Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

BÌNH LUẬN VỀ MỘT VỤ VIỆC HẠN CHẾ CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.82 KB, 25 trang )

BÌNH LUẬN VỀ MỘT VỤ VIỆC HẠN CHẾ CẠNH TRANH


BỐ CỤC ĐỀ TÀI:

Mục lục
A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Lý luận chung về hạn chế cạnh tranh
1.1. Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh
1.2. Đăc điểm của hành vi hạn chế cạnh tranh
1.3. Các hình thức hạn chế cạnh tranh
2. Bình luận về vụ việc hạn chế cạnh tranh trong thực tế
2.1. Thực trạng các hành vi cạnh tranh hiện nay ở Việt Nam
2.2. Vụ việc hạn chế cạnh tranh tiêu biểu
2.3. Phân tích vụ việc
2.4. Quan điểm của nhóm về vụ việc
2.4.1 Nguyên nhân của vụ việc
2.4.2 Tác động của vụ việc
a) Tác động đối với khách hàng
b) Tác động đối với thị trường
2.4.3 Bình luận về cách xử lý của cơ quan nhà nước
3. Một số giải pháp nhằm làm giảm các hành vi hạn chế cạnh tranh
3.1 Về phía các cơ quan chức năng
3.2 Về phía Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
3.3 Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm
C. KẾT LUẬN VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
DÀN Ý CHI TIẾT


A.PHẦN MỞ ĐẦU


Sau nhiều năm có hiệu lực, Luật cạnh tranh đã đi vào đời sống kinh tế
một cách thiết thực và nó được áp dụng để xử lý nhiều vụ việc về hạn chế
cạnh tranh của các doanh nghiệp vi phạm luật cạnh tranh. Những quyết định
xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh đã có những tác động đáng kể đến môi
trường cạnh tranh tại Việt Nam, đến ý thức pháp luật của các doanh nghiệp
và góp phần khẳng định giá trị của pháp luật cạnh tranh đối với quản lý kinh
tế. Trong quá trình giải quyết vụ việc đã phát sinh nhiều vấn đề về tình hình
cạnh tranh trên thị truờng Việt Nam, trong đó có quan niệm của các doanh
nghiệp Việt Nam (đặc biệt là doanh nghiệp độc quyền) về vai trò của pháp
luật cạnh tranh.
Cạnh tranh tồn tại trên thị trường có rất nhiều hình thức khác nhau.
Nếu căn cứ vào mức độ can thiệp của Nhà nước có cạnh tranh tự do và cạnh
tranh có điều tiết. Căn cứ vào mức độ biểu hiện của cạnh tranh có 3 loại:
canh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền. Nếu căn cứ
vào tính lành mạnh của hành vi cạnh tranh ta chia thành cạnh tranh lành
mạnh, cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh.
Trong tất cả các hình thức trên thì hạn chế cạnh tranh là một trong
những hình thức cạnh tranh có ảnh hưởng rất tiêu cực đến nền kinh tế. Để
hiểu rõ hơn về hành vi hạn chế cạnh tranh cũng như hình thức của hành vi
này sau đây chúng tôi xin lấy một minh chứng cụ thể về hạn chế cạnh tranh
và cùng bình luận về vụ việc này.


B.PHẦN NỘI DUNG

1.Lý luận chung về hạn chế cạnh tranh
1.1.Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh:
Theo Khoản 3 Điều 3 Luật cạnh tranh thì “Hạn chế cạnh tranh” là
hành vi của doanh nghiệp làm giảm,sai lệch,cản trở cạnh tranh trên thị
truờng,bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,lạm dụng vị trí thống

lĩnh thi trường,lạm dụng vị trí độc quyềnvà tập trung kinh tế.
1.2. Đặc điểm hành vi hạn chế cạnh tranh:
•Về chủ thể : Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi được thực hiện
bởi một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp,các doanh nghiệp này
hoặc là đã có sức mạnh trên thị trường hoặc hướng đến việc hình thành nên
sức mạnh thị trường bằng các thoả thuận hoặc tập trung kinh tế.
•Mục tiêu:Các hành vi hạn chế cạnh tranh nhằm thực hiện vì mục tiêu
làm biến dạng cạnh tranh.Sự biến dạng của cạnh tranh có thể là làm thay đổi
cấu trúc thị trường,thay đổi tương quan cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp,loại bỏ đối thủ cạnh tranh, ngăn cản đối thủ tiềm năng để làm giảm đi
sức ép cạnh tranh hiện có hoặc đã có.
So với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi hạn chế cạnh
tranh có khả năng gây thiệt hại lớn hơn rất nhiều.
1.3.Các hình thức hạn chế cạnh tranh:
•Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
•Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
•Lạm dụng vị trí độc quyền.
•Tập trung kinh tế.


2.Bình luận về vụ việc hạn chế cạnh tranh trong thực tế
2.1. Thực trạng các hành vi cạnh tranh hiện nay ở Việt Nam
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hầu hết các doanh nghiệp đều
thuộc quyền quản lý của Nhà nước, việc định giá cũng như phân công cung
ứng sản phẩm, dịch vụ đều theo sự chỉ đạo của nhà nước. Có thể nói sự độc
lập của các doanh nghiệp chỉ mang tính tương đối. Hiện tượng hạn chế cạnh
tranh không những tồn tại mà còn phát triển cao dưới sự chỉ đạo của nhà
nước.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, quá trình
chuyển đổi khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã diễn ra rất chậm

chạp. Bản chất của việc giảm đáng kể số lượng các DNNN chỉ là sắp xếp lại,
sáp nhập, hình thành những Tổng công ty. Dù rằng trong Tổng công ty có
những doanh nghiệp thành viên được mang tính độc lập, song đương nhiên
những công ty này phải chịu sự chỉ đạo của Tổng công ty và được thoả thuận
với nhau một cách hợp pháp. Nguy hiểm hơn, sau một thời gian dài, quá
trình tách chức năng chủ quản ở các bộ quản lý ngành vẫn chưa được thực
hiện. Sự thoả thuận, phối hợp giữa các đơn vị doanh nghiệp trong bộ vẫn
được tiến hành công khai hoặc bán công khai dưới sự chỉ đạo trực tiếp hoặc
gián tiếp của bộ quản lý ngành. Hiện tượng các đơn vị trong bộ phải có trách
nhiệm cung ứng cho nhau, hoặc bộ chỉ đạo cho các công ty chỉ được phép
mua sản phẩm của các công ty trong bộ, hiện tượng “khép kín kinh doanh”
trong một bộ là những hiện tượng vẫn thường xuyên diễn ra công khai hoặc
không công khai trong thực tiễn (mặc dù hiện nay đã giảm bớt). Tuy những


hiện tượng liên kết tự nguyện hoặc không tự nguyện này đã có những ảnh
hưởng rất tiêu cực đến môi trường cạnh tranh, song về mặt pháp lý, những
hành vi này hoàn toàn không trái với pháp luật cho đến khi Luật Cạnh tranh
ban hành.
Đến nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp đã độc lập với nhau, cùng cạnh tranh với nhau. Tuy nhiên,
hiện tượng hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp vẫn diễn ra. Các hành
vi hạn chế cạnh tranh này không bị pháp luật cấm cho đến khi Luật cạnh
tranh ra đời đã điều chỉnh các hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật cạnh tranh là hành vi vi
phạm pháp luật, bị cấm, bị xử phạt nếu vi phạm. Thế nhưng cho đến nay,
Luật cạnh tranh vẫn chưa được giới doanh nghiệp tìm hiểu và nắm bắt một
cách triệt để. Các hành vi hạn chế cạnh tranh vẫn diễn ra khá nhiều trên thị
trường. Sau 5 năm thực thi các quy định của Luật Cạnh tranh, đã có hơn 40
vụ việc liên quan đến vi phạm các quy định của pháp luật cạnh tranh bị điều

tra ,xử lý. Trong số các vụ việc này, có 20 doanh nghiệp liên quan đến các
hành vi lạm dụng vị trí độc quyền, lạm dụng vị trí thống lĩnh, thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh đã bị điều tra, xử phạt. Có thể nêu một số vụ việc hạn chế
cạnh tranh tiêu biểu như: vụ việc VINAPCO vi phạm hành vi lạm dụng vị trí
độc quyền, vụ việc 19 doanh nghiệp bảo hiểm thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh,…
2.2. Vụ việc hạn chế cạnh tranh tiêu biểu “19 doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ thoả thuận nâng mức phí bảo hiểm.”
+Tóm tắt vụ việc: Ngày 15-9-2008 tại Resort Sài Gòn - Mũi Né, Hiệp
hội Bảo hiểm Việt Nam (HHBHVN) đã chủ trì tổ chức Hội nghị thường niên
các Tổng giám đốc phi nhân thọ lần thứ 6 (CEO PNT 6). Tại CEO PNT 6,


15 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ (DNBH) đã ký thỏa thuận hợp tác
trong các lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm tàu biển và bảo hiểm xe cơ
giới. Sau đó, có thêm bốn DNBH cũng muốn tham gia ký kết, nâng tổng số
DN tham gia lên 19, trong đó có những “đại gia” trong lĩnh vực bảo hiểm
phi nhân thọ như: Công ty CP Bảo hiểm Dầu khí, Công ty cổ phần Bảo hiểm
AAA, Công ty liên doanh TNHH Bảo hiểm Samsung – Vina, Công ty CPBH
Toàn Cầu, Công ty CPBH Viễn Đông... Các bản thỏa thuận được 19 DNBH
ký kết bao gồm: Bốn bản thỏa thuận hợp tác giữa các DNBH trong lĩnh vực
bảo hiểm hàng hóa; trong lĩnh vực bảo hiểm tàu biển; bảo hiểm xe cơ giới;
và Điều khoản biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô-tô. Các bản thỏa thuận được
thực hiện từ ngày 1-10-2008. Thị trường mà 19 DNBH hướng tới trong các
bản thỏa thuận chính là thị trường có phạm vi toàn quốc và ngay ở thời điểm
ký kết, thị phần của 19 DNBH này là 99,79%. Điều đáng nói là các bản thỏa
thuận này đều có quy định về chế tài cụ thể, thể hiện ý chí tự nguyện của các
bên tham gia.
Theo các doanh nghiệp này, nguyên nhân của việc rủ nhau ký kết các
bản thỏa thuận là do các DN này đang phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh

gay gắt, chủ yếu thông qua các chính sách hạ phí bảo hiểm, trả phí hoa hồng
và tăng chi phí hỗ trợ đại lý…Sau khi nhận thấy một số nội dung thỏa thuận
của 19 DNBH nêu trên có dấu hiệu vi phạm Luật cạnh tranh, ngày 18-112008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương đã ra Quyết
định số 93/QĐ-QLCT về việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh liên quan
đến hành vi thỏa thuận được quy định tại Điều 8 Luật Cạnh tranh.
Tại phiên điều trần, bên điều tra và các DNBH bị điều tra tranh luận về
một số vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ việc, bao gồm: thị trường
pháp lý liên quan, thị trường địa lý, thị phần kết hợp, hành vi thỏa thuận hạn


chế cạnh tranh, mức phí giải quyết vụ việc và mức phạt đối với hành vi vi
phạm. Hầu hết các DN đều thừa nhận hành vi vi phạm của mình mặc dù đã
có ký kết thỏa thuận. Đại diện của Tổng công ty BH Bảo Việt không nhất trí
với tỷ lệ thị phần kết hợp mà điều tra viên xác định đối với các DNBH ký
thỏa thuận (là 99,79%). Tổng công ty BH Bảo Việt cho rằng, căn cứ vào các
cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, kể từ ngày 1-1-2008, ngoài các
DNBH kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam được cung cấp
dịch vụ trên thị trường Việt Nam thì các DNBH nước ngoài (dù không có
hiện diện thương mại tại Việt Nam) vẫn được cung cấp dịch vụ cho các tổ
chức, cá nhân có nhu cầu tại Việt Nam (dưới hình thức cung cấp dịch vụ
ngoài biên giới). Song theo Hội đồng cạnh tranh, căn cứ quy định của Luật
Kinh doanh BH và các văn bản hướng dẫn, hoạt động cung cấp dịch vụ của
các DN BH nước ngoài không có hiện diện thương mại ở Việt Nam không
thỏa mãn quy định về thị trường pháp lý liên quan trong kinh doanh BH trên
thị trường Việt Nam nên thị phần của họ không được tính vào tổng thị phần
kinh doanh BH. Hơn nữa, đến nay, cơ quan quản lý Nhà nước cũng chưa có
văn bản hướng dẫn về hoạt động cung cấp dịch vụ qua biên giới của các
DNBH nước ngoài tại Việt Nam nên tổng thị phần kinh doanh BH phi nhân
thọ tại Việt Nam đến nay chỉ bao gồm thị phần của 25 DN, trong đó có 19
DNBH bị điều tra và sáu DN không tham gia ký thỏa thuận về BH vật chất

xe ô-tô nêu trên. DN “bắt tay nhau” để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng?
Sau khi xem xét các chứng cứ, nghe các bên lập luận, phân tích và tranh luận
tại phiên điều trần, Hội đồng cạnh tranh nhận thấy, việc các DN ký biên bản
thỏa thuận và điều khoản về biểu phí BH nêu trên là hoàn toàn tự nguyện.
Thị trường địa lý của các DNBH là trên phạm vi toàn quốc vì nhiều DN
trong số 19 DN này có chi nhánh, đại lý ở nhiều địa phương, không có rào
cản vùng, miền trong hoạt động của họ. Thêm vào đó, sản phẩm BH vật chất


xe ô-tô mà các DN này cung cấp là đặc thù. Khách hàng chỉ có thể lựa chọn
giữa sản phẩm của các DN mà không thể thay thế bằng sản phẩm khác. Song
Hội đồng cạnh tranh cũng khẳng định, điều các DN cần làm là tăng chất
lượng dịch vụ, sản phẩm để thu hút khách hàng chứ không phải cùng ký một
thỏa thuận để hạn chế khả năng cạnh tranh của chính mình và sự lựa chọn
của người tiêu dùng đối với sản phẩm BH vật chất xe ô-tô như 19 DN đã
làm.
Các DN đã đề nghị Hội đồng cạnh tranh xem xét, giảm mức hình phạt
xuống còn cảnh cáo hoặc giảm tỷ lệ xác định mức tiền phạt thấp hơn đề nghị
của nhóm điều tra viên vì họ cùng nhau ký thỏa thuận chỉ để “bảo vệ DN và
người tiêu dùng” mà thôi. Đại diện Samsung - Vina cho rằng, dù thị trường
BH Việt Nam phát triển nhanh nhưng so với thế giới và khu vực thì còn non
trẻ, nên nếu cả 19 DN BH bị phạt vì hành vi hạn chế cạnh tranh sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến uy tín của ngành kinh doanh BH Việt Nam. Mặc dù vậy,
Hội đồng cạnh tranh vẫn áp dụng hình thức phạt cảnh cáo đối với những
doanh nghiệp này là 0,025% tổng doanh thu năm tài chính 2007 của các DN
(thấp hơn đề nghị của nhóm điều tra (0,1%) vì đây là những vi phạm lần
đầu. Thêm vào đó, 18 DN được hưởng tình tiết giảm nhẹ do tự nguyện dừng,
khắc phục hậu quả (trừ Samsung - Vina vì không hợp tác trong giai đoạn đầu
của cuộc điều tra). Ngoài ra, do các bên cùng thỏa thuận, tự nguyện thực
hiện nên phải chia đều phí giải quyết vụ việc cho cả 19 DN (hơn 5,2 triệu

đồng/DN). Quyết định có hiệu lực thi hành sau 30 ngày (kể từ 28-7) nếu
không có khiếu nại.
Tổng công ty BH Bảo Việt bị phạt cao nhất hơn 523 triệu đồng,
Tổng công ty CP Bảo Minh: hơn 362 triệu đồng,


Công ty CP BH Petrolimex: hơn 222 triệu đồng.
Các DN khác bị phạt từ 1- 77 triệu đồng (tùy thuộc vào doanh thu).
Công ty CP BH Fubon (Việt Nam) bị phạt 0 đồng do năm 2007 chưa có
doanh thu
2.3. Phân tích vụ việc
Thứ nhất: Các doanh nghiệp bảo hiểm cùng tham gia thỏa thuận trên
cùng thị trường liên quan. Các doanh nghiệp đã hoat động độc lập với nhau,
không phải là những người liên quan với nhau theo pháp luật doanh nghiệp,
họ không cùng trong một tập đoàn kinh doanh, không cùng là thành viên của
tổng công ti. Vì vậy họ là những đối thủ cạnh tranh của nhau, nay cùng hợp
tác để thực hiện một ý đồ chung đó là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ hai: Nội dung của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tập chung vào
các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh
tranh nhau như giá, thị trường, điều kiện ký kết hơp đồng và nội dung của
hợp đồng. Khi những nội dung của hợp đồng được thỏa thuận và thực hiện,
thì các yếu tố nói trên đã trở thành yếu tố thống nhất không có sự cạnh tranh
trên thị trường giữa những người tham gia thỏa thuận. Nói cách khác, nội
dung của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp bảo hiểm đã
cùng thống nhất thực hiện cùng một hành vi hạn chế cạnh tranh khi căn cứ
vào điều 8 luật cạnh tranh.
Thứ ba: Hình thức của thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động
giữa các doanh nghiệp có thể là công khai hặc không công khai. Trong
trường hợp này, các thỏa thuận của các doanh nghiệp bảo hiểm là những văn
bản thỏa thuận công khai và được ký xác nhận của những người đại diện của



các công ti. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên đã được hình thành từ sự
thống nhất ý chí của các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thực hiên cùng
một hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, hình thức pháp lý của sự thống
nhất ý chí không ảnh hưởng đến việc định danh thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Do đó chỉ cần hội đủ hai điều kiện đó là có sự thống nhất về ý chí và
các doanh nghiệp đã cùng thống nhất thực hiện một hành vi hạn chế cạnh
tranh, là có thể kết luận là đã có thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cho dù thỏa
thuận đó bằng văn bản hay lời nói, thảo thuận công khai hay thỏa thuận
ngầm.
Thứ tư: Hậu quả của thỏa thuân hạn chế cạnh tranh, dấu hiệu chung
cho cả ba hành vi hạn chế cạnh tranh là làm giảm sai lệch và cản trở cạnh
tranh trên thị trường. Sự thống nhất ý chí đã liên kết các doanh nghiệp bảo
hiểm độc lập với nhau nhằm tạo nên sức mạnh chung trong quan hệ chung
với khách hàng và trong quan hệ cạnh tranh với những doanh nghiệp không
tham gia thỏa thuận. Thế nên hậu quả đầu tiên của sự liên kết ấy chính là xóa
bỏ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận. Khi nội
dung thỏa thuận được hình thành đã tạo ra những tiêu chuẩn chung về giá,
và điều kiện giao kết hợp đồng. Bằng sức mạnh chung và bằng việc thực
hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp tham gia có thể gây thiệt
hại cho khách hàng khi đặt ra các điều kiện giao dịch bất lợi cho họ, hoặc
gây ra thiệt hại cho những doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận.
2.4. Quan điểm của nhóm về vụ việc
2.4.1 Nguyên nhân của vụ việc
Theo như phân tích của nhóm về vụ việc này thì có thể rút ra một số
nguyên nhân dẫn đến xảy ra vụ việc:


• Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam có một phần ảnh

hưởng từ tư tưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây. Hành vi này
đã được đánh giá tích cực như là một sự hợp tác, bảo vệ quyền lợi cho một
nhóm doanh nghiệp nào đó. Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh xuất hiện
tương đối nhiều ở Việt Nam và không bị pháp luật điều chỉnh (cho đến khi
Luật cạnh tranh ra đời). Hành vi này đã được coi là hoàn toàn hợp pháp.
• Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được phép
hoạt động tại Việt Nam ngày càng gia tăng. Số lượng các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước mới thành lập ngày càng nhiều. Các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài có chiến lược chiếm lĩnh thị trường, tăng thị phần bảo hiểm
bằng nhiều hình thức, trong đó có quảng cáo, tiếp thị và chấp nhận lỗ trong
thời gian dài (thậm chí hơn 5 năm). Chiến lược của các công ty nước ngoài
mạnh về tiềm lực tài chính này tạo ra sự cạnh tranh không cân sức nhưng
được phép với các doanh nghiệp bảo hiểm còn lại. Trong khi đó, các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam mới gia nhập thị trường thì tìm mọi biện pháp để
chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh thu. Sự cạnh tranh không cân sức giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam và nước ngoài cũng như sự cạnh tranh
không lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam với nhau đang
ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của thị trường. Các doanh nghiệp
không cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ mà tìm mọi cách để kinh doanh,
kể cả những hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh như là hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh
• Các doanh nghiệp muốn phát triển kinh doanh và tăng lợi nhuận nhưng
lại không muốn đầu tư hoặc không có điều kiện để đầu tư để tăng chất lượng
sản phẩm mà dung các hành vi hạn chế cạnh tranh để đạt được mục đích của
mình


• Theo các doanh nghiệp này, nguyên nhân của việc rủ nhau ký kết các
bản thỏa thuận là do các DN này đang phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh
gay gắt, chủ yếu thông qua các chính sách hạ phí bảo hiểm, trả phí hoa hồng

và tăng chi phí hỗ trợ đại lý…
• Một nguyên nhân quan trọng của vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh của 19 doanh nghiệp là sự hiểu biết pháp luật nói chung, pháp luật
cạnh tranh nói riêng là hạn chế. Khi thỏa thuận với nhau xong, họ công bố
các thỏa thuận này trên các phương tiện thông tin đại chúng. Dường như họ
không biết đến những quy định cấm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
và hành vi thỏa thuận ấn định giá hàng hóa trực tiếp hoặc gián tiếp của Luật
cạnh tranh. Vì vậy, trong tương lai không loại trừ hiện tượng tương tự xảy ra
ở mức đơn giản hơn hoặc phức tạp hơn. Sự phức tạp hơn đó là những thỏa
thuận ngầm bằng những biên bản bí mật.
2.4.2 Tác động của vụ việc
a) Tác động đối với khách hàng
Đối với vụ việc này, người bị thiệt thòi nhất là người sử dụng dịch vụ
bảo hiểm. Hậu quả của hành vi hạn chế cạnh tranh trên là khách hàng sẽ chỉ
nhận được những sản phẩm bảo hiểm với chất lượng dịch vụ không đáp ứng
được nhu cầu, nhất là không được bồi thường kịp thời, thỏa đáng và chính
xác khi có tổn thất xảy ra.
Hành vi hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm tác động
trực tiếp đến khách hàng. Tất cả những dịch vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô và
bảo hiểm xe cơ giới vẫn không có gì thay đổi về chất lượng mà chi phí lại


tăng lên. Như vậy đã làm cho khách hàng phải trả thêm chi phí dịch vụ bảo
hiểm cũ.
Thị phần kết hợp của 19 doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận
chiếm tới 99,79% thị trường bảo hiểm vật chất ô tô tại Việt Nam. Với thị
phần kết hợp lớn như vậy thì có thể chắc chắn rằng hầu hết những khách
hàng có nhu cầu bảo hiểm vật chất xe ô tô đều phải mua dịch vụ bảo hiểm
của những doanh nghiệp tham gia thỏa thuận dù giá đã bị đẩy lên cao. Có
thể nói dù khách hàng không hài lòng với các dịch vụ bảo hiểm của các

doanh nghiệp này thì cũng ở vào tình thế không còn sự lựa chọn khác.
Những doanh nghiệp bảo hiểm còn lại không tham gia thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh có thị phần quá nhỏ (0,21%), không thể đáp ứng nhu cầu sử dụng
dịch vụ của phần lớn khách hàng. Trường hợp này giống như đang ép giá
khách hàng, tước đoạt cơ hội lựa chọn các mức giá cạnh tranh hợp lí trên thị
trường.
Trong hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ấn định giá trực tiếp hoặc
gián tiếp này, khách hàng chính là những người phải chịu thiệt hại nhiều
nhất.
b) Tác động đối với thị trường
Hậu quả của thỏa thuân hạn chế cạnh tranh, dấu hiệu chung cho cả ba
hành vi hạn chế cạnh tranh là làm giảm sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị
trường. Sự thống nhất ý chí đã liên kết các doanh nghiệp bảo hiểm độc lập
với nhau nhằm tạo nên sức mạnh chung trong quan hệ chung với khách hàng
và trong quan hệ cạnh tranh với những doanh nghiệp không tham gia thỏa
thuận. Thế nên hậu quả đầu tiên của sự liên kết ấy chính là xóa bỏ cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia thỏa thuận.


Sự liên kết giữa các công ty bảo hiểm được thực hiện khi mà tổng thị
phần trong tay họ gần như đã thao túng toàn bộ thị trường nó kìm hãm sự
phát triển lành mạnh, hơn nữa khi mà các doanh nghiệp đã bị chi phối, ràng
buộc lẫn nhau bởi các thỏa thuận xẽ triệt tiêu sự sáng tạo của các doanh
nghiệp bảo hiểm nói riêng và của ngành bảo hiểm nói chung. Chúng ta nói
đến sự kìm hãm phát triển của ngành là vì trong tổng số 25 doanh nghiệp
bảo hiểm lúc đó đã có 19 doanh nghiệp tham gia vào thỏa thuận thanh lập
liên minh, trong liên minh ấy đã không tồn tại sự canh tranh với nhau tức là
không tồn tại khái niệm cạnh tranh lành mạnh giữa họ. Chính điều này gần
như không tạo ra sự sáng tạo cũng như sự đột phá đối với họ. Với sức mạnh
của mình họ cũng dễ dàng kìm hãm, ngăn cản các doanh nghiệp tiềm năng

khác khi họ muốn tham gia vào thị trường, điều này xẽ gây nguy hai lớn đến
sự phát triển bền vững của ngành bảo hiểm việt nam.
Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo
hiểm không chỉ vi phạm nghiêm trọng pháp luật cạnh tranh mà nó còn gây
ảnh hưởng tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân. Điều này là hiển
nhiên khi mà ngành bảo trong mấy năm gần đây ngành bảo hiểm có tốc độ
tăng trưởng như vũ bão và đóng góp vào tổng thu kinh tế quốc dân hàng
năm là rất lớn. Qua vụ việc thỏa thuận này dư luận không khỏi đặt ra câu hỏi
về tiềm lực thực tế, cung cách hoạt động và độ tin cậy của các công ty bảo
hiểm nước nhà như thế nào. Khi uy tín, vị thế bị giảm sút thì đương nhiên lợi
nhuận thu được của họ cũng giảm xuống cùng với lòng tin của người tiêu
dùng, chính vì lẽ đó chắc chắn rằng đóng góp của ngành bảo hiểm vào tổng
thu của nền kinh tế quốc dân sẽ bị ảnh hưởng.
2.4.3 Bình luận về cách xử lý của cơ quan nhà nước


Việc xử lí có thể nói là khá kịp thời. Từ khi vụ việc phát sinh đến khi xử
lí là 50 ngày, có thể nói là thiệt hại gây ra chưa lớn.
Hình phạt đối với vụ việc 19 doanh nghiệp bảo hiểm thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, bị xử phạt 0.025% tổng doanh thu năm 2007, tương đương
1,7 tỷ đồng. Cục quản lý cạnh tranh đề xuất mức phạt 0,1% lợi nhuận năm
liền đó của các daonh nghiệp tham gia thỏa thuận nhưng hội đồng xử lý lại
quy định mức phạt là 0,025. Với mức phạt này liệu đã đủ để răn đe đối với
các doanh nghiệp?
Theo Luật cạnh tranh, các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể
bị xử phạt tới 5% - 10%. Tuy nhiên do đây là hành vi vi phạm lần đầu với
các tình tiết giảm nhẹ nên Cục đề xuất trong báo cáo điều tra mức phạt 0,1%
doanh thu năm liền trước đó.
Theo quan điểm của nhóm, 0,1% là mức phạt thấp, số tiền bị phạt tương
ứng của doanh nghiệp rất nhỏ. Nhưng cuối cùng Hội đồng xử lí đã đưa ra

mức phạt cuối cùng là 0,025% có cân nhắc giữa các doanh nghiệp vào các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Theo đánh giá của chúng tôi, phải đưa ra mức
phạt thỏa đáng mới có tác dụng ngăn ngừa, răn đe các hành vi vi phạm. Thực
tế là không chỉ các hành vi vi phạm Luật cạnh tranh mà trong các ngành luật
khác các chế tài chưa đủ mạnh cũng khiến các hành vi vi phạm diễn ra nhiều
hơn. Mức phạt mà Hội đồng xử áp dụng chỉ mang tính chất cảnh cáo.
Việc bảo vệ quyền lợi của khách hang chưa được quan tâm đúng mức.
Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cảu 19 doanh nghệp bảo hiểm nói
trên đã làm thiệt hại cho khách hàng. Trong việc xử lí vụ việc, khách hàng
cần được bồi thường thiệt hại. Cục quản lí cạnh tranh chỉ mới điều tra hành
vi cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh chỉ mới phân xử hành vi này mà chưa


có hành vi xử phạt hay bồi thường nào đối với khách hàng bị thiệt hại.
Khách hàng là những người chịu thiệt hại trực tiếp từ hành vi thảo thuận này.
Theo chúng tôi, Cục quản lí cạnh tranh cần làm rõ hơn ảnh hưởng của hành
vi trên đối với quyền lợi của khách hàng – người sử dụng các dịch vụ bảo
hiểm đó. Một khi đã vi phạm Luật cạnh tranh tức là đã xâm hại quyền lợi
của người tiêu dung.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM LÀM GIẢM CÁC HÀNH VI HẠN
CHẾ CẠNH TRANH
3.1 Về phía các cơ quan chức năng.
Một là, các cơ quan chức năng cần sớm rà soát, hoàn thiện hành lang
pháp lý để thị trường bảo hiểm vận hành tốt, tạo ra môi trường cạnh tranh
lành mạnh, thực hiện kiểm soát, kiểm toán nội bộ nhằm phòng chống các
biểu hiện tiêu cực trong quá trình hoạt động.
Tiếp đến, các cơ quan quản lý Nhà nước cần thường xuyên theo sát
diễn biến thị trường, tăng cường kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm khắc
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, trục lợi, không tuân thủ các yêu
cầu tài chính... làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của người

tham gia bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm là một thị trường rất nhạy cảm, việc
kinh doanh bảo hiểm phải dựa trên uy tín của nhà bảo hiểm. Vì vậy, việc xử
lý các hành vi này cũng cần đảm bảo nguyên tắc thận trọng, khách quan,
đúng người, đúng việc để không vì xử lý một cá nhân, một doanh nghiệp mà
ảnh hưởng không đáng có đến các doanh nghiệp làm ăn trung thực khác trên
thị trường. Trong thời gian vừa qua, các chế tài xử phạt các hành vi phi cạnh
tranh trên thị trường chưa được áp dụng nên việc xử lý còn hạn chế. Vì vậy
cần phải đưa các chế tài xử phạt một cách cụ thể rõ ràng và có cơ sở pháp lý.


Khi đã có cơ sở, những vi phạm sẽ được xử lý nghiêm khắc hơn, và khi đó,
các hành vi phi cạnh tranh sẽ ngày một hạn chế.
Hai là, các cơ quan chức năng cần yêu cầu các doanh nghiệp bảo
hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm thực hiện nghiêm chỉnh các quy
định của Luật cạnh tranh, Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản pháp
luật có liên quan, góp phần làm lành mạnh hóa môi trường bảo hiểm trong
nước.
Ba là, Trong thời gian tới, khi có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài cùng tham gia chia sẻ thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đối với các
dịch vụ bảo hiểm bắt buộc theo cam kết của WTO, các cơ quan chức năng
cần xây dựng các quy tắc về quản lý ngành, vừa đảm bảo theo đúng thông lệ
quốc tế vừa phải cân đối với việc bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước.
Bốn là, Các cơ quan chức năng cần tăng cường nâng cao hiểu biết
pháp luật và ý thức pháp luật của các doanh nghiệp nói riêng và người dân
nói chung. Đặc biệt, các cơ quan cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật cạnh
tranh để các doanh nghiệp có cái nhìn đầy đủ và toàn diện về pháp luật cạnh
tranh. Đây là một giải pháp quan trọng làm giảm các hành vi hạn chế cạnh
tranh của các doanh nghiệp.
3.2. Về phía Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam

Hiệp hội cần thường xuyên xây dựng và ban hành quy tắc hợp tác
chống cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ trên thị trường, quy tắc ứng xử giữa các doanh nghiệp hội viên,
những văn bản thỏa thuận hợp tác về các nghiệp vụ bảo hiểm. Hiệp hội cũng
cần tuyên truyền để các công ty bảo hiểm mới ra đời hay mới triển khai


nghiệp vụ này cùng thực hiện đảm bảo thống nhất trong toàn hệ thống các
nhà bảo hiểm. Mục đích cuối cùng của các hành động này cũng chỉ nhằm
đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp trên thị trường cũng như là sự an tâm
của khách hàng về chất lượng sản phẩm, dịch vụ theo đúng như những cam
kết mà doanh nghiệp đưa ra.
Hiệp hội cần tăng cường hơn nữa hoạt động của mình để nâng cao chất
lượng kế hoạch hợp tác và đề ra chương trình hành động chung thiết thực.
Những nỗ lực nhằm bổ sung và hoàn thiện môi trường pháp lý trong
hoạt động kinh doanh bảo hiểm, những cố gắng của Hiệp hội Bảo hiểm Việt
Nam vì lợi ích của tất cả các hội viên sẽ không thể mang lại hiệu quả thực sự
nếu bản thân mỗi doanh nghiệp bảo hiểm không thực hiện nghiêm những
quy định của pháp luật cũng như những thỏa thuận mà các doanh nghiệp
cùng nhau thống nhất.
3.3. Về phía các doanh nghiệp bảo hiểm
Một là, Các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cần tăng cường năng
lực tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh của bản thân. Có như vậy, các
nhà bảo hiểm mới có thể đảm bảo được trách nhiệm của mình đối với những
gì đã cam kết với khách hàng.
Hai là, Các doanh nghiệp cần có sự hiểu biết đầy đủ về pháp luật nói
chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng. Sự thiế hiểu biết là một nguyên
nhân quan trọng dẫn đến các hành vi hạn chế cạnh tranh. Doanh nghiệp phải
luôn nắm rõ các văn bản pháp luật mà cơ quan nhà nước ban hành. Từ sự
hiểu biết đó, các doanh nghiệp cần tuân thủ các quy định của pháp luật về

kinh doanh nói chung, kinh doanh bảo hiểm nói riêng, các chính sách về
cạnh tranh, chống độc quyền. Trong xu thế mới, việc tuân thủ pháp luật,


cạnh tranh lành mạnh, trước hết cũng là một cách để xây dựng thương hiệu
trên thị trường.
Ba là, Khi là thành viên Hiệp hội Bảo hiểm, các doanh nghiệp nên
cùng nhau đưa ra những cam kết chung của mỗi nghiệp vụ kinh doanh và
nghiêm chỉnh chấp hành những cam kết đó. Việc chấp hành nghiêm túc
những cam kết này sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi và bình
đẳng mà bản thân các nhà bảo hiểm là những người hưởng lợi nhiều nhất.
Bốn là, Các doanh nghiệp nên tự xây dựng cho mình một chiến lược
cạnh tranh chuyên nghiệp và dài hạn như xây dựng và quảng bá thương hiệu,
xây dựng những kênh phân phối mới, đưa ra các sản phẩm mới, khai thác lợi
thế cạnh tranh của riêng mình... Cách làm này không những sẽ đem lại
doanh thu, thị phần cho doanh nghiệp mà trong dài hạn sẽ ngày càng củng
cố thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường.
Việt Nam đã gia nhập WTO, chúng ta cam kết thực hiện một nền thương
mại tự do công bằng với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, trong đó thách
thức lớn nhất là sức cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp. Chúng ta sẽ
khó có thể hội nhập thành công và có hiệu quả nếu không tạo được chất
lượng sản phẩm và uy tín thương hiệu. Hơn bao giờ hết, mỗi doanh nghiệp
bảo hiểm phải biết tự thích ứng với môi trường cạnh tranh, loại bỏ những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tìm ra những lợi thế riêng để phát triển
bền vững.


C. KẾT LUẬN.
Tóm lại,qua vụ việc hạn chế cạnh tranh của các doanh nghịêp Bảo
Hiểm nói riêng và những vụ việc trong thực tế nói chung cho ta thấy hạn

chế cạnh tranh đã gây ra những tác động không nhỏ đối với người tiêu
dùng,Nhà nước cũng như nền kinh tế thị trường.Những tác động đó là
nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế,hạn chế quyền lợi của
người tiêu dùng,cản trở cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.Qua vụ việc
trên cũng thể hịên ý thức chấp hành pháp luật còn kém của các doanh
nghiệp.Mặt khác các hình thức chế tài của Nhà nước cũng chưa đủ mạnh để
răn đe những hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh của các doanh nghiệp.


*TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Giáo trình ‘‘Luật cạnh tranh” Đại học Luật…
2.Luật cạnh tranh 2004
3.Giáo trình″ Luật thương mại”-Đại học Luật Hà Nội NXB Công an nhân
dân
4.Nghị định 116/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005





×