Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

QUAN NIỆM về NGƯỜI ANH HÙNG TRONG THƠ điếu của NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.42 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

ĐỀ TÀI : QUAN NIỆM VỀ NGƯỜI ANH HÙNG
TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUỄN ĐÌNH CHIỂU.

Học phần : Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm
GVHD : Nguyễn Thị Bảo Anh
SVTH : Nguyễn Phương Bích Thảo

Bình Dương, tháng 12 năm 2018




MỤC LỤC
A. PHẦN DẪN NHẬP..................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu...........................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................2
4. Các phương pháp nghiên cứu..............................................................................2
5. Lịch sử vấn đề.....................................................................................................2
6. Cấu trúc của luận văn..........................................................................................3
B. PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................3
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẦN ĐỀ CHUNG....................................................................3
1.1 Tác giả Nguyễn Đình Chiểu..............................................................................3
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác...............................................................3


1.1.2. Quan niệm sáng tác.................................................................................3
1.2. Thơ điếu............................................................................................................ 4
1.2.1. Thể loại thơ điếu là gì ?...........................................................................4
1.2.2. Giới thiệu về thơ điếu Trương Định và Phan Tòng..................................4
1.2.2.1. Bối cảnh sáng tác..................................................................................4
1.2.2.2. Nhân vật Trương Định là ai ?...............................................................5
1.2.2.3. Nhân vật Phan Tòng là ai ?...................................................................5
1.3. Khái niệm “anh hùng”......................................................................................5
CHƯƠNG 2.HÌNH ẢNH NGƯỜI ANH HÙNG TRONG THƠ ĐIẾU NGUYỄN
ĐÌNH CHIỂU
5
2.1 Quan niệm người “anh hùng” của Nguyễn Đình Chiểu.....................................5
2.1.1. Người “anh hùng” Trương Định
6
2.1.2. Người “anh hùng” Phan Tòng.................................................................7
2.2. Ảnh hưởng của Nho giáo trong quan niệm về người “anh hùng” của Nguyễn
Đình Chiểu..............................................................................................................8
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG
TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU...................................................9
3.1. Vai trò của thể loại............................................................................................9
3.2. Ngôn ngữ........................................................................................................10
3.3. Giọng điệu......................................................................................................11
C. PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................12
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................13




1



2

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẦN ĐỀ CHUNG
1.1 Tác giả Nguyễn Đình Chiểu
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
1.1.2. Quan niệm sáng tác
1.2. Thơ điếu
1.2.1. Thể loại thơ điếu là gì ?
1.2.2. Giới thiệu về thơ điếu Trương Định và Phan Tòng
1.2.2.1. Bối cảnh sáng tác
1.2.2.2. Nhân vật Trương Định là ai ?
1.2.2.3. Nhân vật Phan Tòng là ai ?
1.3. Khái niệm “anh hùng"
CHƯƠNG 2. HÌNH ẢNH NGƯỜI ANH HÙNG TRONG THƠ ĐIẾU NGUYỄN
ĐÌNH CHIỂU
2.1 Quan niệm người “anh hùng” của Nguyễn Đình Chiểu
2.1.1. Người “anh hùng” Trương Định
2.1.2. Người “anh hùng” Phan Tòng
2.2. Ảnh hưởng của Nho giáo trong quan niệm về người “anh hùng” của Nguyễn Đình
Chiểu
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG
TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
3.1. Vai trò của thể loại
3.2. Ngôn ngữ
3.3. Giọng điệu
C. PHẦN KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẦN ĐỀ CHUNG
1.1 Tác giả Nguyễn Đình Chiểu
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
* Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Ông
xuất thân trong một gia đình nhà Nho.
Năm 1843, ông đỗ tú tài. Năm 1846, ông ra Huế học, nhưng chuẩn bị vào trường
thi thì nhận tin mẹ mất ông phải bỏ thi về chịu tang (1849). Trên đường về, vì thương
mẹ mà ông khóc rất nhiều, sau đó ông bị đau mắt nặng và bị mù. Tiếp theo đó, cuộc
đời ông đã liên tiếp gặp phải hàng loạt những tai ươn, sóng gió và cuối cùng là ông bị
bội hôn.


3

Sau đó, ông mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân và sáng tác thơ văn.
Năm 1859, Pháp xâm lược, Nguyễn Đình Chiểu đã đứng trên tuyến đầu của cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm. Dùng ngòi bút của mình làm vũ khí chống lại quân xâm
lược.
* Sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Đình Chiểu bắt đầu sáng tác sau khi mù, hầu hết các tác phẩm đều viết
bằng chữ nôm. Căn cứ vào nội dung chúng ta có thể chia sáng tác của ông thành hai
giai đoạn :
Trước khi Pháp xâm lược là những truyện thơ dài, truyền bá đạo lí làm người như
truyện
Lục
Vân
Tiên,
Dương

Từ

Mậu,
...
Sau khi Pháp xâm lược là những thơ văn yêu nước chống Pháp như : Chạy
giặc( thơ), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng,
Ngư Tiều y thuật vấn đáp ( truyện thơ), ...
Trong toàn bộ các tác phẩm của ông không một tác phẩm nào mang tính du hí, vui
chơi thanh nhàn mà đều mang một nỗi lòng của nhà nho Nguyễn Đình Chiểu từ thời
bình đến thời chiến. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông là một bài học lớn về lòng
yêu nước, về việc sử dụng văn chương là vũ khí chiến đấu không ngừng nghĩ, ông là
tấm gương cho lớp lớp người dân tộc Việt Nam phấn đấu trở thành nhất là trong giai
đoạn hiện nay.
1.1.2. Quan niệm sáng tác
Nguyễn Đình Chiểu quan niệm “văn dĩ tải đạo”, nhà văn là phải lấy văn chương
làm vũ khí bảo vệ đạo lí, đó chính là đạo lí của Nho gia : cương thường và truy hiếu.
Những nhà thơ, nhà văn như Nguyễn Đình Chiểu không thể cầm giáo để đánh giặc thì
họ sẽ cầm bút để tấn công địch trên mặt trận tư tưởng tinh thần. Nó giống như con
thuyền nhỏ bé kia, dẫu có chở bao nhiêu đạo thì cũng không đắm không chìm. Đạo
đức là một thứ văn chương thời bấy giờ luôn hướng đến và đem vào thơ ca để mang
đến sự truyền tải đến với người đọc. Thơ văn theo quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu
không phải là một thứ phù phiếm ngâm hoa vịnh nguyệt mà phải có tác dụng bổ ích
cho con người, cho xã hội, qua việc biểu dương những điều hay, phê phán những việc
dở. Thơ văn của ông nhằm mục đích chiến đấu, bảo vệ đạo đức, chính nghĩa và độc
lập tự do của dân tộc.
Chở
bao
nhiêu
đạo
thuyền

không
khẳm
Đâm
mấy
thằng
gian
bút
chẳng

( Than đạo )
Quan niệm sáng tác này thể hiện nhất quán, xuyên suốt cả cuộc đời thơ văn của
Nguyễn Đình Chiểu.
1.2. Thơ điếu
1.2.1. Thể loại thơ điếu là gì ?
Văn tế là một thể loại cơ bản trong văn học Việt Nam thời kì trung đại. Văn tế vốn
có nguồn gốc lâu đời ở Trung Quốc và được phát triển thành một thể văn quan trọng,
đặc sắc với nhiều bài văn tế có giá trị cao trong văn học Việt Nam thời kỳ này.
Ở Việt Nam văn tế là một thể loại kiêm luôn cả Lỗi, Điếu văn, Ai từ. Nó không bắt
buộc phải tuân theo khuôn phép, lễ nghi nào cả. Văn tế là một phương tiện hữu hiệu
bày tỏ niềm tiếc thương với người đã mất mà không hề phân biệt trên dưới, xa gần,
thân sơ.


4

Ai từ là loại văn ai điếu người chết. Điếu văn là văn viếng người đã chết, gọi là
“điếu từ”, “điếu thư”, nếu làm theo thể thơ thì gọi là “điếu thi”. Điếu là “vấn chung”,
tức là thăm hỏi người chết. Điếu là đến, khách đến an ủi chủ (là người đã mất). Thể
văn tế dùng để “tế trời đất, núi sông, còn gọi là kỳ văn hay chúc văn.
* Khái niệm : Văn tế là một thể loại trữ tình bày tỏ niềm thương tiếc đối với người

đã mất mà không phân biệt trên dưới, xa gần, thân hữu. Những bài văn tế thể hiện
những tình cảm lớn của những trái tim lớn, trái tim mang tình cảm của nhân dân, tình
cảm tiên tiến của thời đại; thường là những tiếng khóc đời, khóc nước, khóc đồng chí,
đồng bào của tác giả. Những bài văn tế như thế thường gây xúc động mãnh liệt trong
lòng người đọc và trở thành những tác phẩm văn học có giá trị.
1.2.2. Giới thiệu về thơ điếu Trương Định và Phan Tòng
Thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu có những nét rất riêng, các bài thơ điếu của ông
viếng người chết, là sự thương xót của nhà thơ đối với các nhân vật lịch sử như : Phan
Tòng, Trương Định. Thông thường, các bài thơ điếu được viết theo thể thất ngôn bát
cú Đường luật. Bố cục rất rõ ràng tự nhiên, đúng phép. Hai câu đầu là nhập đề, nói
tổng quát về giá trị người đã mất. Tiếp theo là bốn câu thực và luận vạch lại những
chiến công của các chí sĩ ấy. Hai câu cuối là cảm tình của tác giả đối với người đã mất,
lời nghiêm trang bình dị mà tình ý rất thiết tha.
1.2.2.1. Bối cảnh sáng tác
* Mười hai bài thơ điếu Trương Định (1864) : Năm 1864, trước cái chết của Trương
Định, Nguyễn Đình Chiểu đau đớn vì đã mất một người bạn chiến đấu đồng tâm đồng
chí và tỏ ra ái ngại vì trước nạn nước mất nhà tan, khó có người đầy đủ nghị lực và uy
tín như Trương Định để lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp. Cụ Đồ Chiểu đã bày tỏ lòng
thương tiếc vô hạn của mình đối với người anh hùng một lòng vì dân đánh giặc qua
cụm tác phẩm điếu Trương Định gồm một bài văn tế và mười hai bài thơ liên hoàn.
* Mười hai bài thơ điếu Phan Tòng (1868) : Điếu Phan Tòng, hoàn cảnh ra đời của
10 bài thơ này chưa được xác định một cách rõ ràng và hiện cũng có rất nhiều ý kiến
về vấn đề này. Về năm tháng Phan Tòng tử trận, có sách ghi là năm 1867, có sách ghi
1868. Cá biệt có những người nhầm lẫn với mức chênh lệch khá xa về năm tháng.
Nhưng khi qua bài thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta có thể phác họa vài nét
về Phan Tòng như sau: Phan Tòng tử trận năm 1868, lúc chết ông được 50 tuổi (Sinh
năm mươi tuổi ăn chơi mấy). Do vậy có thể tính được, Phan Tòng sinh năm 1818.
1.2.2.2. Nhân vật Trương Định là ai ?
Trương Định vốn là một quản cơ dưới thời Tự Đức. Khi thành Gia Định thất thủ,
ông dẫn lính cơ phối hợp với quân đội triều đình tấn công giặc Pháp. Trương Định

cùng với tri huyện Lưu Tấn Thiện, bát phẩm thơ lại Lê Quang Quyền tích trữ lương
thực, rèn đúc súng đạn, chuẩn bị đối phó lâu dài. Ông được cử làm phó lãnh binh Gia
Định. Về sau triều đình nhượng bộ, ký hòa ước cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ dâng
cho Pháp. Trương Định một mặt được thăng làm lãnh binh, nhưng mặt khác có lệnh
buộc phải giải binh để đi nhận chức mới ở An Giang. Trương Định không thi hành
lệnh của triều đình. Ông kiên quyết ở lại nhận chức Bình Tây đại nguyên soái của nhân
dân phong tặng, tiếp tục cuộc chiến đấu suốt bốn năm ròng rã.
Ngày 19 tháng 8 năm 1864, Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn đường cho quân Pháp
bất ngờ bao vây đánh úp. Bản doanh “Đám lá tối trời thất thủ”, Trương Định bị trọng
thương (gãy xương sống). Để bảo toàn khí tiết, ông đã rút gươm tự sát tại Ao Dinh (Gò
Công) vào rạng sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864. Khi ấy, ông 44 tuổi.


5

Hay tin Trương Định tuẫn tiết, vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm, và
năm 1871 lại cho lập đền thờ ông tại Tư Cung (Quảng Ngãi).
1.2.2.3. Nhân vật Phan Tòng là ai ?
Phan Tòng là người Bình Đông, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Khi Pháp tấn công quê
ông, Phan Tòng đang có tang mẹ ba tháng. Không nỡ ngồi chờ mãn tang, trong khi
nước nhà bị quân thù giày xéo, ông đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Phan Tôn, Phan
Liêm chống giặc. Về sau Phân Tôn, Phan Liêm thất trận bỏ ra Huế, ông vẫn ở lại tiếp
tục chiến đấu. Nhưng cuộc chiến không ngang sức, nghĩa quân không được triều đình
ủng hộ, cuối cùng đã thất bại. Phan Tòng cũng như Trương Định, đã hy sinh một cách
dũng cảm
1.3. Khái niệm “anh hùng”
“Anh hùng” là một khái niệm chỉ những người có khí phách lớn, có tài năng, có
thể lực hơn người và một tinh thần dũng cảm gan dạ làm nên những việc lớn lao được
mọi người kính phục. Người anh hùng là biểu tượng của cái đẹp của những con người
biết hiến dâng trái tim cháy bỏng của mình cho nhân loại. Có anh hùng là có đạo lý.

Trong cuộc chiến đấu đầy thử thách, gian khổ của con người đã xuất hiện nhiều hành
động phi thường. Nó mang tính lý tưởng của những con người biết đặt lợi ích của cộng
đồng lên trên lợi ích cá nhân. Như vậy, “anh hùng” là một hiện tượng xã hội mà vấn đề
cốt lõi là đạo đức và cái đẹp.

CHƯƠNG 2. HÌNH ẢNH NGƯỜI ANH HÙNG TRONG THƠ ĐIẾU NGUYỄN
ĐÌNH CHIỂU
2.1 Quan niệm người “anh hùng” của Nguyễn Đình Chiểu
2.1.1.
Người
“anh
hùng”
Trương
Định
Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu người “anh hùng” lãnh tụ nghĩa quân Trương
Định trong hoàn cảnh rất cụ thể, khi nước nhà bị lâm nguy:
“Năm dài những mảng ngóng tin vua
Nín nhục thầm toan lẽ được thua”
(Thơ điếu Trương Công Định, bài 5)
Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa hình tượng người “anh hùng” lãnh tụ nghĩa binh
mang hơi thở của tư tưởng Nho gia, một Trương Định sáng ngời trên phương diện lý


6

tưởng của Đạo Nho. Trước hết, đó là một Trương Định trung quân, ái quốc, sẵn sàng
tham gia chiến đấu để:
“Chí dốc ra tay nâng vạc ngã
Trước sau cho trọng nghĩa quân thân”
(Thơ điếu Trương Định, bài 3)

Từ thực trạng đất nước bị xâm lược, đứng trước cảnh “nước mất nhà tan” đầy đau
thương ấy, người lãnh tụ nghĩa binh Trương Định đã sớm có ý thức về dân tộc và phất
cờ khởi nghĩa:
“Gian truân kể xiết bấy nhiêu lần
Vì nước đành trao một tấm thân”
(Thơ điếu Trương Định, bài 3)
Người “anh hùng” ở đây đã phải chịu nhiều hi sinh, thất bại nhưng trong thơ điếu
của Nguyễn Đình Chiểu, Trương Định vẫn hiện lên là tấm gương vô cùng lạc quan.
Sắc màu bi tráng thể hiện đậm nét trên phương diện này. Trương Định luôn nêu cao lý
tưởng, ý chí quyết tâm dựng lại cơ đồ đã suy sụp, xây dựng lại đất nước. Trương Định
là con người chính tà, ngay thẳng, luôn khẳng định mối quan hệ thống nhất vua - giang
sơn, luôn muốn bày tỏ cho nhà vua hiểu việc mình làm:
“Phân bua trời đất biết cho lòng,
Công việc đâu đâu cũng muốn xong.”
(Thơ điếu Trương Định, bài 6)
Trở thành hình tượng lý tưởng trong những cuộc kháng chiến chống Tây nên
người “anh hùng” lãnh tụ nghĩa binh Trương Định luôn nhận được sự ủng hộ của các
tầng lớp nhân dân. Sự tin tưởng của nhân dân đối với nghĩa quân và đối với thủ lĩnh
Trương Định trong quá trình đánh giặc ngày càng cao:
“Lương tiền nhà ruộng ba mùa trước,
Thuốc đạn ghe buôn bốn biển ngoài.”
(Thơ điếu Trương Định, bài 4)
Người ‘anh hùng” vì hai chữ “quân thần” mà Trương Định luôn quyết tâm đền đáp
ơn vua và cha mẹ. Đó cũng chính là phẩm chất tiêu biểu của người “anh hùng” lãnh tụ
nghĩa binh. Trương Định là người anh hùng bất chấp mọi khó khăn trước mắt, bất chấp
trước sức mạnh của địch. Tinh thần của Trương Định là lấy yếu chống mạnh. Điều ấy
được ông phản ánh một cách rõ nét trong hành động Trương Định đã phải tự mình
vượt lên trên mọi khó khăn, gian khổ, luôn kiên trì vì sự nghiệp cứu nước và luôn
quyết tâm đánh giặc đến cùng:
“Dẫu biết dụng binh nhờ đất hiểm

Chẳng đành xa bỏ cõi Gò Công”.
(Thơ điếu Trương Định, bài 6)
Tiếng tăm của Trương Định sau trận thắng ở Gò Công được lưu truyền trăm họ để
đời đời còn mãi với nhân gian. Quyết tâm theo đuổi mục đích cứu nước của mình,
Trương Định phải chịu hi sinh danh dự của bản thân, mang tiếng nghịch thần để đứng
hẳn về phía nhân dân kháng chiến. Vì nghe theo lòng dân, ông không chịu đi nhận
chức mới của triều đình mà ở lại cùng nhân dân tổ chức kháng chiến. Điều đó được
Nguyễn Đình Chiểu xây dựng lên một cách đẹp đẽ và cảm động vô cùng:
“Giúp đời dốc trọn ơn nam tử
Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần”
(Thơ điếu Trương Định)


7

Mặc dù những cuộc khởi nghĩa mà Trương Định lãnh đạo chưa đi tới thắng lợi
cuối cùng:
“Để ai dằn thúc lối sau này
Trời hãy chưa cho vội đánh Tây”
(Thơ điếu Trương Định, bài 10 )
Trương Định mất đi là một tổn thất rất lớn của nghĩa quân và non sông đất nước.
Nỗi niềm thương nhớ vị tướng quân “anh hùng” được nhà thơ phản ánh rất xúc động
qua câu thơ:
“Cảnh ấy những mơ người ấy lại,
Hội này nào thấy tướng quân đâu?”
(Thơ điếu Trương Định, bài 8)
Người “anh hùng” Trương Định đã có công giết giặc, bảo vệ đất nước, vì nhân dân
mà chiến đấu oanh liệt. Chính chiến thắng ở Gò Công đã khẳng định được tài cầm
quân và tinh thần quả cảm của ông. Viết về người “anh hùng” Trương Định, Nguyễn
Đình Chiểu đã hồi tưởng lại những chiến công oanh liệt, lẫy lừng của ông. Sự kiên trì

chống chọi với những khó khăn, thử thách đó giúp ta hiểu thêm về người lãnh tụ nghĩa
binh, người “anh hùng” luôn có thái độ kiên cường, bất khuất, dũng cảm, thấy việc
nghĩa phải làm. Đó là cái nghĩa đối với tổ quốc, đối với nhân dân. Ông đã dùng những
lời thơ hết mực bi tráng để ca ngợi người “anh hùng” Trương Định. Người có vai trò
và vị trí đã ăn sâu vào tâm trí mỗi người dân Nam Bộ lúc bấy giờ.
2.1.2. Người “anh hùng” Phan Tòng
Người “anh hùng” trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu là những con người vì
nghĩa lớn sẵn sàng hi sinh, quyết chiến đến cùng, xem thường cái chết. Đó là một Phan
Tòng phải gác chuyện tình cảm riêng tư, những mất mát, đau thương sang một bên mà
dốc toàn bộ lực lượng vào chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập, tự do cho
dân tộc, cho nhân dân dù biết trước có thể mình phải hi sinh. Đó mới chính là chí khí
của người “anh hùng”:
“Đầu tang ba tháng trời riêng đội
Lòng giận ngàn thu đất nổi dày.”
( Thơ điếu Phan Tòng, bài 2)
Khi nói về Phan Tòng, ông dùng những lời lẽ thống thiết để nêu cao chí khí anh
hùng của Phan Tòng, từ đó làm tấm gương cho những người yêu nước khác:
“Đặng danh vừa rạng bề nhà cửa
Vì nghĩa riêng đền nợ núi sông”
(Thơ điếu Phan Tòng, bài 1)
Phan Tòng là người có tấm lòng “trung nghĩa” của vị tướng quân chính. Là một
người vì nước giúp đời, xem thường cái chết, không bao giờ hàng giặc. Một “anh
hùng” Phan Tòng trọn chữ trung thần, và đối nghịch với bọn phản bội:
“Quan Phan thác trọn chữ trung thần,
Ôm tiết như người cũng nghĩa dân.”
(Thơ điếu Phan Tòng, bài 7)
Đạo lý Nho gia đã thấm nhuần trong tư tưởng của những người lãnh tụ nghĩa binh đã
khiến họ chiến đấu vì dân, vì nước mà không hề nghĩ đến sự sống chết của bản thân.
Hình ảnh Phan Tòng hiện lên đầy sự uy nghi, đẹp đẽ:
“Làm người trung nghĩa đáng bia son,

Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn.”


8

(Thơ điếu Phan Tòng, bài 9)
Phan Tòng đã có những đóng góp to lớn cho phong trào đấu tranh chống thực dân
Pháp. Cảm phục trước sự hi sinh cao cả của vị lãnh tụ nghĩa binh Phan Tòng, Nguyễn
Đình Chiểu đã cất lên tiếng khóc đau xót trước cái chết của người “anh hùng”. Mặc dù
là tiếng khóc nhưng lại rất bi tráng:
“Ba Tri từ vắng tiếng hơi chàng
Gió thảm mưa sầu khá xiết than
... Người ấy vì ai ra cớ ấy
Trạnh lòng trăm họ khóc quan Phan”
(Thơ điếu Phan Tòng, bài 6)
Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi công lao của người lãnh tụ nghĩa binh Phan Tòng
được nhân dân tưởng nhớ và biết ơn trong niềm tự hào khôn xiết:
“Một trận trải gan trời đất thấy
So xưa nào thẹn tiếng anh hùng”
(Thơ điếu Phan Tòng, bài 1)
Ông tiếp tục ngợi ca ngưới “anh hùng” Phan Tòng :
“Làm người trung nghĩa đáng bia son
Đứng giữa càn khôn tiếng chẳng mòn.”
(Thơ điếu Phan Tòng bài 9)
Chính tấm lòng “trung nghĩa” đó, Phan Tòng đã trở thành một ngôi sao sáng ngời
của lịch sữ Việt Nam :
“Tinh thần hai chữ phau sương tuyết
Khí phách ngàn thu rỡ núi non”
(Thơ điếu Phan Tòng, bài 9)
2.2. Ảnh hưởng của Nho giáo trong quan niệm về người “anh hùng” của

Nguyễn Đình Chiểu
*Ảnh hưởng của Nho giáo trong quan niệm về người “anh hùng” của Nguyễn
Đình Chiểu
Tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu là tư tưởng Nho giáo - và thế giới quan của ông
chính là Nho giáo. Hoàn cảnh gia đình và xã hội đã hướng ông trở thành một nhà Nho,
ngoài ra tư tưởng của ông còn bị chi phối bởi hiện thực xã hội sục sôi những cuộc đấu
tranh lúc bấy giờ. Đó là những cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân mà đại đa số
là nông dân chống lại các thế lực phong kiến hủ bại, đòi quyền sống, quyền dân chủ,
cuộc đấu tranh của dân tộc chống đế quốc xâm lược, giữ gìn độc lập cho đất nước.
Ông đề cao lẽ làm người, đề cao bổn phận, trách nhiệm của con người trước xã hội,
trước lịch sử của dân tộc và trên hết là ông đề cao người “anh hùng”, đề cao người
nghĩa binh và những người lãnh tụ của họ đã sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn, vì hạnh
phúc, tự do của dân tộc.
* Hạn chế của tư tưởng Nho giáo trong quan niệm về người anh hùng của
Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho nên còn mang trong mình những tư tưởng
Nho giáo cố hữu. Ông đề cao những tư tưởng nhân văn như: tư tưởng yêu nước; yêu
người, thương người; đấu tranh bảo vệ cái thiện, chống lại cái ác của những con người
trung, nghĩa, tiết hạnh… nhưng chủ yếu là ông ca ngợi những con người cá nhân, con
người nghĩa binh, những người “anh hùng áo vải”, một thân một mình trong những
hoàn cảnh cụ thể mang tính chất tự phát; do đó, ông chưa đề ra được một đường lối


9

cứu nước đúng đắn cho dân tộc nhằm đoàn kết được các lực lượng quần chúng nhân
dân đứng lên chống giặc cứu nước; và cũng chưa đưa ra được cách thức, phương pháp
đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc. Trong khi đó, các phong trào yêu nước không có
sự định hướng cụ thể hay đường lối dẫn dắt nên đều mang tính chất tự phát và bị thực
dân Pháp đàn áp dã man dẫn đến thất bại. Vì vậy, ông không có cơ hội để cụ thể hóa

được những tư tưởng nhân văn của mình trong tác phẩm của ông ra thực tiễn đời
thường.
TIỂU KẾT
Nguyễn Đình Chiểu đã dành phần lớn sáng tác của mình để khắc họa hình ảnh
những người lãnh tụ nghĩa binh trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông đã chọn thể
loại thơ điếu để khóc cho những người “anh hùng”. Nguyễn Đình Chiểu đã khiến
những người “anh hùng” như Trương Định, Phan Tòng trở thành những hình tượng cô
đọng, sắc nét, giàu màu sắc biểu cảm. Hình ảnh những người “anh hùng” nghĩa binh
trong thơ điếu Nguyễn Đình Chiểu thường là những nhà lãnh đạo tài tình, gan dạ, dũng
cảm, hết lòng phục vụ nhân dân. Những cái tên được ông nhắc tới nhiều trong các sáng
tác của mình là Trương Định và Phan Tòng. Ông viết về họ với cảm hứng yêu nước bi
tráng, ông hết lời ca ngợi, khắc ghi công lao của họ đối với nhân dân, đất nước. Việc
ông đã dành 12 bài thơ điếu Trương Định, 10 bài thơ điếu Phan Tòng đã thể hiện rõ
điều đó. Thông qua thơ ông, hai người anh hùng trở nên uy nghi, rạng rỡ.
Viết về những người anh hùng lãnh tụ nghia binh, Nguyễn Đình Chiểu luôn dành
những dòng thơ sôi nổi, thiết tha, trìu mến nhất. Ông không dừng lại miêu tả họ bằng
những câu thơ chung chung mà hết sức chú ý đến những tính cách cụ thể, những tình
huống riêng biệt và cảnh ngộ của từng người, từng đối tượng. Để rồi từ đấy, nhà thơ
cất lên tiếng khóc bi tráng nhất trên nền cảm hứng yêu nước mãnh liệt. Khắc họa vẻ
đẹp của họ, Nguyễn Đình Chiểu không chỉ thể hiện tình cảm cá nhân mà còn thể hiện
tình cảm, thái độ của hàng triệu người dân yêu nước đất Việt.

CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NGƯỜI ANH HÙNG
TRONG THƠ ĐIẾU CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU.
3.1. Vai trò của thể loại
Ở thể loại thơ điếu, Nguyễn Đình Chiểu đã đạt được những thành công đáng kể
gắn liền với một loạt các tác phẩm như Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng.
Đặc điểm của thơ điếu được thể hiện thông qua thể thơ, hệ thống kết cấu, cách ngắt
nhịp, đối, niêm, vần.... qua những đặc điểm trên của thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu
chúng ta thấy được sự kế thừa, tiếp thu thành tựu văn học giai đoạn trước đó cũng như

sự sáng tạo của ông trong việc duy trì, phát triển thể thơ dân tộc.
Nguyễn Đình Chiểu đã kế thừa vận dụng những điều đó vào sáng tác những bài
thơ điếu của mình. Các bài thơ điếu của ông đều được sáng tác bằng thể thơ thất ngôn


10

bát cú luật bằng. Với cách ngắt nhịp độc đáo 2/2/3, lời thơ như được nhấn mạnh, lắng
sâu nhằm thể hiện cảm xúc, nỗi đau thương mất mát của tất cả người dân trước sự ra đi
của Phan Tòng, người lãnh tụ nghĩa binh anh dũng:
Thương ôi! / người ngọc / ở Bình Đông.
Lớn nhỏ / trong làng / thảy mến trông.
(Thơ điếu Phan Tòng, bài 1)
Tóm lại, với cách phân chia kết cấu hết sức chặt chẽ theo lối truyền thống của thể
loại thơ điếu, Nguyễn Đình Chiểu đã đem đến cho người đọc những bài học luân lý,
những tư tưởng đạo lý răn đời khuôn phép nhưng lại rất dễ ngấm sâu và dễ hiểu.
Một trong những đặc điểm nữa của thể loại thơ điếu là cách gieo vần. Các câu thơ
sẽ hiệp vần ở chữ cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8. Trong các tác phẩm thơ điếu của mình,
Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng hiệp vần rất chặt chẽ, đúng luật thơ, điều đó đã tạo nên
âm vang, độ mở và sự lôi cuốn, hấp dẫn ở mỗi bài thơ đến người đọc. Đồng thời nó
khiến tư tưởng chủ đề của bài thơ có sức vang xa, lan tỏa đến người đọc.
Nghệ thuật đối là một trong những đặc điểm bắt buộc của thể loại thơ điếu và
Nguyễn Đình Chiểu cũng đã sử dụng rất thành công trong tất cả các bài thơ điếu của
mình.
Tuy thể loại thơ điếu phải tuân thủ theo những nguyên tắc chặt chẽ song Nguyễn
Đình Chiểu đã vận dụng một cách khéo léo và tạo nên những bài thơ điếu có giá trị.
3.2. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ nghệ thuật là một trong những phương diện quan trọng để tạo nên cái
hay, cái hấp dẫn của một tác phẩm thơ. Ngôn ngữ có vai trò quan trọng tạo nên giá trị
nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Với tài năng sáng tạo của mình, mỗi nhà văn, nhà

thơ lại sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ riêng để tạo nên nét độc đáo cá tính của mình.
Ngôn ngữ trong thơ điếu mang tính hình tượng, gợi cảm và hàm súc và chứa đựng
thêm cảm xúc, nhạc tính và có chức năng truyền cảm trực tiếp. Ngôn ngữ trong thơ
điếu Nguyễn Đình Chiểu được thể hiện ở : thành phần ngôn ngữ dân tộc là từ láy,
thành phần ngôn ngữ từ Hán Việt thông qua các điển cố, điển tích.
Trước hết là việc sử dụng điển cố, điển tích trong thơ điếu, Nguyễn Đình Chiểu
muốn khẳng định phẩm chất người anh hùng. Người anh hùng sống trong thời đại Nho
giáo chính vì thế họ luôn mang tư tưởng trung quân, ái quốc. Ông đã sử dụng hình ảnh
các tấm gương hi sinh vì nước để nói lên lòng yêu nước tư tưởng trung quân đó. Đọc
thơ ông ta bắt gặp một loạt các điển tích:
Mũi giáo Thi Toàn đâu để rét,
Lưỡi gươm Dự Nhượng phải toan chùi.
Đánh Kim Chi sá thằng Lưu Dự
Giúp Tống xin phò gã Nhạc Lôi.
(Thơ điếu Trương Định, bài 12)
Nói đến Phan Tòng, Nguyễn Đình Chiểu cũng dùng những điển tích như:
Nếm mật Cối Kê đâu chẳng hận,
Cắp dùi Bác Lãng há chẳng nguôi.
( Thơ điếu Phan Tòng, bài 8)
Người “anh hùng” lãnh tụ nghĩa binh Phan Tòng đang mang tang mẹ ba tháng
nhưng không chịu ngồi yên, sẵn sàng xông pha trận mạc được Nguyễn Đình Chiểu
liên tưởng tới “Nếm mật Cối Kê”, “Cắp dùi Bác Lãng”. Đó chính là sự tự giữ mình


11

khắc khổ, gắng hết sức mưu việc lớn. Đồng thời người “anh hùng” luôn sẵn sáng bày
mưu lập kế để tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ đất nước.
Tóm lại, thông qua việc sử dụng điển cố, Nguyễn Đình Chiểu đã gợi nhắc chúng ta
nhớ đên toàn chuyện cổ đại Trung Hoa với nhà Hạ, Thương, Văn, Vũ... Nhưng không

phải vì thế mà người đọc không thấy rõ được nguồn cảm xúc, nỗi đau sâu xa bắt nguồn
từ hiện thực lúc bấy giờ là rất rõ ràng và có thực của ông. Như vậy, ở đây nói chuyện
sách vở xa xưa nhưng lại lại chính là cách để Nguyễn Đình Chiểu bộc lộ tâm sự của
mình trước cảnh nước mất, nhà tan.
Viết về những người “anh hùng” lãnh tụ nghĩa binh, Nguyễn Đình Chiểu còn dùng
những từ láy để khẳng định vai trò, vị trí của họ:
“Mấy dặm non sông đều xững vững
Nạn dân ách nước để ai toan?.”
(Thơ điếu Trương Định Bài 7)
“Xững vững” ở đây có nghĩa là điêu đứng, lao đao, nghiêng ngả, ở tình trạng
không ổn định. Tướng quân mất đi là một tổn thất rất lớn cho nghĩa quân. Từ láy này
đã góp phần tô đậm thêm âm hưởng bi tráng cho bài thơ điếu. Qua đó, ta thấy từ láy có
vai trò vô cùng quan trọng trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật trung
tâm,hình tượng người “anh hùng” nghĩa binh, người anh hùng” vô danh. Họ là những
con người tiêu biểu cho lòng dũng cảm, gan dạ, sẵn sàng hi sinh tính mạng vì quê
hương, đất nước.
Ở ngôn ngữ, Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo kết hợp các thành phần ngôn ngữ
dân tộc, ngôn ngữ đời sống và thành phần ngôn ngữ Hán việt, các điển tích, điển cố.
Tùy theo từng tác phẩm thơ mà ông đã vận dụng một cách có hiệu quả. Đọc thơ điếu
của ông, ta vừa bắt gặp thứ ngôn ngữ nho nhã, sách vở vừa bắt gặp thứ ngôn ngữ bình
dân, nôm na, gần gũi, dễ hiểu như bản chất con người Nam Bộ vậy. Tóm lại, bằng tài
năng sáng tác cùng với cái tâm của người cầm bút, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên một
phong cách nghệ thuật riêng trong các sáng tác thơ điếu của mình.
3.3. Giọng điệu
Bằng giọng điệu hào hùng, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu lên những “anh hùng”
trong lịch sử, ngợi ca những anh hùng nghĩa sĩ giữ trọn tiết tháo, làm nên những công
tích phi thường, những người thà chịu chém chứ không hàng giặc, những người mình
đầy máu và thương tích. Ông đã dành những lời thơ hết sức thiết tha, đạt đến một nghệ
thuật lớn về trữ tình và tính anh hùng ca, để ca ngợi, nhắc nhở ghi công trạng của
những lãnh tụ nghĩa binh chống pháp.

Đó là Trương Định:
“Giúp đời dốc trọn ơn nam tử,
Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần.”
(Thơ điếu Trương Định)
Đó là Phan Tòng:
“Viên đạn nghịch thần treo trước mắt,
Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay.”
(Thơ điếu Phan Tòng – Bài 1)
Nguyễn Đình Chiểu trân trọng, cảm phục cái chết vẻ vang của những người “anh
hùng” là ánh sáng muôn đời của truyền thống đấu tranh của dân tộc mỗi khi có giặc
ngoại xâm, bởi họ xem cái chết là sự khẳng định phẩm cách không chịu đầu Tây, họ
nêu cao khí tiết. Với giọng thơ trang trọng, Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định hình


12

tượng văn học thành công nhất, có ý nghĩa văn học sử quan trọng bậc nhất chính là
hình tượng người lãnh đạo nghĩa binh, người “anh hùng” của dân tộc tiêu biểu cho sức
mạnh, cho lòng dũng cảm tuyệt vời và đức hy sinh cao cả, xứng đáng đại diện cho toàn
bộ những giá trị tinh thần của dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu dành trọn cả tấm lòng trân
trọng sâu sắc đối với những con người dám sống và hy sinh cho lý tưởng dân tộc. Lần
đầu tiên trong văn học Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng được một tượng đài bất
tử về người nông dân chống ngoại xâm “sống anh dũng, chết vẻ vang”. Những chứng
tích chiến tranh có thể sẽ bị xóa nhòa theo quy luật của thời gian, nhưng tiếng thơm
của những người nghĩa sĩ sẽ còn sống mãi trong lòng thương mến, cảm phục của nhân
dân qua các thế hệ:
“Thôi
vậy
thì
vậy

thôi
cũng
vậy,
Anh hùng đến thế dễ ai dằn.”
(Thơ điếu Trương Định)
Hay
“Làm
người
trung
nghĩa
đáng
bia
son,
Đứng
giữa càn
khôn tiếng
chẳng
mòn.”
(Thơ điếu Phan Tòng – Bài 9)
Sự kết hợp chất giọng bi hùng trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, đã làm cho
giọng thơ thêm hoành tráng mang âm hưởng anh hùng ca, phản ánh được một thời đại
lịch sử khổ nhục nhưng vĩ đại của dân tộc ta. Khi viết về những người “anh hùng”
nhân dân và những cuộc chiến đấu chống giặc của nhân dân, thì thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu mang đậm nét hùng tráng như là một hồi kèn xung trận. Ngòi bút đó sắc bén
không kém gì khi ông ca ngợi các vị thủ lĩnh của nghĩa binh, cũng như khi ông phê
phán kẻ thù.
TIỂU KẾT
Nhìn chung, hầu hết các bài thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu có sự đóng góp đáng
kể cho nền văn học trung đại Việt Nam về cả hai mặt nội dung và nghệ thuật. Về nội
dung, các bài thơ điếu ra đời hầu như đã phản ánh lên một cách chân thật nhất về hoàn

cảnh đất nước ta khi bị thực dân Pháp xâm lược, phác họa hình ảnh người nông dân,
các vị lãnh binh rất rõ nét và đầy cảm động với một tấm lòng yêu nước, thương dân vô
cùng thống thiết của tác giả. Riêng về hình thức nghệ thuật, tác giả đã thể hiện bố cục
của một bài thơ điếu như hình thức của văn học trung đại, bên cạnh đó tác giả cũng có
sự đổi mới trong cách viết và đã góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú ở thể loại
này.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ, mỗi tác phẩm ra đời là
một quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật miệt mài và nghiêm túc của nhà văn. Tác
phẩm nghệ thuật chân chính là một tác phẩm ẩn chứa những nội dung tư tưởng sâu sắc
về cuộc đời, về con người, giúp cho người đọc có thể hiểu hơn về cuộc đời, về bản
thân mình hôm nay và hiểu hơn cả về những gì đã thuộc về lịch sử. Những bài thơ
điếu của Nguyễn Đình Chiểu nói về những người “anh hùng” trong lịch sử Việt Nam.
Quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu về hình tượng người “anh hùng” hiện lên vô cùng
ấn tượng và đặc sắc. Cho đến cuối cùng, Trương Định, Phan Tòng đều phải chết nhưng
đã để lại trong lòng của nhân dân những hình ảnh phi thường, xuất chúng, những hành


13

động đầy nghĩa khí, những mưu lược hơn người. Có thể nói, quan niệm về người anh
hùng của tác giả tuy không mới nhưng lại rất đúng đắn, phù hợp với những điều kiện
lịch sử thời bấy giờ. Đây cũng là một hình tượng nghệ thuật trung tâm, tiêu biểu của
văn học Trung đại Việt Nam. Vì thế, quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu cũng đã có
đóng góp nhất định, mở đầu cho hình tượng người anh hùng trong những giai đoạn
tiếp theo.
Văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu đã gắn bó với giai đoạn nước sôi lửa bỏng của
dân tộc nơi tuyến đầu tổ quốc. Ông đã dùng thơ văn của mình để làm vũ khí chống lại
quân xâm lược, và đề cao ca ngợi những người “anh hùng” của dân tộc.Việc tìm hiểu
về quan niệm “anh hùng” trong thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu là một điều vô cùng

quan trọng và cần thiết để hiểu rõ hơn về đặc điểm thơ văn của ông nói riêng và của cả
nền văn học trung đại nói chung.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Thiện (1990), Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất
bản Giáo dục
2. Nguyễn Đình Chú (1998), Từ lý tưởng nhân nghĩa đến chủ nghĩa yêu nước, Nguyễn
Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
3. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Trung cận đại, Nhà xuất bản Văn hóa
thông tin
4. Bàng Bá Lân (1971), Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ bình dân lớn của miền Nam, Kỷ
yếu lễ kỉ niệm Nguyễn Đình Chiểu, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài
Gòn
5. Nhiều tác giả (2002), Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và dư luận, Nhà xuất bản Văn
học
6. Nhiều tác giả (2007), Văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu và lời bình,
Nhà xuất bản Văn học
7. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt nam, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia.
8. Nguyễn Quang Thắng (2012), Nguyễn Đình Chiểu và các bài văn tế, Nguyễn Đình
Chiểu, thơ và đời, Nhà xuất bản Văn học
9. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, Nhà xuất bản Giáo dục
10. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn
thể loại, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
11. vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Đình_Chiểu
12. nguyendinhchieu.vn



×