PHẦN MỞ BÀI
Trong xu thế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, năm 2004
Luật Cạnh tranh của Việt Nam được ban hành. Tuy nhiên, cho đến nay pháp luật cạnh
tranh của Việt Nam chưa thể hiện rõ và đầy đủ vai trò, nhiệm vụ là công cụ pháp lý quan
trọng của Nhà nước để điều tiết kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường. Số lượng vụ
việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được điều tra và xử lý ít hơn so với thực tiễn hạn chế
cạnh tranh đang diễn ra ngày càng nhiều và đang có chiều hướng diễn biến ngày càng
phức tạp. Vì vậy, tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn về Điều chỉnh pháp luật đối với các
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết. Sau đay là bài viết
của em về đề tài: “Thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam”.
1
PHẦN NỘI DUNG
I. Khái quát về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
1. Khái niệm.
Trong kinh tế học, hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh (Cartel) được nhìn nhận
là sự thống nhất hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép
của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh
tranh. Từ điển Chính sách thương mại quốc tế định nghĩa Cartel là một thỏa thuận chính
thức hoặc không chính thức để đạt được kết quả có lợi cho các hàng có liên quan, nhưng
có thể có hại cho các bên khác.
Luật cạnh tranh Việt Nam không đưa ra khái niệm mà sử dụng phương pháp liệt kê
các thỏa thuận bị coi là thỏa thuận hạn chế hạn chế cạnh tranh, bao gồm: thỏa thuận ấn
định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thỏa thuận phân chia thị
trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; thỏa thuận hạn chế hoặc
kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận hạn chế
phát triển kĩ thuật, công nghệ, hạn hế đầu tư; thỏa thuận áp đặt cho các doanh nghiệp
khác điều kiện kí kết hợp đòng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác
chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; thỏa thuận
ngăn cản, kìm hãm không cho dooanh nghiệp khác rham gia thị trường hoặc phát triển
kinh doanh; thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên
của thỏa thuận; thỏa thuận thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thàu
trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Việc không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê các thỏa thuận cụ thể đã không gây nên
những tranh luận cần thiết về hình thức và bản chất pháp lí của thỏa thuận hạn chế canh
tranh. Theo đó chỉ những thỏa thuận được liệt kê tại Điều 8 Luật cạnh tranh năm 2004
mới bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thỏa thuận là một khái niệm rộng nhưng không có ý nghĩa trừ khi các phân tích
kinh tế và kinh nghiệm thực tế phải chỉ ra được các thỏa thuận đó là thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, thỏa thuận khuyến khích cạnh trạnh hay thỏa thuận trung tính.
Đầu tiên là nên phân biệt rõ thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc. Thỏa thuận ngang
là thỏa thuận là thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh và thỏa thuận dọc là thỏa thuận
giữa các doanh nghiệp bổ trợ lẫn nhau.
2
Các thỏa thuận ngang ngay lập tức tạo ra khả năng khống chế thị trường, còn các
thỏat huận dọc không đi kèm với khả năng khống chế thị trường. Điều đó có nghĩa khả
năng hạn chế cạnht ranh của các thỏa thuận ngang lớn hơn rất nhiều so với khả năng hạn
chế của các thỏa thuận dọc.
Như vậy, để một hành vi hoặc một tập hợp các hành vi cấu thành một thỏa thuận thì
nhất thiết phải có sự thống nhất ý chí thì khi đó mới có thỏa thuận. Các hành vi giống
nhau của các doanh nghiệp chưa đủ để chứng minh là đã có thỏa thuận giữa họ với nhau.
2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT).
Thứ nhất, chủ thể tham gia TTHCCT là các doanh nghiệp hoạt động độc lập.
Căn cứ vào Điều 2 Luật cạnh tranh, Nghị định 116/2005/NĐ-Cp của chính phủ hướng
dẫn thi hành luật cạnh tranh và Nghị định số 120/2005/NĐ-CP về xử lí vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực cạnh tranh, có quy định về TTHCCT thì TTHCCT diễn ra giữa các doanh
nghiệp. Doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp 2005 được hiểu là: là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sả, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Còn trong pháp luật
canh tranh, doanh nghiệp bao gồm cả tổ chức và cá nhân kinh doanh.
Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận phải hoạt động một cách đọc lập, không phụ
thuộc nhau về mặt tài chính. Ý chí của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận cũng phải là
ý chí độc lập của mỗi bên, không thể bị ép buộc.TTHCCT có thể diễn ra giữa các doanh
nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau trên một thị trường liên quan hoặc giữa các bên
không phải đối thủ của nhau.
Luật Cạnh tranh nước ta không quy định Hiệp hội là chủ thể của các TTHCCT, đây
là điểm khác biệt so với luật cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới, việc quy định này
mang lại nhiều bất bất cập trong giải quyết một vụ TTHCCT.
Thứ hai, TTHCCT chỉ được hình thành khi có sự thống nhất ý chí của các bên
tham gia thỏa thuận, việc thống nhất ý chí này có thể công khai hoặc ngầm định.
Đây là dấu hiệu quan trọng nhất của TTHCCT, các hành vi giống nhau của cac
doanh nghiệp chưa đủ để chứng minh là đã có thỏa thuận giữa họ, mà phải có sự thống
nhất ý chí cùng hành động của các bên tham gia thỏa thuận.
Ở dấu hiệu này, chúng ta cần phân biệt sự thống nhất ý của các doanh nghiệp với
sự thống nhất về mục đíchcủa doanh nghiệp khi tham gia TTHCCT. Khi thống nhất thực
hiện hành vi TTHCCT, các doanh nghiệp có thể cùng hoặc không cùng một mục đích
3
theo đuổi, ví dụ khi cùng tham gia vào một thỏa thuận doanh nghiệp A cso mục đích mở
rộng thị trường, nhưng doanh nghiệp B lại muốn loại bỏ doanh nghiệp C là đối thủ canh
tranh.
Thứ ba, hậu quả của TTHCCT là làm giảm sức ép cạnh tranh, làm sai lệch hoặc
cản trở cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp khi tham gia thỏa thuận sẽ hình
thành mộ nhóm doanh nghiệp có sức mạnh chi phối thì trường rất lớn, gây hại cho khách
hàng và các doanh nghiệp khác không tham gia thỏa thuận.
II.Thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.
1. Thỏa thuận hạn chế canh tranh giữa các doanh nghiệp.
Được quy định tại Điều 8 Luật cạnh tranh, bao gồm 8 loại TTHCCT:
“1. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
2. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch
vụ;
3. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá,
dịch vụ;
4. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
5. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực
tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
6. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường
hoặc phát triển kinh doanh;
7. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của
thoả thuận;
8. Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng
hoá, cung ứng dịch vụ”.
Trong thực tiễn hiện nay, ta thấy, thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp là loại TTHCCT phổ biến nhất. Theo pháp luật Việt Nam,
bản chất của loại thỏa thuận này là việc thống nhất cùng hành động ấn định giá một cách
trực tiếp và được thực hiện dưới các hình thức sau: áp dụng thống nhất mức giá với một
số hoặc tất cá khách hàng; tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể; áp dụng công thức tính
giá chung; duy trì tỉ lệ cố định về giá sản phảm liên quan; không chiết khấu giá hoặc áp
dụng mức chiết khấu giá thống nhất; dành hạn mức tín dụng cho khách hàng; không giảm
4
giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thỏa thuận; sử dụng mức giá thống
nhất tại thởi điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.
Trong thực tiễn thi hành Luật cạnh tranh đã có vụ việc về thỏa thuận ấn định giá
được xử lí, đó là vụ q9 công ty bảo hiểm kí văn bản thỏa thuận tăng mức phí tối thiểu đối
với sịch vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô vào cuối năm 20081.
Sáng ngày 29/7/2010, Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương đã quyết định xử
phạt ở mức 0,025% tổng doanh thu của năm 2007 đối với hành vi bắt tay nâng phí bảo
hiểm xe cơ giới của 19 công ty bảo hiểm.
Trước đó, ngày 15/9/2008, tại hội nghị CEO các nhà bảo hiểm phi nhân thọ lần thứ
6, 15 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đã ký thỏa thuận kinh doanh trong lĩnh vực
bảo hiểm xe cơ giới, đến ngày 1/10/2008 đã có 4 doanh nghiệp nữa tiếp tục đăng ký tham
gia, nâng tổng số lên 19 thành viên.
Cơ quan quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương đã ra quyết định điều tra và đi đến
kết luận thông tin nâng mức phí bảo hiểm của khách hàng là hoàn toàn có thật và tại thời
điểm ký kết thỏa thuận các công ty này đã vi phạm luật hạn chế cạnh tranh. Trong số 25
doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới thời điểm đó thì thị phần của 19
công ty trên là 99,79%.Vì thế việc 'bắt tay' là vi phạm luật hạn chế cạnh tranh.
Cụ thể, tại thời điểm 19 doanh nghiệp thực hiện ký kết thì thị phần của các công ty
này đã làm triệt tiêu khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp khác và vi phạm các quy
định về hạn chế cạnh tranh.
Do vậy, mức phạt mà Hội đồng xử lý cạnh tranh đưa ra cũng thống nhất với phán
quyết trước đó của cơ quan Quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương với mức xử phạt là
0,025% tổng doanh thu của năm 2007 (thời điểm trước khi vi phạm) đối với 19 công ty
này đồng thời các công ty còn phải nộp thêm 100 triệu tiền phí giải quyết tranh chấp
trong suốt thời gian xử lý2.
Qua vụ việc này ta thấy, tại thời điểm cạnh tranh rất khốc liệt, việc làm của các
doanh nghiệp bảo hiểm đã gây bất bình cho khách hàng, các doanh nghiệp không chỉ
phạm luật trong việc bắt tay nhau nâng phí mà còn chưa đáp ứng được yêu cầu về dịch vụ
cũng nhưng thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm cho khách khi xảy ra sự cố.
1
Xem: Quyết định của Hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh số 14/QĐ-HĐXL ngày 29/07/2010 về xử lí vụ việc cạnh tranh số
KNCT-HCCT-0009.
2
/>
5
Dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, vụ việc này là một dạng TTHCCT, mà cụ thể là
thỏa thuận ấn định tăng giá, gây hậu quả rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, mức phạt ở đây là
chưa thỏa đáng, mức phạt tiền rất thấp, nên tính răn đe chưa cao.
Trên thị trường hiện nay đã xuất hiện các loại TTHCCT ngầm rất khó xác định.
Theo "Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền kinh tế" được Cục quản lí
cạnh tranh, Bộ công thương công bố, đã đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực của nền
kinh tế xem xét và đánh giá quy mô của thị trường, rào cản gia nhập thị trường và rút lui
khỏi thị trường, cấu trúc thị trường và thực trạng hoạt động cạnh tranh trên thị trường,
qua đó nhận diện các hành vi phản cạnh tranh đã, đang và có khả năng xuất hiện trên thị
trường liên quan trong lĩnh vực được đánh giá.
Trong các lĩnh vực sản xuất mà báo cáo đánh giá bao gồm sữa, thép, xi măng, thức
ăn chăn nuôi và phân bón hóa học, về quy mô thị trường có thể thấy 5 lĩnh vực này đều là
những lĩnh vực có quy mô thị trường lớn với tổng doanh thu toàn thị trường đều đạt trên
10.000tỷ đồng3.
Về thực trạng cạnh tranh trên thị trường, xuất phát từ đặc thù của 5 ngành nghề mà
mức độ tập trung kinh tế không cao, thông qua công tác giám sát thị trường và khảo sát,
các cơ quan chức năng nhận thấy các hành vi hạn chế cạnh tranh hầu như không xảy ra
hoặc nếu có xảy ra thì tính chất và mức độ chưa tới mức quan ngại.
Qua các câu hỏi trả lời khảo sát cũng như phỏng vấn sâu, thông tin thu nhận được
là không có hiện tượng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong cả 5 lĩnh vực nói trên. Tuy
nhiên, cơ quan chức năng cũng chỉ ra rằng, hiện tượng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong 5 lĩnh vực nói trên cũng đã xuất hiện.
Cụ thể, hành vi liên kết về giá điển hình là trong ngành sữa. Đó là việc trả lời câu
hỏi: Vì sao giá sữa bột ngoại nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay cao hơn mức trung bình
trên thế giới gần gấp đôi?
Vì vậy, vấn đề đặt ra cho 5 lĩnh vực trên chính là liệu có các thỏa thuận ngầm giữa
các nhà xuất khẩu và các nhà nhập khẩu/phân phối tại Việt Nam không? Vì sao chúng ta
không thể kiểm soát nổi việc tăng giá bất hợp lý trong lĩnh vực sữa, thép, xi măng...?
Hay trong hoạt động ngân hàng, thỏa thuận ấn định lãi suất trần của các tổ chức tín
dụng trong hiệp hội Ngân hàng cũng được cục Quản lý cạnh tranh xác định là một hình
thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong kinh doanh xăng dầu cũng xảy ra tình trạng
3
/>
6
các doanh nghiệp đồng loạt tăng giá liên tục mà theo cơ quan này thì đó là dấu hiệu thỏa
thuận ấn định giá4...
Tiếp theo là các thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản
xuất, mua, bán hàng hóa, dịch vụ.
Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hoặc
cung ứng có gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, làm cho thị
trường không được thỏa mãn đủ nhu cầu theo đúng năng lực kinh doanh hiện có;sự khan
hiếm hàng hóa, dịch vụ do việc thực hiện thỏa thuận gây ra có thể sẽ đẩy giá hàng hoá,
dịch vụ lên cao làm cho người tiêu dùng sẽ phải gánh chịu những thiệt hại từ mức giá đó;
sự khan hiếm cũng có thể gây ra những xáo trộn nhất định trong đời sống kinh tế - xã hội,
dễ tạo ra những cuộc khủng hoảng hoặc những cơn sốt trên thị trường.Có thể lấy ví dụ về
hậu quả của cơn sốt xi măng trong những năm 1995 - 1997 đã gây ra cho thị trường làm
điển hình cho khả năng gây thiệt hại của nhóm thỏa thuận này5.
Một loại TTHCCT gây hậu quả rất nghiêm trọng nữa là Thông đồng để một hoặc
các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ững dịch vụ.
Vốn dĩ sự thông đồng trong đấu thầu luôn mang bản chất cản trở cơ chế cạnh
tranh, song các nhà làm luật chỉ thực sự quan tâm và bày tỏ thái độ nghiêm khắc khi
chúng được thực hiện trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và mua sắm vật chất từ tài sản
công. Điều này đã xảy ra ở nhiều nước trong đó có Việt Nam.
Luật Đấu thầu, Luật Thương mại và Luật Cạnh tranh ra đời. Song, vấn đề mà Việt
Nam cần giải quyết ngay là tổ chức thực thi pháp luật một cách hiệu quả để tạo lập và
duy trì cơ chế cạnh tranh trong đấu thầu. Có một vài vấn đề cần được quan tâm là:
Thứ nhất, những cuộc thông đồng trong đấu thầu mà nhà nước phát hiện thường có
tính hệ thống, đan xen nhiều kiểu thông đồng, thậm chí là thông đồng theo chiều dọc và
chiều ngang lẫn lộn. Các vụ việc liên quan đến thông đồng trong xây dựng cơ bản hoặc
các dự án phát triển ngành khi bị phát hiện luôn có bóng dáng của cán bộ nhà nước với
vai trò là chủ đầu tư hoặc đầu mối đầu tư. Vụ án liên quan đến Lã Thị Kim Oanh là ví dụ
điển hình. Điều này tạo ra những thách thức cho cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh bởi để
xác định chính xác về hành vi người thực thi cần có được bản lĩnh và năng phân tích, bóc
tách các dữ liệu cần thiết có trong vụ việc để xác định sự thông đồng nào là vi phạm pháp
luật đấu thầu và hành vi nào vi phạm pháp luật cạnh tranh.
4
5
/>Trường đại học kinh tế - luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình luật cạnh tranh, 2010.
7
Thứ hai, hiện nay, phần lớn các nghi án trọng điểm về thông đồng thường diễn ra
giữa các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc doanh. Những vụ thông đồng trong
đấu thầu các dự án mà người mời thầu là tư nhân thường không lớn và lẻ tẻ. Vì thế, việc
điều tra và xử lý chắc chắn sẽ phát sinh nhiều điều tế nhị. Hội đồng cạnh tranh hay cơ
quan quản lý cạnh tranh với năng lực hiện tại (trực thuộc Bộ Công thương, nhân sự mỏng
và có vị trí chưa xứng tầm) sẽ khó có thể vượt qua được. Có lẽ, với bối cảnh hiện tại, trừ
phi các cơ quan thi hành luật cạnh tranh có được sự bảo đảm quyền lực theo kiểu của
thượng phương bảo kiếm thì mới có thể đảm bảo thái độ cương quyết mà luật đã công bố
đối với hành vi thông đồng trong đấu thầu.
Còn một số dạng TTHCCT nữa được quy định trong Điều 8 Luật Canh tranh,
nhưng e chỉ xin đi sâu vào phân tích một số loại TTHCCT như trên, do chúng rất tiêu
biểu và là vấn đề nổi cộm trong thực trạng về TTHCCT hiện nay ở Việt Nam.
2. Việc áp dụng Luật cạnh tranh trong việc kiểm soát các TTHCCT đối với
các hiệp hội nghành nghề.
Về nguyên tắc hiệp hội ngành nghề hoạt động ở nước ta vần thuộc sự điều chỉnh
của luật cạnh tranh. Tuy nhiên, cũng theo Luật cạnh tranh Việt Nam, vấn đề xử phạt các
hiệp hội nghành nghề tham gia vào các TTHCCT chưa được quy định rõ ràng, Điều 8 và
Điều 9 Luật cạnh tranh đều không đề cập các hiệp hội, như vậy khi hiệp hội vi phạm
pháp luật về TTHCCT sẽ xử lĩ như thế nào? Căn cứ pháp lí ở đâu? Đây thật sự là một lỗ
hổng của pháp luật.
Trong vụ việc ấn định giá của 19 doanh nghiệp bảo hiểm năm 2008, Hiệp hội bảo
hiểm Việt Nam đõng vai trò rất tích cực (đứng ra tổ chức hội nghị, gửi văn bản thỏa
thuận hợp tác về biểu phí mới cho các thành viên chưa tham gia bản thỏa thuận). Sau đó
vụ việc bị phát hiện và xử lí, nhưng chỉ có các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận ấn định
giá bị phạt tiền còn Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam không phải chịu biện pháp chế tài nào.
Lợi dụng lý do này, hầu hết những hiệp hội đã sử dụng vị thế của mình để “vận
động hành lang”6để bảo vệ lợi ích cho riêng nhóm mình mà không cần quan tâm đến lợi
ích tổng thể toàn xã hội. Những mục tiêu thông thường mà các hội, hiệp hội gây sức ép
là:
- Hạn chế nhập khẩu hoặc cấm nhập khẩu sản phẩm, dịch vụ mà hiệp hội cung ứng,
6
/>
8
- Ban hành các chính sách ưu đãi (đất đai, tín dụng,…) cho các nhà đầu tư thuộc hiệp hội
của mình,
- Ban hành chiến lược, quy hoạch phát triển ngành nghề thuộc lĩnh vực của hiệp hội và
thông qua đó có cơ sở để đòi hỏi những ưu đãi khác nhau (trong trường hợp này, hiệp hội
thường đóng vai trò rất quan trọng trong việc “phân chia” những ưu đãi đó có việc giám
sát, điều tra các vụ, việc liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh (bao gồm cả thoả thuận
hạn chế cạnh tranh).
3. Các TTHCCT bị cấm tuyệt đối và các TTHCCT được hưởng miến trừ.
Theo pháp luật Việt Nam có 3 loại TTHCCT bị cấm tuyệt đối ( không được miễn
trừ)7: Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường
hoặc phát triển kinh doanh; thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không
phải là các bên của thỏa thuận; thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng
thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Ngoài 3 trường hợp cấm tuyệt đối nói trên, tất cả các TTHCCT còn lại chỉ bị cấm
khi tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan 30% trỏe lên.
Tuy nhiên, pháp luật vẫn xem xét các trường hợp miễn trừ kể cả khi các bên tham
gia TTHCCT có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan lớn hơn 30%, khi đáp ững các
điều kiện được hưởng miễn trừ theo Điều 10 luật cạnh tranh. Nhìn chung các điều kiện
miễn trừ mà pháp luật quy định là hợp lí. Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật Việt Nam còn
thiếu quy định về hai điều kiện quan trọng để hưởng miễn trừ, đó là: 1) Việc hực hiện
TTHCCT là cần thiết và không thể tránh khỏi nhằm đạt được các mục tiêu quy định tại
Điều 10 ở trên; 2) Việc thực hiện TTHCCT không được tạo cho các doanh nghiệp tham
gia thỏa thuận khả năng loại bỏ đáng kể cạnh tranh trên thị trường liên quan.
4. Nhận xét
Từ thực tiễn trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận định khái quát về hành vi thoả
thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt nam như sau:
- Hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi ở Việt nam có một phần nguồn gốc từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước kia. Hành vi này được đánh giá tích cực như làmột
sự hợp tác, bảo vệ quyền lợi cho một nhóm doanh nghiệp nào đó,
- Hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi xuất hiện tương đối nhiều ở Việt nam
và không bị pháp luật điều chỉnh (cho đến khi Luật Cạnh tranh được ban hành). Như vậy,
7
Xem: Khoản 1 Điều 9 Luật cạnh tranh năm 2004
9
hành vi này có thể được coi là hoàn toàn hợp pháp, vì thế hình thức cartel chủ yếu ở Việt
nam là hình thức hiệp hội ngành nghề,
- Hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh đôi khi cũng bị điều chỉnh bởi một quy định
pháp luật khác (ví dụ: quy định pháp luật liên quan đến quản lý giá, quản lý hiệp hội),
- Khác với hầu hết các quốc gia, hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh nhiều khi còn
được sự bảo trợ của cơ quan nhà nước, trong khi đó người tiêu dùng (phía đối trọng của
cartel) lại không có một tổ chức đủ mạnh để chống lại sự lạm dụng vị thế của những hiệp
hội ngành nghề này,
- Hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt nam xuất hiện theo cả 2 hình thức: thoả
thuận theo chiều ngang và thoả thuận theo chiều dọc,
- Hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt nam không chỉ gây thiệt hại cho người
tiêu dùng mà còn gây thiệt hại, lãng phí cho nguồn lực của Nhà nước, đặc biệt trong đấu
thầu xây dựng cơ bản, trong mua sắm trang thiết bị công,
- Cuối cùng, tác động những hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh đang dần được nhìn
nhận và đánh giá một cách xác đáng ở Việt nam.
Quy định tại Điều 8 Luật cạnh tranh là một quy định cững nhắc, chưa linh hoạt
trong việc giới hạn các loại TTHCCT, tức là điều luật không mang tính mở, theo đó chỉ
những hành vi được liệt kê trong Điều 8 mới bị coi là TTHCCT và bị pháp luật điều
chỉnh.
Theo lí thuyết cạnh tranh thì TTHCCT được chia làm 2 loại là thỏa thuận theo
chiều ngang và thỏa thuận thro chiều dọc. Để đảm bảo sự linh hoạt trong việc xác định
TTHCCT sẽ bị xem xét theo quy định của pháp luật cạnh tranh pháp luật cạnh tranh của
nhiều nước trên thế giới không liệt kê các loại TTHCCT mà đưa ra các tiêu chí để xác
định các thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh dẫn tới hạn chế cạnh tranh và bao gồm cả
TTHCCT theo chiều ngang và các TTHCCT theo chiều dọc. Pháp luật nước ta chỉ giới
hạn trong 8 loại hành vi, sẽ không tránh khỏi sự bỏ sót các hành vi TTHCCT khác.
Luật cạnh tranh còn thiếu các quy định miến trách nhiệm cho các doanh nghiệp
tham gia TTHCCT bị cấm nhưng tự nguyện khai báo với cơ quan chức năng, do đó chưa
phát huy được tinh thần trách nhiệm tự giác của các chủ thể này.
III. Một số biện pháp kiểm soát TTHCCT
1. Hoàn thiện các quy định về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
10
Thứ nhất, cần phải có sự phân biệt rõ rang TTHCCT theo chiều ngang và
TTHCCT theo chiều dọc. Thỏa thuận theo chiều ngang thường có mức độ gây thiệt hại
nhiều hơn. Trên thực tế, thỏa thuận theo chiều ngang được thực hiện dưới các hình thức:
thỏa thuận ấn định giá hay các điều kiện bán hàng khác; thỏa thuận phân chia thị trường;
thỏa thuận hạn chế sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ; thông đồng đấu thầu; thỏa thuận
loại bỏ hoặc ngăn cản sự gia nhập thị trường của doanh nghiệp khác. Thỏa thuận dọc trên
thực tế được thể hiện dưới hình thức áp dặt điều kiện kinh doanh khác đối với doanh
nghiệp8.Bản chất của hai loại thỏa thuận này là khác nhau. Có thể hiểu một cách khách
quan thỏa thuận ngang là thỏa thuận giữa cấc doanh nghiệp cạnh tranh trên cùng thị
trường liên quan mà mục đích lớn nhất của họ là giảm bớt cạnh tranh và ngăn cản hoặc
kìn hãm sự gia nhập thị trường của doanh nghiệp khác không phải là các bên của thỏa
thuận, đảm bảo vị thế trên thường trường của các doanh nghiệp. Xét về tổng thể, thỏa
thuận ngang có thể làm thủ tiêu cạnh tranh, phá vỡ quy luật thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Do đó mà mức độ gây thiệt hại của nó là rất lớn. Còn các thỏa thuận dọc với mục
đích chính là thu được lợi nhuận cao do đó mà thiệt hại trực tiếp tác động đến người tiêu
dùng trong xã hội. Xét về tổng thể, thiệt hại do loại thỏa thuận này gây ra nhỏ hơn nhiều
so với thỏa thuận theo chiều ngang.
Luật cạnh tranh cần phải định lượng cho 2 loại thỏa thuận này tỉ lệ phần trăm khác
nhau đối với thị phần kết hợp trên thị trường liên quan làm căn cứ cho việc kiểm soát.
Yêu cầu kiểm soát và can thiệp vào các thỏa thuận theo chiều ngang cần phải cao hơn và
nghiêm khắc hơn.
Thứ hai, Cần quy định bổ sung căn cứ để xác định TTHCCT thuộc diện bị cảm,
không nên coi thị phần là căn cứ duy nhất để kết luận 1 TTHCCT là hợp pháp hay bất
hợp pháp, bởi lẽ có những doanh nghiệp tham gia TTHCCT có thị phần kết hợp chưa đến
30% nhưng mức độ gây hạn chế cạnh tranh rất lớn nhưng vẫn không bị cấm. Theo Điều
3, khoản 5 Luật cạnh tranh: “Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hóa, dịch
vụ nhất định là tỉ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng
doanh thu của tất cả doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường
liên quan hoặc tỉ lệ % giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số
mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị
trường liên quan theo tháng, quý, năm”.
8
Xem: Điều 18 Nghị định 116/2005/ND-CP
11
Thông thường, 1 doanh nghiệp kinh doanh nhiều ngành nghề khác nhau nên cùng
mọt lúc doanh nghiệp đó tham gia nhiều thị trường liên quan khác nhau và trong tố tụng
cạnh tranh, 1 vụ việc chỉ được xem xét trong một thị trường liên quan.
Ngoài việc xem xét yếu tố thị phần, chúng ta cũng cần cân nhắc thêm các yếu tố khác
như pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới như: tiêu chí giá cả hàng hóa, dịch vụ để
xác định các dạng TTHCCT ( thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị trường…);
tiêu chí sản lượng, khối lượng mua, bán hàng hóa, dịch vụ để đánh giá mức độ hạn chế
cạnh tranh của các thỏa thuận liên quan trực tiếp đến việc hạn chế hoặc kiểm soát khối
lượng, số lượng sản xuất mua, bán hàng hóa, dịch vụ. Ngoài ra cũng cần căn cứ vào các
tiêu chí khác như: số lượng đơn đón chào hàng, đặt hàng; số lượng các thương nhân tham
gia thị trường; phương thức cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Thứ ba, Cần sửa đổi khoản 8, Điều 8 Luật cạnh tranh theo hướng quy định chế tài
riêng cho loại hành vi thông thầu cho phù hợp với mức độ gây hạn chế cạnh tranh của
chúng. Hành vi thỏa thuận đấu thầu thông đồng gây tác hại rất lớn cho môi trường cạnh
tranh, vì vậy cần xử lí nghiêm khắc. Trong khi đó hình thức xử phạt cao nhất được áp
dụng cho mọi hành vi TTHCCT là phạt tiền được quy định taaij Điều 188 Luật cạnh
tranh: “Đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền hoặc tập trung kinh tế, cơ quan có
thẩm quyền xử phạt có thể phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân
vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm”. Do đó, cần thiết phải
quy định một chế tài riêng cho loại hành vi thông thầu này cho phù hợp với thông lệ quốc
tế (quy định chế tài khá nghiêm ngặt, nhiều nwocs còn coi là hành vi vi phạm pháp luật
hình sự) và điều kiện nwocs ta hiện nay.
2. Tổ chức bộ máy quản lí nhà nước kiểm soát hành vi TTHCCt.
Thứ nhất, cần nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức trong
Cục quản lí cạnh tranh. Đảm bảo phát hiện nhanh chóng và xử lí kịp thời các vụ việc hạn
chế cạnh tranh trái pháp luật.
Thứ hai, tiếp tục bổ sung đầy đủ cán bộ cho cơ quan quản lí cạnh tranh.
Thứ ba, liên kết phối hợp với đội ngũ cộng tác viên ngoài Cục. Việc giám sát cạnh
tranh, bóc tách một vụ cạnh tranh trái pháp luật cần có sự hỗ trợ đắc lực của các bộ
nghành kĩ thuật khác như xác định thị trường sản phẩm liên quan, thì trường địa lí liên
quan…Do đó, Cục cần có đội ngũ cộng tác viên đông đảo.
12
Thứ tư, phối kết hợp giảng dạy, xây dựng môn pháp luật cạnh tranh trong các
trường đại học thuộc ngành kinh tế, luật để đào tạo chuyên môn.
Thứ năm, phải nâng cao vị trí pháp lí của cơ quan quản lí, kiểm soát cạnh tranh,
cần phải trao cho cơ quan này một quyền lực phù hợp tạo đối trọng với quyền lực kinh tế
trên thị trường của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
3. Xây dựng cơ chế thực thi pháp luật, kiểm soát hành vi TTHCCt.
Thứ nhất, cần đảm bảo nguyên tắc độc lập trong hoạt động của cơ quan cạnh
tranh, không thể bị chi phổi, ảnh hưởng bởi các cơ quan khác. Ở nước ta, Cục quản lí
cạnh tranh trực thuộc Bộ Công thương, ở vị trí này cơ quan quản lí cạnh tranh chưa thực
sự phát huy được tối đa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Cơ quan này nên tách
ra khỏi Bộ công thương và trực tiếp chịu sự quản lí của Chính phủ.
Thứ hai, cần có cơ chế đảm bảo tính khoa học và khách quan cho các quyết định
xử lí vụ việc cạnh tranh. Quyết định phải hoàn toàn mang tính độc lập, không chịu bất kì
sự can thiệp của cơ quan, tổ chức nào.
Thứ ba, khuyến khích thành lập các hiệp hội người tiêu dùng để cung cấp thông tin
phục vụ người tiêu dùng, phát hiện kịp thời các hành vi phản cạnh tranh nói chung trên
thị trường. Bởi suy cho cùng, những hành vi này đều ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích
hợp pháp của người tiêu dùng.
Thứ tư, Luật cạnh tranh nên có các chính sách khoan hồng để khuyến khích các
chủ thể tham gia TTHCCT tự nguyện khai báo như miến nộp tiền phạt, giảm nhẹ mức
phat.., Bởi vì các chủ thể tham gia thỏa thuận thường không công khai nên việc phát hiện
xử lí là rất khó, nên cần có chính sách khoan hồng trong xử lí một vụ việc TTHCCT.
PHẦN KẾT LUẬN
Như ta thấy TTHCCT diễn ra rất phức tạp trên thị trường, do đó cần phải có sự
nghiên cứu kĩ lưỡng để xem xét đánh giá một vụ việc hạn chế cạnh tranh. Đòi hỏi sự vào
cuộc của mọi cơ quan chức năng và người tiêu dùng trong việc phát hiện và xử lí kịp thời
các hành vi này, đảm bảo cho pháp luật cạnh tranh được thực thi một cách nghiêm chỉnh,
loại bỏ đễn mức có thể các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tác động xấu đến quy luật kinh
tế thị trường.
13
MỤC LỤC
PHẦN MỞ BÀI............................................................. Error: Reference source not found
PHẦN NỘI DUNG........................................................Error: Reference source not found
I. Khái quát về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh......Error: Reference source not found
1. Khái niệm............................................................Error: Reference source not found
2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT)........Error: Reference
source not found
II.Thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam..........Error:
Reference source not found
1. Thỏa thuận hạn chế canh tranh giữa các doanh nghiệp. Error: Reference source
not found
2. Việc áp dụng Luật cạnh tranh trong việc kiểm soát các TTHCCT đối với các
hiệp hội nghành nghề.............................................Error: Reference source not found
3. Các TTHCCT bị cấm tuyệt đối và các TTHCCT được hưởng miến trừ.. Error:
Reference source not found
4. Nhận xét.............................................................. Error: Reference source not found
III. Một số biện pháp kiểm soát TTHCCT..............Error: Reference source not found
1. Hoàn thiện các quy định về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.....Error:
Reference source not found
2. Tổ chức bộ máy quản lí nhà nước kiểm soát hành vi TTHCCt.Error: Reference
source not found
3. Xây dựng cơ chế thực thi pháp luật, kiểm soát hành vi TTHCCt……..….Error:
Reference source not found
14