là giáo viên phải chuẩn bị một kế hoạch dạy học sao cho tất cả học sinh
đều được làm việc. Kế hoạch này chú ý đến sự phát triển của cá nhân, của nhóm
học sinh trên cơ sở sự phát triển chung của cả lớp. Khi điều khiển hoạt động của
lớp học, giáo viên cũng phải xử lý nhiều tình huống sư phạm phức tạp hơn so
với dạy học theo kiểu cũ. Chính vì vậy ngoài việc truyền đạt kiến thức cho học
sinh của người thầy, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết phát huy tính tích cực, gây
hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động. Học
sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép và chủ động tham gia
giải quyết vấn đề học tập. Đó là điều làm tôi phải suy nghĩ để tìm “Biện pháp
dạy học phát huy tính tích cực trong môn toán lớp 4” và tôi đã mạnh dạn chọn
sáng kiến kinh nghiệm này này để nghiên cứu.

2


PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng của vấn đề
a. Điểm mạnh
Trường Tiểu học Tiên Cát, có sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà
trường nên ngay từ đầu năm học các em đã đi vào nề nếp có ý thức trong học tập
cũng như các hoạt động. Ngoài ra các bậc phụ huynh cũng rất quan tâm đến việc

học hành của con em mình luôn tạo điều kiện cho các em học tập. Bên cạnh đó
cũng được sự quan tâm chu đáo của Sở giáo dục, Phòng giáo dục, các cấp chính
quyền địa phương tạo điều kiện cho thầy và trò hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Đội ngũ giáo viên được tập huấn thường xuyên về phương pháp dạy học
cho phù hợp với từng bộ môn. Ngoài ra mỗi giáo viên tự đọc tài liệu, tự nghiên
cứu sử dụng thành thạo các trang bị đúng yêu cầu, đạt kết quả.
- Học sinh ở lứa tuổi tiểu học sự nhận thức từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng về thực tiễn. Vì vậy học sinh tiểu học rất
năng động và thích tìm tòi khám phá. Do đó học sinh nắm được kiến thức nhanh
nhất là đối với môn Toán làm cơ sở vững chắc cho giáo viên áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm "Biện pháp dạy học phát huy tích cực trong môn toán ở lớp 4" đạt
kết quả tốt nhất.
b. Điểm yếu
- Còn một số em điều kiện gia đình còn khó khăn chưa được quan tâm
đúng mực. Phần đa bố mẹ các em có trình độ văn hoá thấp nên sự hướng dẫn các
em còn nhiều hạn chế cả về thời gian và phương pháp học. Đối với các em học
sinh tiểu học sự kiên trì không thể như học sinh lớn các em chưa tự giác, thiếu
tự tin trong học tập.
- Một số giáo viên chưa chủ động với kiến thức để biến kiến thức từ sách
giáo khoa trở thành kiến thức của mình và truyền thụ cho học sinh.
c. Nguyên nhân:
- Một số gia đình cha mẹ học sinh chưa thấy được nhu cầu cần thiết của việc học
tập, chưa thấy được việc học là quốc sách hàng đầu, chưa coi trọng việc học là
hành trang để trang bị cho con bước vào đời.
3


- Các thầy, cô chưa dành nhiều thời gian để tìm tỏi nhiều cách dạy,
phương pháp hình thức hay, độc đáo để truyền tải kiến thức đến học sinh một
cách nhẹ nhàng nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất.

- Các thầy cô chưa dành nhiều thời gian để dự giờ, học tập những bạn đồng
nghiệp có phương pháp, hình thức dạy học hay để học tập và trao đổi kinh
nghiệm.
2. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề
2.1.Công tác chuẩn bị của giáo viên và học sinh
a. Đối vớí giáo viên
- Khi tiến hành dạy từng môn, từng bài giáo viên cần nghiên cứu tài liệu, tham
khảo Sách giáo khoa. . . . để xác định mục tiêu (kiến thức, kỹ năng, thái độ) cho
đúng và phù hợp với 3 đối tượng của học sinh theo yêu cầu của việc nâng cao
chất lượng giảng dạy.
- Lựa chọn phương pháp cách tổ chức tiến hành giờ dạy trên lớp bám sát quy
trình đặc điểm của tiết dạy chuẩn bị đồ dùng thao tác thành thạo. Phân nhóm học
tập (thảo luận nhóm) thay đổi thành viên trong nhóm đảm bảo các nhóm đều có
cả 3 đối tượng học sinh.
- Có thể điều chỉnh kết cấu bài học cho phù hợp với đối tượng của lớp mình
nhưng phải đảm bảo mục tiêu kiến thức bài học.
b. Đối vớí học sinh
- Cần chuẩn bị trước bài ở nhà căn cứ vào thời khoá biểu hàng ngày để các em
chuẩn bị bài cho chu đáo.
- Hình thức chuẩn bị : Các em xem trước bài, chuẩn bị các phần chính cần thiết
ghi ra giấy nháp (tất cả các học sinh đều phải chuẩn bị).
- Tập chung suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng kinh nghiệm, vốn sống để giải quyết nội
dung bài.
2.2. Lập kế hoạch dạy học cả năm một cách cụ thể trong đó thực hiện kế
hoạch rèn luyện cách tính toán giải toán cho học sinh.
- Dựa trên kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo viên xây dựng kế hoạch
riêng cho lớp học của mình, đối tượng học sinh của mình..
4



- Lập kế hoạch để bồi dưỡng cụ thể đối với từng đối tượng : Học sinh năng
khiếu, học sinh đạt chuẩn về kiến thức kĩ năng, học sinh chưa đạt chuẩn về kiến
thức kĩ năng.
- Lập kế hoạch thời gian cụ thể cho từng công việc thực hiện áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm như: Thời gian khảo sát học sinh trước khi áp dụng sáng kiến, thời
gian áp dụng phương pháp mới, thời gian khảo sát kết quả sau khi áp dụng sáng
kiến, thời gian viết sáng kiến,…
2.3. Biện pháp giảng dạy một số dạng Toán lớp 4.
Trong công tác giảng dạy với lòng nhiệt tình, say mê nghề, sự tìm tòi
phương pháp dạy học với tất cả các môn học và đặc biệt nhất là môn toán ở lớp
4 tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp dạy học như sau:
a. Biện pháp dạy học theo phương pháp truyền thống:
+ Đối với biện pháp dạy theo phương pháp truyền thống giáo viên làm việc
nhiều, nói nhiều, mang nặng tính thuyết trình, trừu tượng học sinh khó hiểu,
không phát huy tính tích cực cho học sinh. Nếu giáo viên hỏi học sinh trả lời thì
chỉ một đến hai em đứng lên trả lời do đó chỉ có một số em đó thực sự làm việc,
số học sinh còn lại chỉ ngồi chơi, nghịch. . . . .
*Ví dụ:
- Giáo viên nêu vấn đề: Có 1 băng giấy, bạn - Nghe, nêu yêu cầu của bài
3
Nam tô màu
băng giấy, sau đó Nam tô
8
màu tiếp

tập

2
băng giấy. Hỏi bạn Nam đã tô
8


màu bao nhiêu phần của băng giấy (Bài phép
cộng phân số - Sách giáo khoa Lớp 4 - Trang
126).
+ Bài toán cho ta biết gì? Bài toán hỏi gì?
- Bài toán cho biết to màu lần

5


một

3
2
băng giấy, lần hai
8
8

băng giấy.

+ Bài toán hỏi gì?

- Nam đã tô màu bao nhiêu
phần băng giấy?
+ Muốn biết Nam đã tôi màu bao nhiêu phần - Ta thực hiện phép tính cộng:
3 2
+
8 8
- Giáo viên giúp học sinh thực hiện phép - Nghe, quan sát
của băng giấy ta làm như thế nào?


tính:
3 2 3 2 5

+ =
8 8
8
8
- Muốn cộng hai phân số có cùng mẫu số ta - Muốn cộng hai phân số có
làm như thế nào?

cùng mẫu, ta cộng hai tử số
với nhau và giữ nguyên mẫu

- Giáo viên kết luận và rút ra ghi nhớ

số.
- Gọi 2 - 3 học sinh đọc lại ghi

nhớ
+ Để khắc phục nhược điểm của phương pháp dạy học truyền thống ta có thể
làm như sau:
b. Biện pháp dạy học sao cho tất cả học sinh đều làm việc: (Tích cực)
* Ví dụ:
a) Hướng dẫn học sinh hoạt động với đồ
dùng trực quan
- Giáo viên nêu vấn đề: Có 1 băng giấy, - Học sinh tự nhẩm và nhớ vấn đề
3
bạn Nam tô màu
băng giấy, sau đó

8
Nam tô màu tiếp

2
băng giấy. Hỏi bạn
8

Nam đã tô màu bao nhiêu phần của băng
giấy (Bài phép cộng phân số - Sách giáo
6

được nêu ra


khoa Lớp 4 - Trang 126).
- Giáo viên nêu: Để biết bạn Nam đã tô
màu tất cả bao nhiêu phần của băng giấy
chúng ta cùng thực hiện như bạn Nam.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện - Học sinh đặt băng giấy đã chuẩn bị
trên băng giấy, đồng thời giáo viên cũng lên mặt bàn.
làm mẫu với băng giấy to.
+ Gấp đôi băng giấy 3 lần để chia băng + HS thực hành
giấy làm tám phần bằng nhau.
+ Hỏi: Băng giấy được chia làm mấy + Băng giấy được chia làm 8 phần
phần bằng nhau?

bằng nhau.

+ Lần thứ nhất bạn Nam đã to màu được + Lần thứ nhất bạn Nam đã tô màu
mấy phần của băng giấy.?


3
băng giấy,
8
+ Học sinh tô màu theo yêu cầu.
được

+ Yêu cầu học sinh tô màu

3
của băng
8

giấy.
+ Lần thứ hai bạn Nam đã tô màu được

+ Lần thứ hai bạn Nam đã tô màu

mấy phần của băng giấy.

2
băng giấy.
8
+ Học sinh tô màu theo yêu cầu.
được

+ Yêu cầu học sinh tô màu

2
của băng

8

giấy.
+ Như vậy bạn Nam đã tô màu mấy phần + Bạn Nam đã tô màu được 5 phần
bằng nhau
bằng nhau.
+ Hãy đọc phân số chỉ phần băng giấy
5
+ Bạn Nam đã tô màu băng giấy
8
mà bạn Nam đã tô màu.
- Giáo viên kết luận: Cả hai lần bạn Nam - Nghe
5
băng giấy
8
b) Hướng dẫn cộng hai phân số cùng
tô màu được tất cả
mẫu:
7


- Giáo viên nêu lại vấn đề trên, sau đó - Làm phép tính cộng:
hỏi Muốn biết bạn Nam tô màu tất cả
mấy phần băng giấy chúng ta làm phép

3 2
+
8 8

tính gì?

- GV hỏi: Ba phần tám băng giấy thêm - Học sinh: Bằng năm phần tám băng
hai phần tám băng giấy bằng mấy phần giấy
băng giấy?
- Vậy ba phần tám cộng hai phần tám - Ba phầm tám cộng hai phần tám
bằng bao nhiêu
- Giáo viên viết lên bảng:

bằng năm phần tám
- Quan sát

3 2 5
+ =
8 8 8
- Giáo viên hỏi: Em có nhận xét gì về tử - HS nêu 3 + 2 = 5
số của hai phân số

của phân số

3
2

so với tử số
8
8

5
trong phép cộng:
8

3 2 5

+ =
8 8 8
- Em có nhận xét gì về mẫu số của hai - Ba phân số có mẫu số bằng nhau
phân số

3
2

so với mẫu số của phân
8
8

5
3 2 5
trong phép cộng: + =
8
8 8 8
- Giáo viên nêu: Từ đó ta có phép cộng - Học sinh thực hiện lại phép cộng
số

các phân số như sau:
3 2 3 2 5
+ = + =
8 8 8 8 8
- Giáo viên hỏi: Muốn cộng hai phân số - Muốn cộng hai phân số có cùng
có cùng mẫu số ta làm như thế nào?

mẫu số ta cộng hai tử số và giữ
nguyên mẫu số.


- Gọi 2 - 3 học sinh nêu lại ghi nhớ

- Thực hiện theo yêu cầu
8


+ Đối với biện pháp dạy theo phương pháp tích cực thì 100% học sinh đều
được trực tiếp tham gia hoạt động, giáo viên quan sát được những học sinh
không thực hiện theo yêu cầu để kịp thời uốn nắn nhắc nhở. Vì vậy cách dạy này
đạt kết quả cao hơn, khắc sâu vào trí nhớ các em hơn.
Tóm lại: Muốn cho việc dạy học tác động được tới 100% học sinh thì
giáo viên nên biến bài dạy của mình thành một hệ thống các công việc mà học
sinh có thể thực hiện bằng tay. Việc này gọi là thao tác hoá bài dạy.
c. Biện pháp thao tác hoá bài dạy
Thông thường dạy bài toán thường có hai phần: Dạy lý thuyết và làm bài
tập. Từ trước đến nay trong phần luyện tập giải bài tập, chúng ta vẫn thường tổ
chức cho học sinh làm việc bằng tay. Nghĩa là phần luyện tập đã được thao tác
hoá. Nhưng trong phần dạy lý thuyết giáo viên vẫn hay dùng phương pháp đàm
thoại (thầy cô hỏi, trò trả lời) và phương pháp trực quan (thầy trình bày trực
quan, trò quan sát nhận xét) để dẫn dắt học sinh đến kiến thức mới. Cách dạy
này không thoả mãn được một cách chắc chắn yêu cầu "Tất cả học sinh đều
phải làm việc " . Do đó phần dạy bài mới cần phải được thao tác hoá. Chuyển từ
hình thức đàm thoại thông thường (thầy hỏi, trò trả lời) sang hình thức đàm thoại
mới là "Bút đàm” trong đó giáo viên nêu câu hỏi dưới lệnh làm việc, còn học
sinh "Trả lời" giáo viên bằng cách dùng bút (phấn) ghi trên giấy (bảng phụ) .
* Ví dụ:. Một cửa hàng tuần đầu bán được 319m vải, tuần sau bán được nhiều
hơn tuần đầu 76m. Hỏi trong hai tuần đó, trung bình mỗi ngày cửa hàng bán
được bao nhiêu mét vải, biết rằng cửa hàng mở cửa tất cả các ngày trong tuần ?
(Phương pháp dạy học tích cực)
- Học sinh đọc yêu cầu bài tập

+ Bài toán yêu cầu chúng ta tìm gì?

- Học sinh đọc, lớp đọc thầm
+ Trong hai tuần, trung bình mỗi
ngày cửa hàng bán được bao nhiêu
mét vải?
- Học sinh thực hành

- Hãy vẽ cách tính tất cả số vải

719m
Tuần 1

9

76m


Tuần 2
+ Để biết được trong hai tuần đó trung + chúng ta phải biết:
bình mỗi ngày cửa hàng bán được bao * Tổng số mét vải bán trong hai
nhiêu mét vải chúng ta phải biết được gì?

tuần.
* Tổng số ngày mở cửa bán hàng
của hai tuần

+ Yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ hoàn chỉnh

- Học sinh thực hành vẽ

Tóm tắt
719m
Tuần 1

76m

Tuần 2
?
- Nhìn vào sơ đồ ta phải tính tuần nào - Học sinh nêu: Thực hiện tính
trước? và làm phép tính gì?

tuần thứ hai trước. Làm phép tính
cộng.
Tuần thứ hai cửa hàng bán được số
mét vải là:

319 + 359 = 714 (m)
- Sau đó sơ đồ bài toán yêu cầu ta tính tiếp - Học sinh nêu: Tìm số mét vải bán
đến gì?

cả hai tuần.

- Một tuần có mấy ngày
- Vậy cửa hàng mở cửa bao nhiêu ngày

319 + 359 = 714 (m)
- có 7 ngày
- Cửa hàng mở cửa số ngày là:

7 x 2 = 14 ngày

- Tính được số mét vải bán được trong hai - Học sinh nêu: Tính trung bình
tuần, số ngày cửa hàng mở cửa bây giờ ta mỗi ngày cửa hàng bán được số
làm như thế nào?
- Yêu cầu học sinh trình bày bài giải

mét vải là: 714 : 14 = 51 (m)
- Học sinh trình bày bài vào vở,

Học sinh lên bảng
Với cách dạy này học sinh nào không chịu suy nghĩ (lập sơ đồ) là giáo viên
phải nhắc nhở, học sinh có cố gắng suy nghĩ (lập sơ đồ) nhưng lúng túng giáo
10


viên có thể phát hiện để giúp đỡ. Ngoài ra học sinh nào suy nghĩ (lập sơ đồ)
đúng hay sai giáo viên để có thể biết (nếu muốn). Cách lập sơ đồ phân tích bài
toán như trên cho phép biến các suy nghĩ để tìm cách giải bài toán thành các
hoạt động bằng tay (tức là thành thao tác nên ta nói đã thao tác hoá được quá
trình suy nghĩ của học sinh) nhờ có việc thao tác hoá này mà giáo viên tổ chức
cho tất cả học sinh phải làm việc và kiểm soát được từng quá trình làm việc đó.
Khi học sinh nêu song cách giải bài toán giáo viên nhận xét khen ngợi các em có
ý thức trong giờ học để động viên các em kịp thời.
d) Đối với dạng bài tính nhẩm ta sẽ làm như sau:
- GV gọi học sinh đọc y/c bài tập
- HS đọc.
Bài tập 1: Sách giáo khoa lớp 4 -trang 59. a) 18 x 10

b) 68 000 : 100

18 x 100


420 : 10

18 x 1000
2000 : 1000
- Tính nhẩm.
- Tính nhẩm trong óc rồi nêu

- Bài tập y/c chúng ta làm gì?
- Tính nhẩm là tính như thế nào?

kết miệng quả

hoặc viết kết

quả phép tính chứ không được
đặt tính.
- Yêu câu học sinh làm nhẩm rồi ghi kết - Thực hiện theo yêu cầu. Báo
quả vào vở. Sau đó nối tiếp nhau báo cáo cáo theo hình thức nối tiếp.
kết quả,
- Giáo viên ghi nhanh kết quả lên bảng.
a) 18 x 10 = 1800
18 x 100 = 1 800

- Học sinh nhận xét, bổ sung.

b) 420 : 100 = 680
420 : 10 = 42

18 x 1000 = 180 000 42000 : 1000 = 2

- Giáo viên nhận xét, đánh giá, ghi điểm
*) Đối với dạng tính nhẩm lỗi học sinh thường mắc là đặt bút thực hiện
phép tính dẫn đến mất nhiều thời gian mà hiệu quả học tập lại đạt không cao,
trách nhiệm của người giáo viên là gợi ý học sinh nắm được cách tính nhẩm để
vận dụng vào làm bài tập đạt kết quả.
*) Khi giáo viên hướng dẫn học sinh giải các dạng toán, cần hướng học
sinh có nhiều cách giải xong giáo viên nhận xét, khen ngợi những em có ý thức
11


trong giờ học để động viên các em kịp thời, khích lệ các em học sinh khác phấn
đấu, tìm tòi, suy nghĩ, xung phong phát biểu ý kiến xây dựng bài, làm bài đạt kết
quả được giáo viên khen như các bạn.
- Sự phối kết hợp giữa giáo viên với phụ huynh học sinh và các đoàn thể
xã hội là rất cần thiết.
- Gia đình thường xuyên kiểm tra nhắc nhở học sinh trao đổi với giáo viên
chủ nhiệm về kết quả học tập của con em mình để giáo viên năm bắt kịp thời,
đối với những em có tiến bộ giáo viên khen ngợi trước lớp để động viên các em.
Đối với những em chưa tự giác trong học tập giáo viên cần nhắc nhở nhẹ nhàng
để các em có sự cố gắng trong học tập.
e)Biện pháp dạy học chủ động cách tiếp cận bài học.
Ở một số bài dạy cần cho học sinh tư duy óc sáng tạo hay có nhiều ý tưởng
khác nhau. Nhưng nếu dạy theo sách giáo khoa khiến cho học sinh gò bó và sẽ
làm, tính toán theo yêu cầu của bài. Chính vì thế sự ghi nhớ kiến thức của học
sinh không được lâu và rất chóng quên. Phương pháp này cũng đòi hỏi người
giáo viên phải suy nghĩ và nghiên cứu bài học sao cho khi hướng dẫn đều được
mọi học sinh tham gia và rất hứng thú, không cảm thấy nhàm chán mà còn phát
huy khả năng tư duy suy nghĩ của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài tính chất kết hợp của phép cộng(hoặc nhân).
Ở dạng bài này sách giáo khoa viết như sau.

Tính và so sánh giá trị của biểu thức (a + b) + c và a + (b + c) theo bảng.
a
5

b
7

c
10

(a + b) + c
a + (b + c)
(5 + 7) + 10 = 12 +10 5 + (7+ 10) = 5 + 17
= 22

= 22

* Khi dạy bài này mà cho học sinh tiếp cận theo như sách thì các em vẫn làm
được, tuy nhiên tôi thấy sự ghi nhớ không được lâu. Chính vì vậy tôi đã thay đổi
cách tiếp cận bằng cách yêu cầu học sinh làm như sau.
Cho biểu thức: 5 + 7 + 10, các em hãy sử dụng dấu ngoặc đơn để tìm ra các
cách làm khác nhau mà giá trị của biểu thức không thay đổi. Hầu hết các em làm
được hai cách, còn có em làm được cách thứ ba mà sách giáo khoa không có
12


5 + 7 + 10 = (5 +10) + 7. Các em cảm thấy rất thích thú khi mình phát hiện cách
làm thứ ba. Chính vì vậy mà các em vận dụng rất tốt khi làm những bài tính
nhanh.
g) Biện pháp dạy học dựa trên vốn sống, vốn kinh nghiệm của học sinh.

- Khi giáo viên chủ động dạy học trên cơ sở dựa trên những điều học sinh
đã biết, đã có sẵn thì rất tiết kiệm được thời gian và tăng phần thực hành, mở
rộng. Ngoài ra học sinh còn rất thích làm việc, hứng thú, tích cực và chủ động
suy nghĩ, tư duy theo hướng của mình.
Ví dụ:
Khi dạy bài Biểu thức có chứa hai chữ ( ba chữ). Thì không nhất
thiết chúng ta cứ phải theo trình tự ví dụ sách giáo khoa sau đó mới hình thành
kiến thức. Mà có thể đưa luôn có: a = 10, b = 5. Hãy tính a + b ( a – b, a : b ….).
Lúc này học sinh sẽ nhớ lại cách tính biểu thức có chứa một chữ, hai chữ để làm
bài này. Khi học sinh làm xong dù đúng hay sai cũng phải nêu được cách làm.
Khi dạy theo biện pháp này học sinh rất sôi nổi, rất tự hào với kết quả của mình,
giáo viên không mất thời gian vào giảng giải lí thuyết mà dành thời gian cho học
sinh thực hành.
3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
- Khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy các môn học ở lớp
4E và đặc biệt là môn Toán thì thấy kết quả học tập của các em được nâng lên rõ
rệt cụ thể:
Tổng số học sinh khảo sát là: 38em
* Đầu năm học 2015 – 2016: số học sinh đạt:
- Điểm Giỏi : 10 em =

26,3%

- Điểm Khá : 8em = 21%

- Điểm Trung bình: 17em = 44,9%

- ĐiểmYếu: 3em = 7,8%

* Giữa năm học 2015 – 2016: số học sinh đạt :

- Điểm Giỏi : 15 em = 39,4%

- Điểm Khá : 12em = 31,6%

- Điểm Trung bình: 10em = 26,4%

- Điểm Yếu: 1em = 2,6%

* Cuối tháng 3- năm học 2015 – 2016: số học sinh đạt:
- Điểm Giỏi : 18em = 47,4%

- Điểm Khá : 12em = 31,6%
13


- Điểm Trung bình: 8em = 21 %

- Điểm Yếu: 0em = 0%

* Qua các lần khảo sát chất lượng môn Toán khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm,
tôi thấy kết quả rất khả quan.

PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Kết luận
Là giáo viên tiểu học, tôi đã nghiên cứu nội dung và phương pháp truyền
thụ có một hệ thống các bài tập giúp học sinh thực hành để củng cố kiến thức.
Đặc biệt lấy học sinh làm trung tâm, khuyến khích các em tìm tòi và tự rút ra kết
luận cho mình. Có như vậy các em mới nhớ kỹ, nhớ lâu những kiến thức mới
khám phá. Đặc biệt tôi rất chú ý thời điểm và thời lượng tung ra các bài tập và tổ
chức các trò chơi phù hợp. Vì vậy bước đầu có kết quả trong giảng dạy môn

Toán.
Trong dạy môn Toán lớp 4 nói riêng và các môn học khác nói chung giáo
viên cần vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh

14


giúp học sinh nắm chắc kiến thức hiểu sâu và biết phát huy khả năng và giải
toán thành thạo.
- Trong khi lên lớp giáo viên cần nói ít, giảng giải ít, thường xuyên làm
việc với từng cá nhân học sinh, nhóm học sinh và lớp. Để thực hiện được tốt
giáo viên phải vận dụng linh hoạt các phương pháp, cách tiếp cận bài học để lớp
học sôi nổi hào hứng, học sinh hăng hái phát biểu nắm chắc bài học, học sinh
hiểu bài mới đạt kết quả cao. Như vậy môn toán học khô khan nhưng nó hoạt
động trí tuệ sáng tạo và hấp dẫn thực tế đối với học sinh.
- Sáng kiến trên tôi đã áp dụng và chỉ dừng lại ở phạm vi tương đối hẹp.
Bằng những suy nghĩ của mình và thực tế giảng dạy tôi đã đúc kết được một
số kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
Trong quá trình thực hiện sáng kiến này không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết, kính mong các thầy cô giáo trong hội đồng sư phạm nhà trường
tham gia góp ý để sáng kiến của tôi được hoàn hảo hơn.
2. Những đề xuất .
* Đối với giáo viên.
- Với mỗi giáo viên cần phải khẳng định mình khi đứng trên lớp, luôn cố
gắng đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp. Tránh dạy học máy móc, khô
cứng theo quy tắc, cần sáng tạo với mỗi tiết dạy một cách hợp lý, đảm bảo tính
chính xác, tính khoa học, tính sư phạm giúp học sinh tiểu học dễ nhận ra và khắc
sâu kiến thức. Làm thế nào để học sinh thích học và thích đến trường.
* Đối với tổ chuyên môn.
- Thực hiện thật tốt và nghiêm túc các buổi sinh hoạt chuyên môn theo

hướng đổi mới đúng kế hoạch . Tổ chức cho giáo viên chia sẻ, phân tích bài học
thoải mái, cởi mở để tìm ra những kinh nghiệm, biện pháp hay để phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
- Trong những năm gần đây tôi luôn được tham gia các lớp tập huấn, bồi
dưỡng thường xuyên theo chu kỳ và hội thảo cụm về đổi mới phương pháp dạy
học. Tôi mong rằng việc làm đó được duy trì thường xuyên để chúng tôi được
trao đổi kinh nghiệm.
15


* Đối với nhà trường: Tổ chức được các buổi trao đổi, thảo luận, chia sẻ về dạy
học tích cực trong môn Toán tiểu học cũng như các môn học khác nữa.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm “Biện pháp dạy học phát huy tích cực
môn toán lớp 4” của tôi. Tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm nhỏ bé của mình
góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng trong dạy học.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tiên Cát, ngày 3 tháng 4 năm 2016
Người viết

Nguyễn Thị Vi Hương

16


PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Toán lớp 4 - Đỗ Thành Hoan (Chủ biên) 2007/CXB/125 ~ 157 1/GD.
2. Sách giáo viên toán lớp 4.
3 . Phương pháp dạy Toán bậc tiểu học - NXB - ĐHSP 2003 .
4. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh môn Toán, Tiếng Việt Ở
tiểu học năm 2002.

5 . Giáo trình phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học - NXB - ĐHSP
2006.
6. Đổi mới phương pháp dạy học tích cực môn Toán./PLan
7. Sinh hoạt chuyên môn dựa trên nghiên cứu bài học/PLan

17


18



×