Tải bản đầy đủ (.docx) (178 trang)

ĐẶC điểm của TIỂU THUYẾT có TÍNH CHẤT tự TRUYỆN TRONG văn học VIỆT NAM THẾ kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.83 KB, 178 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN VĂN TỔNG

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT
TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
THẾ KỶ XX

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM


HUẾ - 2019


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN VĂN TỔNG

ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT
TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
THẾ KỶ XX

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 62.22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:
TS. TÔN THẤT DỤNG


TS. HÀ NGỌC HÒA

1


HUẾ, 2019

LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn TS. Tôn Thất Dụng và TS. Hà Ngọc Hòa - những
người Thầy đã tận tâm giúp đỡ, dẫn dắt tôi trong suốt quá trình th ực hi ện đ ề
tài.
Vô cùng biết ơn quý Th ầy Cô khoa Ng ữ văn tr ường Đ ại h ọc Khoa h ọc,
Đại học Huế và Vi ện Văn h ọc đã t ận tình gi ảng d ạy, giúp đ ỡ tôi trong h ọc
tập, nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Khoa học, Đại học Huế;
Phòng Đào tạo Sau đại học trường Đại học Khoa học Huế; Lãnh đạo Sở Giáo
dục và Đào tạo Phú Yên; Lãnh đạo Trường THPT Nguy ễn Trường T ộ đã đ ộng
viên, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian qua.
Xin cảm tạ cha mẹ, những người thân trong gia đình, đồng nghi ệp, b ạn
bè… đã chia sẻ cùng tôi suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đ ề tài.
Nguyễn Văn Tổng

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu c ủa riêng tôi. Các s ố li ệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung th ực, ch ưa t ừng đ ược công b ố
trong bất kỳ một công trình nào khác.
Nguyễn Văn Tổng


3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa.................................................................................................................................... i
Lời cảm ơn........................................................................................................................................ ii
Lời cam đoan ................................................................................................................................. iii
Mục lục

i

MỞ ĐẦU.............................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................3
2.1. Mục tiêu............................................................................................................................. 3
2.2. Nhiệm vụ.......................................................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................4
3.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................................4
3.2. Phạm vi nghiên cứu......................................................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................................5
4.1. Phương pháp tiểu sử.......................................................................................................5
4.2. Phương pháp thống kê, phân loại..........................................................................5
4.3. Phương pháp liên ngành............................................................................................5
4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu.............................................................................5
5. Đóng góp của luận án..........................................................................................................5
6. Cấu trúc luận án.................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU.............................................7
1.1. Những nghiên cứu về tự truyện trên thế giới được giới thiệu ở Vi ệt

Nam......................................................................................................................................... 7
1.2. Những nghiên cứu về tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt
Nam......................................................................................................................................... 8
1.3. Nhận xét và đánh giá về các tác phẩm cụ thể....................................................16
1.3.1. Giai đoạn trước 1945............................................................................................16

4


1.3.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975..............................................................................20
1.3.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX............................................................24
1.4. Đánh giá về tình hình nghiên cứu và hướng tri ển khai đề tài .....................28
1.4.1. Đánh giá về tình hình nghiên cứu....................................................................28
1.4.2. Hướng triển khai đề tài........................................................................................29
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ DIỆN MẠO TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT
TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX........................................31
2.1. Giới thuyết về thể loại.................................................................................................31
2.1.1. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện.................................................................31
2.1.2. Quan niệm về tự truyện......................................................................................35
2.1.3. Quan niệm về tiểu thuyết tự truyện..............................................................37
2.1.4. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong mối quan hệ với các thể loại
tương cận.................................................................................................................... 39
2.1.5. Cơ sở hình thành tiểu thuyết có tính chất tự truyện..............................43
2.2. Diện mạo của tiểu thuyết có tính chất tự truyện thế kỷ XX......................48
2.2.1. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945...........................................................48
2.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975..............................................................................52
2.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX............................................................55
CHƯƠNG 3. TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC
VIỆT NAM THẾ KỶ XX - NHÌN TỪ CẢM QUAN HIỆN TH ỰC VÀ CON NG ƯỜI
.............................................................................................................................................58

3.1. Hiện thực cuộc đời qua chiêm cảm của người trong cuộc...........................58
3.1.1. Hiện thực được tái hiện theo dòng hoài niệm...........................................59
3.1.2. Hiện thực qua cái nhìn hồi cố, chiêm nghiệm............................................64
3.1.3. Hiện thực qua góc nhìn phản tư.......................................................................69
3.2. Từ nguyên mẫu nhà văn đến nhân vật..................................................................75
3.2.1. Từ con người thực đến nhân vật tự trình bày............................................75
3.2.2. Từ con người thực đến nhân vật hồi cố, chiêm nghiệm........................79
3.2.3. Từ con người thực đến nhân vật phản tư....................................................87

5


CHƯƠNG 4. TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC
VIỆT NAM THẾ KỶ XX - NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN......................96
4.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật.........................................................96
4.1.1. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong và sự thay
đổi điểm nhìn...........................................................................................................96
4.1.2. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba với điểm nhìn bên trong..................103
4.2. Ngôn ngữ của tiểu thuyết có tính chất tự truyện..........................................111
4.2.1. Ngôn ngữ kể và sự hòa phối giữa kể - tả - bình luận...........................111
4.2.2. Ngôn ngữ gián tiếp tự do (lời nửa trực tiếp)...........................................116
4.3. Giọng điệu trần thuật................................................................................................119
4.3.1. Giọng trữ tình, hoài niệm..................................................................................120
4.3.2. Giọng triết lý, chiêm nghiệm...........................................................................126
4.3.3. Giọng tự trào, giễu nhại....................................................................................129
KẾT LUẬN.....................................................................................................................136
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ.......................................................140
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................141
PHỤ LỤC


6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thuật ngữ tiểu thuyết tự truyện (tiếng Pháp gọi là autofiction,
tiếng Anh/ Mỹ gọi là autobiographical novel), đến nay không còn quá xa l ạ
trong đời sống văn học. Thuật ngữ này được biết đến lần đầu tiên vào năm
1977, khi Serge Doubrovsky “đã sáng chế thuật ngữ ghép hai từ auto (chính
mình) và fiction (hư cấu) dính liền với nhau” [20, tr.34]. Trên th ế gi ới, ti ểu
thuyết tự truyện bắt đầu nở rộ từ thế kỷ XX, gắn liền với những tên tu ổi l ớn
như: Ch. Dickens (với David Copperfil), M. Gorki (Thời thơ ấu, Kiếm sống,
Những trường đại học của tôi), L. Tolstoy (Thời thơ ấu, Thời niên thiếu, Thời
thanh niên), Aragon (Gã dân quê), Claude Simon (Điền viên, Cây keo), M. Duas
(Người tình)... Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là nó đã trở nên quen thu ộc
với mọi đối tượng độc giả cũng như được mọi người trong giới nghiên cứu,
phê bình văn học thừa nhận. Vì, ngay trong cách định nghĩa về th ể loại, gi ới
nghiên cứu, phê bình cũng không đồng nhất: có tài liệu thì đ ịnh nghĩa ti ểu
thuyết tự truyện là tự truyện viết dưới dạng trần thuật qua bút pháp h ư cấu;
có tài liệu thì định nghĩa tiểu thuyết tự truyện là Truyện trong đó tác giả vừa
là người kể vừa là nhân vật, họ cùng chia s ẻ chung m ột danh hi ệu v ới nhau,
còn tên gọi thì chứng tỏ đó là tiểu thuyết …[20, tr. 34 - 35]. Ở Việt Nam, đến
nay, tiểu thuyết tự truyện vẫn chưa có được một danh xưng th ể loại cụ th ể.
Tuy nhiên, trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, rất nhi ều nhà văn đã s ử
dụng yếu tố tự truyện làm chất liệu trong ti ểu thuy ết. T ừ những th ử bút ban
đầu của các nhà văn ở chặng đường nửa đầu thế kỷ XX như Tản Đà, Nguyên
Hồng, Mạnh Phú Tư, Lan Khai... cho đến những cây bút sáng tác ở đô th ị mi ền
Nam: Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Duyên Anh, Võ H ồng, Túy Hồng… Đặc bi ệt,
từ sau thời kỳ đổi mới, con số những ti ểu thuyết có tính chất tự truy ện xuất
hiện khá đầy đặn trên văn đàn, tạo thành một dòng chảy mạnh mẽ. Rất nhi ều

những cây bút đã sử dụng yếu tố tự truyện như một th ủ pháp ngh ệ thu ật đ ể
7


cách tân, làm mới tiểu thuyết.
Như vậy, có thể nói, dù chưa th ực s ự tr ở thành “th ương hi ệu” c ụ th ể
của một nhà văn nào, và trong s ự nghi ệp sáng tác c ủa t ừng nhà văn, ti ểu
thuyết có tính chất tự truyện cũng xu ất hi ện khá khiêm t ốn, con s ố nh ững
tác phẩm được xếp vào hàng kết tinh ngh ệ thu ật cũng ch ưa th ể sánh b ằng
với sự lớn mạnh của tiểu thuyết. Song, ti ểu thuy ết có tính ch ất t ự truy ện
thực sự là một thực thể đang hiện hữu trong đ ời s ống văn h ọc Vi ệt Nam. S ự
hiện diện của nó với tư cách là một ti ểu loại ti ểu thuy ết là đi ều hoàn toàn
không thể phủ nhận.
Mặc dù đã hiện diện từ lâu trong đời sống văn học và nó v ắt mình qua
hai thế kỷ, nhưng vẫn còn đó tâm lý nghi ngại: li ệu ở Việt Nam đã có ti ểu lo ại
tiểu thuyết có tính chất tự truyện? Đây cũng là vấn đề tạo không ít áp l ực cho
người nghiên cứu, nhưng đồng thời cũng kích thích sự hứng kh ởi khi đ ến v ới
tiểu loại tiểu thuyết này. Bởi, chúng tôi đang kh ảo sát và nghiên c ứu m ột ti ểu
loại “rồi đây sẽ phát triển thế nào, biến hóa ra sao? Chỉ có th ời gian m ới tr ả l ời
được câu hỏi này” [20, tr. 40].
1.2. Những thập niên gần đây, tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời
ngày một nhiều. Cùng với đó là những nghiên cứu về tiểu thuyết có tính chất tự
truyện cũng nhiều hơn. Song, dù có thu hút được sự chú ý của gi ới nghiên cứu,
phê bình nhưng xung quanh nó vẫn còn ngổn ngang nhiều vấn đề: từ cách định
danh, tiêu chí nhận diện đến đặc điểm tiểu loại... vẫn còn là vấn đề chưa được
giới nghiên cứu đi đến sự thống nhất. Ra đời vào những thập niên đầu thế kỷ
XX, nhưng rõ ràng trong hệ thống thể loại tiểu thuyết Việt Nam, nó vẫn là “đứa
con sinh sau”, và nhịp lưu chuyển của nó vẫn còn trong quá trình vận động
không ngừng, huống hồ nó cũng chỉ mới được lưu tâm nhiều ở những năm gần
đây. Những bài báo, tham luận, những nghiên cứu trực tiếp về tiểu loại, cùng

với một số luận văn, luận án đi vào nghiên cứu một giai đoạn cụ thể nào đó vẫn
chưa thể khái quát được toàn diện về tiểu loại này. Đây cũng là trở ngại lớn cho
những người yêu thích tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Đọc một tác phẩm

8


mà trong công trình nghiên cứu này thì xếp vào hàng tự truyện, hoặc ti ểu
thuyết, còn ở công trình kia thì lại cho là “tự truyện bất thành”, hoặc một hồi ký,
giả tự truyện... khiến người đọc không khỏi phân vân.
Nhìn trên phương diện lý thuyết về tiểu loại cũng như thực tế sáng tác,
tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhi ều v ấn đ ề
đang bỏ ngỏ, đòi hỏi cần phải có một sự tiếp tục. Đây cũng chính là lý do đ ể
chúng tôi chọn “Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Vi ệt
Nam thế kỷ XX” làm đề tài nghiên cứu nhằm tìm ra sự vận động, quá trình
phát triển cũng như những thành tựu đạt được cả về nội dung lẫn hình th ức
nghệ thuật, góp phần làm rõ hơn diện mạo của ti ểu thuyết có tính ch ất tự
truyện, một tiểu loại khá giàu tiềm năng đang trong quá trình v ận động.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Với đề tài Đặc điểm tiểu thuy ết có tính ch ất t ự truy ện trong văn h ọc
Việt Nam thế kỷ XX, tác giả luận án đặt mục tiêu nh ận di ện, lý gi ải nh ững
đặc điểm của ti ểu thuy ết có tính ch ất t ự truy ện trong văn h ọc Vi ệt Nam
suốt chiều dài của th ế kỷ XX.
Mục tiêu cụ thể
- Thông qua khảo sát tư liệu, nhận diện quá trình vận đ ộng và phát
triển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện, bước đầu xác l ập cơ s ở lý thuy ết
về tiểu loại tiểu thuyết này.
- Phân tích, lý giải đặc đi ểm ti ểu thuyết có tính ch ất tự truy ện d ựa trên
những nét đặc trưng cơ bản: từ nguyên mẫu nhà văn - đề tài - nhân v ật, m ối

quan hệ giữa sự thật và hư cấu trong tác phẩm.
- Phân tích, lý giải những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện dựa trên những phương thức thể hiện: người kể chuyện, ngôn ngữ, giọng
điệu. Trên cơ sở đó, làm rõ hơn gương mặt tiểu loại cũng như những đóng góp
của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong việc làm mới nghệ thuật tiểu
thuyết.

9


2.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa các hướng nghiên cứu, tiếp cận ti ểu thuy ết có tính ch ất
tự truyện đã có, phân tích, lý giải nhằm làm rõ hơn nh ững ch ỗ còn b ỏ ng ỏ và
xác định hướng nghiên cứu cụ thể.
- Xác đ ịnh rõ ti ền đ ề c ơ s ở cho s ự phát tri ển c ủa ti ểu thuy ết có tính
ch ấ t tự truy ện.
- Khái quát một cách thật ngắn gọn về đối tượng nghiên c ứu trong m ối
tương quan tổng thể đời sống văn học Việt Nam và các lý thuyết vận dụng
trong quá trình nghiên cứu.
- Phân tích quá trình hình thành, phát tri ển của ti ểu thuy ết có tính ch ất
tự truyện dựa trên mối quan hệ giữa hiện thực cuộc đời tác gi ả và th ế gi ới
nghệ thuật trong tác phẩm qua các chặng đường khác nhau nhằm tìm ra quy
luật vận động và những đặc điểm cơ bản trong nội dung phản ánh và ngh ệ
thuật thể hiện của tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam thế kỷ XX.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát của luận án là những ti ểu thuyết có tính chất tự
truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX. Đặc biệt, luận án sẽ đi vào kh ảo sát
những tiểu thuyết có tính chất tự truyện hiện lên khá rõ nét. C ụ th ể là nh ững
tác phẩm tiêu biểu sau: Giấc mộng lớn (Tản Đà), Những ngày thơ ấu (Nguyên

Hồng), Dã tràng (Thiết Can), Bốc đồng (Đỗ Đức Thu), Chiếc cáng xanh (Lưu
Trọng Lư), Ngậm miệng, Hai người điên giữa kinh thành Hà Nội (Nguyễn
Bính), Mực mài nước mắt (Lan Khai), Sống nhờ (Mạnh Phú Tư), Sống mòn
(Nam Cao), Hoa bươm bướm và Người về đầu non (Võ Hồng), Trường cũ
(Duyên Anh), Bếp lửa (Thanh Tâm Tuyền), Tôi nhìn tôi trên vách (Túy Hồng),
Vòng tay học trò (Nguyễn Thị Hoàng), Thời xa vắng (Lê Lựu), Tuổi thơ dữ dội
(Phùng Quán), Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên), Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc
Tấn), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung khảo sát và nghiên cứu tiểu thuyết có tính ch ất tự

10


truyện Việt Nam trong thế kỷ XX, bao gồm những tác phẩm ra đ ời từ đầu cho
đến hết thế kỷ XX. Chọn mốc thời gian từ đầu cho đến hết thế kỷ XX, bởi
chúng tôi nhận thấy rằng đây là một giai đoạn mà ti ểu thuy ết có tính ch ất t ự
truyện đã góp phần rất lớn vào quá trình phát tri ển của ti ểu thuy ết Vi ệt Nam
theo hướng hiện đại.
Luận án tập trung nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong
văn học Việt Nam thế kỷ XX trên các phương diện cơ bản: Cách định danh ti ểu
loại; tiền đề cơ sở hình thành; sự vận động của tiểu thuyết có tính chất tự
truyện qua các chặng đường khác nhau; các phương thức thể hiện của tiểu loại
tiểu thuyết này.
Trên cơ sở đó, chúng tôi tổng hợp, đánh giá một cách khách quan những
vấn đề chung, liên quan đến lý thuyết về tiểu thuyết có tính chất tự truy ện
trong văn học Việt Nam. Đồng thời, trong quá trình thực hi ện đề tài, chúng tôi
chú trọng đến đặc điểm nổi bật nhất của tiểu loại ti ểu thuy ết này trong m ối
quan hệ với các thể loại văn học khác.
4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp tiểu sử
Chúng tôi vận dụng phương pháp tiểu sử nhằm tìm hi ểu tác phẩm
thông qua mối quan hệ giữa tác giả và văn bản ngh ệ thu ật do nhà văn sáng
tạo nên. Đây là một trong những phương pháp quan tr ọng giúp cho luận án có
thêm cơ sở để tìm hiểu dấu ấn tự truyện cũng như m ối quan h ệ gi ữa s ự th ật
và hư cấu trong tiểu thuyết.
4.2. Phương pháp thống kê, phân loại
Chúng tôi chọn lựa phương pháp này để tiếp cận đối tượng nghiên c ứu
nhằm thống kê, phân loại, hệ thống hóa và chọn lựa tài liệu.
4.3. Phương pháp liên ngành
Nhằm để có một góc nhìn sâu hơn về tính chất tự truyện trong ti ểu
thuyết Việt Nam thế kỷ XX, chúng tôi sẽ vận dụng một số lí thuy ết v ề văn hóa
học, thi pháp học và tự sự học.
4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu
11


Với phương pháp này, luận án hướng đến “giải mã” những đặc trưng
của tính chất tự truyện trong tiểu thuyết và khu biệt giữa tự truyện trong tiểu
thuyết với các loại hình tiểu thuyết khác. Qua đó, luận án ch ỉ ra nh ững nét đ ặc
sắc của đặc điểm tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX.
5. Đóng góp của luận án
- Từ việc hệ thống hóa lý luận về tiểu thuyết có tính chất tự truyện,
luận án đưa ra những kiến giải có tính thực tiễn nghiên cứu để khái quát m ột
số khái niệm mang tính đặc trưng của tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
- Định rõ những đặc trưng về mặt lý luận của ti ểu thuyết có tính ch ất
tự truyện, lấy đó làm nền tảng cơ sở để soi rọi vào tác ph ẩm nh ằm th ấy đ ược
những nét đặc trưng của tiểu thuyết có tính chất tự truyện.
- Là một công trình nghiên cứu chuyên biệt, hệ thống về ti ểu lo ại ti ểu
thuyết có tính chất tự truyện nhằm hướng đến tái hi ện toàn bộ gương m ặt

của tiểu loại này trong cả hành trình một thế kỷ (thế kỷ XX).
- Khẳng định rõ vai trò, vị trí của tiểu thuyết có tính chất tự truy ện
trong quá trình vận động và phát triển của ti ểu thuyết hiện đại Việt Nam.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, n ội dung
chính của Luận án sẽ được triển khai thành các chương cụ th ể sau:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Chương 2: Cơ sở lý luận và diện mạo tiểu thuyết có tính chất tự
truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX
- Chương 3: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn h ọc Vi ệt Nam
thế kỷ XX - Nhìn từ cảm quan hiện thực và con người
- Chương 4: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam
thế kỷ XX - Nhìn từ phương thức thể hiện

12


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu về tự truyện trên thế giới đ ược gi ới thi ệu ở Vi ệt
Nam
Tự truyện trong nguyên ngữ Hy Lạp là autos (chính mình), bios (cu ộc
đời), và graphein (viết), nghĩa là “viết về chính cuộc đời mình”. Cách kết h ợp
ba thành tố này tạo thành autobiography trong ti ếng Anh và sau đó đ ược s ử
dụng trong tiếng Pháp autobiographie, nhưng cách vi ết này trở thành m ột
thuật ngữ thông dụng ở Châu Âu từ giữa thế kỷ XIX.
Những tác phẩm tự truyện đầu tiên trên thế giới bắt đầu xuất hi ện từ
thời cận đại ở Tây Âu. Tuy nhiên, danh từ tự truyện chính thức được s ử dụng
phải đợi đến cuối thế kỷ XVIII, khi mà thể loại này bắt đầu nở rộ ở Châu Âu
và Bắc Mỹ. Những tài liệu nghiên cứu đầu tiên về thể loại tự truyện xuất hiện

vào khoảng đầu thế kỷ XX với những chuyên khảo của Anna Robson Burr
(1909), Wayne Shumaker (1926), A.M.Clark (1935). Dần về sau này, mặc dù tự
truyện chưa tạo được sự lưu tâm của giới phê bình nhưng nó vẫn tồn tại v ới
tư cách một thể loại độc lập và nhiều nhà nghiên cứu cũng đã phác th ảo đ ược
những nét cơ bản, xem nó như một thể loại riêng biệt. Trong s ố đó, phải k ể
đến Những điều kiện và giới hạn của Tự truyện (1956) của Georges Gurdorf,
Tự thú và Tự truyện (1955) của Stephen Spendes. Ở hai công trình này, nhà
phê bình đã chú ý đến sự tồn tại độc lập của tự truy ện v ới vai trò là m ột th ể
tài đứng bên cạnh những thể loại văn học khác. Nhưng phải đợi đến năm
1960, khi chuyên luận Phác thảo và Sự thật trong T ự truy ện (Design and
Truth in Auubiography) của Roy Pascal ra đ ời thì t ự truy ện m ới b ắt đ ầu đ ược
nghiên cứu như “một hoạt động sáng tạo”. Trong chuyên lu ận này, Pascal đã
đặt ra vấn đề: khởi đi ểm một tự truyện, tác gi ả tự truy ện li ệu có đi theo
đúng sự thật mà mình đã tr ải qua? Có hay không cái g ọi là phác th ảo trong
trải nghiệm của con người nếu đây không ph ải là m ột s ự áp đ ặt vô lí cho s ự
13


thật [164]. Đến thập niên 70, nhà phê bình văn h ọc ng ười Mỹ James Olney
trong một công trình nghiên cứu v ề tự truy ện của mình đã vi ết: “Chính s ự
chuyển hướng sang cái “tôi” khi đã có được nh ận th ức v ề s ự t ồn t ại c ủa nó sẽ
định hình và quyết định bản chất của tự truy ện và trong quá trình ấy sẽ v ừa
khám phá vừa sáng tạo lại mình - đã kh ởi đ ầu cho ch ủ đ ề t ự truy ện trong
những cuộc tranh luận” [163]. Từ những nghiên c ứu v ề cái tôi trong t ự
truyện ấy, những năm về sau, đặc bi ệt là kho ảng ba th ập niên cu ối c ủa th ế
kỷ XX, thể loại tự truyện được gi ới phê bình chú ý nhi ều và th ể lo ại này g ần
như trở thành một trong những th ể lo ại trung tâm, đ ược soi chi ếu d ưới
nhiều góc độ khác nhau.
Trong ba thập niên cuối của thế kỷ XX, cùng với sự nở rộ của thể loại
tự truyện, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học không còn xem tự truy ện

thuộc hàng “ngoại biên” nữa mà soi ngắm nó qua nhiều chi ều kích khác nhau
trong vai trò của một thể loại văn học. Chính nhờ thế mà cả một hệ th ống lí
luận thể loại cũng được định hình một cách rõ nét. Và một trong số đó phải kể
đến Hiệp ước Tự thuật (Le Pacte Autobiographique) (1975) của Philippe
Lejeune. Hiệp ước này ra đời mang theo một định nghĩa về thể loại, kèm theo
đó là những ranh giới và bảng biểu, sơ đồ cụ thể để phân bi ệt tự truy ện v ới
những thể loại khác. Tuy nhiên, cũng trong những năm cu ối c ủa th ập niên 70,
cùng với “sự tuyên xưng cái chết của tiểu thuyết”, và khi Michael Sprinker
tuyên bố “sự chấm dứt của tự truyện” thì các nhà hậu cấu trúc luận kh ẳng
định “văn bản của tự truyện có đời sống riêng của nó, thoát ly kh ỏi tính quy
chiếu và khi đó cái tôi chỉ còn là vấn đề của văn b ản” [64, tr. 23]. Nh ưng trong
khoảng hai thập niên cuối thế kỷ XX, khi th ể tự truy ện ngày m ột thêm phong
phú, vấn đề nghiên cứu về tự truyện lại được xuất hiện trở lại khá đầy đặn
mà xem chừng như những lí thuyết về tự truyện từ trước đó và cả Hiệp ước
tự thuật của Philippe Lejeune gần như không thể theo kịp đà phát tri ển đa
dạng của thể tự truyện. Nhiều nhà nghiên cứu tập trung đi vào khám phá th ế
giới tự truyện từ lĩnh vực tâm lí sáng tạo và dân tộc h ọc, từ văn hóa và tâm lí

14


học nghệ thuật…
1.2. Những nghiên c ứu về t ự truy ện và ti ểu thuy ết có tính ch ất t ự
truyện ở Việt Nam
Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu, khi trang ti ểu thuyết mang bóng
dáng tự truyện xuất hiện với gương mặt đầy lạ lẫm, thì gi ới học thu ật của
Việt Nam đã bắt đầu chú ý đến bước đi của nó. Trong số các công trình nghiên
cứu, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan có lẽ là công trình đầu tiên nghiên
cứu về tự truyện dưới góc nhìn thể loại. Từ hướng tiếp cận này, Vũ Ngọc Phan
đã có những phát hiện khá ấn tượng: “Tự truyện là một loại văn tuy không

mới ở nước người, nhưng rất mới ở nước ta. Gần đây có mấy nhà văn đem
những việc của mình ra viết, nhưng họ chưa có can đảm đề là tự truyện, họ
“tiểu thuyết hóa” ít nhiều cuộc đời của họ và đề là ti ểu thuyết” [103, tr. 95].
Dần về sau, đặc biệt là chặng đường sau năm 1986, khi mà quan ni ệm và tư
duy nghệ thuật thay đổi, tạo điều kiện cho sự xuất hi ện của khuynh hướng tự
truyện ngày một nhiều đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên c ứu, phê
bình văn học. Có lẽ vì thế nên những công trình nghiên cứu về khuynh h ướng
này cũng ngày một nở rộ.
Theo Phong Lê, “Để nhớ về một quá khứ chưa xa, về một vùng hi ện
thực khuất nẻo, khó có ai biết, nhưng đã được viết với tư cách người trong
cuộc, nên khó có ai viết thay, là Chuyện kể năm 2000, 2 tập (2000) của Bùi
Ngọc Tấn, trong nối dài về trước với Tuổi thơ im lặng (1987) của Duy Khán,
Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) của Tô Hoài… Cũng có thể xếp
vào đây Thượng đế thì cười (2003) của Nguyễn Khải - một tiểu thuyết gần
như tự truyện. Với Tô Hoài, Nguyễn Khải - những tên tuổi quan tr ọng c ủa văn
học hiện đại, thì điều quan trọng không chỉ là chuyện được k ể, mà còn là
giọng kể, cách kể” [66, tr. 52]. Cùng chung quan đi ểm v ới Phong Lê, Nguy ễn
Văn Long trong Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau 1975 cho rằng, xuất phát
từ tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật của văn h ọc những năm
cuối 80, đầu những năm 90 trong văn học Việt Nam đã phát tri ển mạnh mẽ

15


khuynh hướng nhận thức lại hiện thực. Đây chính là lúc văn học tr ở v ề v ới đ ời
sống thường nhật và vĩnh hằng, vì thế, “Trong văn xuôi những năm 90 và vài
năm lại đây… Hồi kí - tự truyện lên ngôi…” [73].
Nghiên cứu về truyện và tự truyện của Phan Bội Châu, khi luận bàn v ề
sự phát triển của thể tự truyện, Hoàng Đức Khoa nhận thấy trong b ối c ảnh
văn hóa trung đại vốn nặng quan phương, khép kín nên khả năng con ng ười

tự ý thức về mình và hướng tới khám phá, th ể hiện từng s ố ph ận th ực s ự
không dễ. Chính những thay đổi trong đời sống xã hội Việt Nam th ời kỳ th ực
dân nửa phong kiến, cùng với quá trình tư sản hóa những năm nửa đ ầu th ế k ỷ
XX đã tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học. Đây chính là bối cảnh ra đ ời
tự truyện của Phan Bội Châu. Theo tác giả, tự truy ện là truy ện do các nhà văn
viết về cuộc đời mình nhằm những mục đích khác nhau… Cũng chính trong
thể loại này, tất cả những biến cố, sự việc, nhân vật … đều được lấy từ cu ộc
đời thực của tác giả, không có sự hư cấu thêm, hoặc nói cách khác là không có
sự hư cấu tự do [61, tr. 119 - tr. 128].
Sự lưu tâm một cách nồng nhiệt cho thể tự truyện ngày một đậm đặc
hơn trong những năm về sau, đặc biệt là khi th ể tự truyện ngày một l ấn sâu
vào đời sống văn học từ sau 1986. Tiếp cận ti ểu thuyết Việt Nam th ời kỳ đ ổi
mới, nhà nghiên cứu Bích Thu đã trình bày ý ki ến của mình v ề ti ểu thuy ết có
khuynh hướng tự truyện. Với Bích Thu thì người đọc hôm nay muốn “được
tiếp xúc với những tiểu thuyết tâm lý mà ở đó, nhân vật tự bộc l ộ tư tưởng,
chính kiến qua dòng chảy của nhận thức, mọi hành vi, ứng xử và l ời tho ại ẩn
sâu trong tâm trạng nhân vật và các tầng nghĩa. Hoặc các ti ểu thuy ết mang
tính tự truyện, vừa thể hiện cái “tôi” lại vừa hư cấu, vừa mang tính ti ểu s ử l ại
vừa được nghệ thuật hóa, tiểu thuyết hóa, một đặc trưng của ti ểu thuy ết
hiện đại, có khả năng khai thác tiềm thức qua kỹ thuật dòng ý th ức” [134, tr.
6]. Ở bài viết này, Bích Thu thực sự chú ý đến nét đặc tr ưng mang tính khu
biệt của tiểu thuyết mang tính tự truyện, đó là người đọc dễ dàng nhận th ấy
ở tiểu thuyết mang tính tự truyện vừa thể hiện cái “tôi” lại v ừa h ư c ấu. Có th ể

16


nói, chính cuộc sống thực tại của con người Việt Nam sau 1986 đã mang l ại
cho nhà nghệ sĩ những quan niệm nghệ thuật về hiện thực với những khám
phá mới. Và ở đây, Bích Thu rất có lí khi cho rằng một trong nh ững nguyên

nhân làm cho tiểu thuyết có tính tự truyện ngày một xu ất hi ện nhi ều trong
văn học những năm trở lại đây là bởi xã hội hiện đại đề cao vai trò c ủa cá
nhân và thúc đẩy sự thức tỉnh của ý thức cá nhân. Cái tôi tr ỗi dậy đòi h ỏi đ ược
quan tâm đúng mức. Tiểu thuyết trở về với con người, thay đổi quan ni ệm
nghệ thuật về con người, bảo tồn giá trị của con người trước sự lãng quên của
xã hội.
Khi nghiên cứu về văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến 1995, Nguyễn Th ị
Bình cũng nhận ra “những tác phẩm mang dáng dấp tự truy ện nh ư Miền thơ
ấu (Vũ Thư Hiên), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn
Trực), Cát bụi chân ai (Tô Hoài)… Với những tác phẩm này, cái tôi của người
viết hiện diện rất sắc nét qua cảm hứng nhận thức, đánh giá lại những gì đã
trải nghiệm bằng điểm nhìn hiện tại”. Từ những phát hiện ấy, Nguy ễn Th ị
Bình đã lần tìm được dấu vết để làm nên phần cốt lõi của các tác ph ẩm mang
bóng dáng tự truyện đó chính là “cái tôi” của người vi ết luôn gắn li ền v ới c ảm
hứng nhận thức, đánh giá lại những gì mà chính người viết đã từng tr ải
nghiệm trong thực tiễn cuộc sống của mình [10]. Trong một công trình nghiên
cứu khác, khi khảo sát một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ th ời
điểm đổi mới cho đến nay, căn cứ vào cách thức xử lí ch ất li ệu hi ện th ực trong
tác phẩm, Nguyễn Thị Bình cũng nhận ra được bên cạnh những ti ểu thuy ết
theo phong cách lịch sử hóa, tiểu thuyết tư liệu - báo chí, ti ểu thuy ết hi ện th ực
kiểu truyền thống, tiểu thuyết theo phong cách hiện thực còn có khuynh
hướng tiểu thuyết theo phong cách tự thuật. Đây có thể được xem là m ột
trong những khuynh hướng tiểu thuyết chính trong dòng văn học đương đại
Việt Nam.
Có thể nói, chính thời kì đổi m ới của đ ất n ước t ừ sau năm 1986 đã làm
cho văn học Việt Nam thực sự có được s ức s ống m ới. G ần nh ư c ảm h ứng

17



ngợi ca của những trang văn mang đ ậm khuynh h ướng s ử thi không còn là
mảnh đất lí tưởng để các nhà văn hướng đ ến. Vì v ậy, khi nhìn vào hi ện th ực
của văn học chặng đường sau năm 1986, nhà nghiên c ứu Lã Nguyên xem đây
là cả một bước “chuyển mình” thật sự của văn h ọc đ ể ti ến t ới “phá cái
khoanh vùng hết sức hình thức của đề tài văn h ọc tr ước kia”. Và văn h ọc hôm
nay đang hướng tới những gì đang hi ện hữu gi ữa cu ộc s ống đ ời th ường. “Nhà
văn hôm nay đang nêu tấm gương v ề s ự dám nghĩ, dám nói, dám th ẳng th ắn
bày tỏ lập trường công dân của mình. Ta hi ểu vì sao văn h ọc trong nh ững
năm gần đây dám bất chấp cả những đi ều c ấm k ỵ xưa nay và ph ạm vi nh ững
vấn đề xã hội mà nó quan tâm lại r ộng l ớn đ ến nh ư th ế” [87]. N ếu nh ư
trước năm 1975, vận mệnh sống còn của Tổ qu ốc luôn là l ựa ch ọn đ ầu tiên
của người cầm bút, thì chặng đường sau 1975, s ự th ức t ỉnh c ủa ý th ức cá
nhân đã chiếm thế thượng phong trên bàn cân bút l ực ng ười vi ết: “Vi ệc nh ận
thức đúng đắn vị trí của nhân dân trong đ ời s ống xã h ội, bu ộc nhà văn tìm
đến chỗ đứng phát ngôn bình đẳng v ới công chúng b ạn đ ọc c ủa mình. Đó là
cơ sở nảy sinh hình thức văn h ọc của ý th ức đ ối tho ại th ấm nhu ần tinh th ần
dân chủ” [87]. Nhà văn, nhân v ật tr ần thu ật của văn h ọc hôm nay không m ấy
khi xuất hiện trong tác phẩm ở ngôi th ứ ba nh ư con ng ười tuy vô hình nh ưng
đầy quyền uy, biết hết, thấy tất, mà th ường gi ấu mình sau hình th ức t ự thú,
hình thức người kể chuyện ở ngôi thứ nhất - đó là m ột bi ểu hi ện c ủa ý th ức
đối thoại. Nhìn thẳng vào thực tại, tỉnh táo nh ận ra mình, nói h ết s ự th ật v ới
người đọc, dù sự thật đó có xót xa, đau lòng đ ến bao nhiêu cũng không b ưng
bít, giấu giếm - đó cũng là một bi ểu hi ện của ý th ức đ ối tho ại… Con ng ười
với tư cách là cá nhân th ường bị b ỏ r ơi trong th ế gi ới c ủa s ử thi là vì th ế. Sau
1975, nền văn học của chúng ta đã nhanh chóng chuy ển t ừ th ế gi ới vĩ mô
sang thế giới vi mô, từ thế gi ới của c ộng đ ồng, dân t ộc và l ịch s ử đ ến nh ững
câu chuyện về thế sự và đời tư con ng ười. Cho nên, cá nhân con ng ười “đang
từng bước, từng bước tiến vào vị trí trung tâm của văn h ọc hôm nay. Cá nhân
con người vừa là đối tượng nhận thức trung tâm, v ừa là đi ểm xu ất phát đ ể


18


văn học hôm nay nhìn ra thế gi ới. Nó soi ng ắm th ế gi ới và đ ịnh giá l ịch s ử
qua lăng kính và mực thước của cá nhân con người” [87].
Quan sát văn học và nền kinh tế thị trường trong mười năm cuối thế kỷ
XX, Nguyễn Phượng nhận thấy các giá trị từng một th ời là ni ềm tin mãnh li ệt
của con người Việt Nam giờ đây đứng trước thời kì đổi mới, nó đang th ực s ự
bị lung lay dữ dội - Điều này thể hiện rất rõ ở sự thay đổi về nhận th ức v ề các
giá trị… “cái thiêng liêng cao cả, cái lí tưởng mặc dù nó vẫn còn s ức h ấp d ẫn
nhưng nó không phải là đối tượng duy nhất mà người cầm bút hôm nay
hướng tới”. Từ hướng tiếp cận khái quát văn học Việt Nam khoảng 10 năm
cuối thế kỷ XX, trong xu hướng “giải ảo”, “giải thiêng” - n ảy sinh từ cái nhìn
“tỉnh táo”, “duy thực” đầy can đảm của các nhà văn trong hoàn c ảnh đất n ước
trở lại nhịp sống đời thường, con người trở về với cuộc sống thường nhật
hằng ngày, Nguyễn Phượng đã thấy được “thể loại hồi ký, tự truy ện và ti ểu
thuyết tự truyện lại gần như chiếm thế thượng phong trong giai đoạn này.
Công chúng dành một sự quan tâm khá đặc biệt với một số ti ểu thuy ết tự
truyện và hồi ký xuất hiện trong giai đoạn này như Cát bụi chân ai (1992 ) và
Chiều chiều (1999 ) của Tô Hoài, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn…”
[110].
Đánh giá về tiểu thuyết trong văn học thời kì đổi mới, Mai Hải Oanh đã
không ngần ngại khi đưa ra nhận định: “Ra đời trong không khí dân ch ủ, ti ểu
thuyết tự thuật thời kì đổi mới khá đa dạng. Có loại đậm ch ất gi ễu nh ại nh ư
Thượng đế thì cười, Ba người khác; có loại nói về những chua chát đời người
(Chuyện kể năm 2000), có loại nói đến những cảm nhận cá nhân về điều đã
trải nghiệm trong đó có những đoạn gần với nhật kí ( Chuyện của thiên tài)’’
[100, tr. 112]. Cách định dạng, gọi tên tiểu thuyết tự thuật th ời kì đ ổi m ới c ủa
Mai Hải Oanh cần phải bàn luận thêm, nhưng trong nhận định này ng ười vi ết
đã có một cái nhìn khá chuẩn xác khi cho rằng chính th ời kì đ ổi m ới đã mang

đến cho thể tiểu thuyết những diện mạo mới, đầy sức hấp dẫn.
Trong cuộc Hội thảo Đổi mới tư duy tiểu thuyết (2002), Ma Văn Kháng

19


đã từng nói: “Cùng với tiểu thuyết tư liệu, ti ểu thuyết tự thuật sẽ là một th ể
loại được phát triển”. Đây phải chăng là sự tiên liệu th ể hi ện góc nhìn đ ầy l ạc
quan của một “người trong cuộc”? Người mà gần như hành trình vi ết của ông
ở chặng đường từ sau thời kì đổi mới, từ Mùa lá rụng trong vườn , đến Ngược
dòng nước lũ hay Một mình một ngựa… người đọc đều có thể nhận thấy đâu
đó chất liệu đời tư của ông gần như ngồn ngộn trên trang ti ểu thuy ết [57, tr.
67].
Nghiên cứu về sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn h ọc th ời
kì đổi mới, Lý Hoài Thu cũng có quan điểm tương đồng v ới nhà văn Ma Văn
Kháng khi cho rằng: “Nhìn vào sự vận động và phát tri ển của h ệ th ống th ể
loại trong văn học thời kì đổi mới… sự thâm nhập của th ể ký vào “lãnh đ ịa”
của tiểu thuyết đã tạo nên một dòng ti ểu thuyết tự truyện có s ức hút l ớn
trong đời sống văn học đương đại. Chính từ những vùng này, các thể loại cũ đã
có thêm nhiều tố chất mới” [136].
Trong Thế kỷ tiểu thuyết, khi bàn về hiện tượng tự truyện, Nguyễn Vy
Khanh đã viết: “Ngay từ đầu thế kỷ XX đã có tự truy ện v ới cu ốn đ ầu tiên là
Chồn cáo tự sự của Michel Tính xuất bản năm 1910 tại Sài Gòn. Sau đó là
Nguyên Hồng với Những ngày thơ ấu (1938) và Thiết Can với Dã Tràng (1939)
…”. Trong bài viết này, Nguyễn Vy Khanh viết: “Thế kỷ XX, ít tác giả đ ưa cái Tôi
thật vào văn chương, có chăng cũng phải văn chương hóa, ti ểu thuy ết hóa…
Vào giai đoạn cuối thế kỷ mới thật sự bành trướng thể loại tự truyện nhưng
vẫn tương đối ít tác phẩm lớn vì đa phần chỉ là những hồi ký nhẹ tính văn
chương” [56].
Sự đầy đặn của tiểu thuyết có tính tự truy ện ngày thêm b ồi đ ắp trong

văn học Việt Nam đương đại đã tạo thành m ột khuynh h ướng. Nh ờ th ế nên
tiểu thuyết Việt Nam mang nhiều hương s ắc m ới. Trong bài vi ết Khuynh
hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam đ ương đ ại , Đỗ Hải Ninh cho
rằng nền văn học Việt Nam bắt đầu từ sau th ời kì đ ổi m ới đã th ực s ự có
những bước tiến đáng kể, đặc bi ệt là s ự thay đổi trong quan ni ệm v ề hi ện

20


thực và con người, quan ni ệm về nhà văn trong m ối quan h ệ v ới tác ph ẩm,
với công chúng và với chính mình. Đây chính là ti ền đ ề c ơ s ở đ ể khuynh
hướng tự truyện trong tiểu thuyết Vi ệt Nam đ ương đ ại tr ở nên khá ph ổ bi ến
so với văn học giai đoạn 1945 - 1975. Theo Đ ỗ H ải Ninh, “Khuynh h ướng t ự
truyện trong tiểu thuyết giúp người đ ọc không ch ỉ gi ải mã con ng ười tác gi ả
và thời đại qua những chi tiết gắn v ới ti ểu s ử, cu ộc đ ời th ật mà qua nh ững
trải nghiệm sống và sự tự thú chân thành” [97]. V ới Đ ỗ H ải Ninh thì m ỗi nhà
văn khi cầm bút đều xuất phát từ nhu cầu gi ải phóng t ư t ưởng và b ộc l ộ cái
tôi cá nhân. Vì vậy, có thể tìm th ấy ở m ỗi trang vi ết nh ững tr ải nghi ệm, suy
ngẫm và cái tôi rất riêng. Và mục đích c ủa tự truy ện là tìm hi ểu m ột con
người có thật với lịch sử hình thành nhân cách, còn ti ểu thuy ết, m ặc dù cũng
sử dụng nhân vật, cốt truyện đó nhưng đ ược h ư c ấu hóa, ho ặc đ ược c ấp cho
một lớp vỏ hư cấu. Căn cứ từ thực tiễn ấy, Đỗ Hải Ninh khẳng đ ịnh: “Văn h ọc
Việt Nam từ sau đổi mới đã có những thay đ ổi đáng k ể trong quan ni ệm v ề
hiện thực và con người, quan niệm về nhà văn trong m ối quan h ệ v ới tác
phẩm, với công chúng và v ới chính mình. Đó chính là c ơ s ở đ ể khuynh h ướng
tự truyện trong ti ểu thuyết Việt Nam đương đ ại tr ở nên khá ph ổ bi ến” [97].
Trong một bài viết khác, khi đi sâu vào khai thác m ối quan h ệ gi ữa t ự truy ện
- tiểu thuyết và một s ố dạng tự thu ật trong văn h ọc Vi ệt Nam đ ương đ ại, dù
biết rằng quy luật giao thoa thể loại và những n ỗ l ực cách tân ngh ệ thu ật
khiến cho việc phân biệt tự truy ện và ti ểu thuy ết t ự thu ật ngày càng tr ở nên

khó khăn hơn, nhưng Đỗ Hải Ninh cũng đã c ố g ắng lu ận gi ải v ấn đ ề này m ột
cách rành mạch: “Trong tự truy ện, cu ộc đ ời tác gi ả và b ức chân dung tinh
thần của ông ta trở thành đối tượng chính, tham gia tr ực ti ếp vào tác ph ẩm
như một bộ phận hữu cơ. Còn ở ti ểu thuy ết tự truy ện, nh ững chi ti ết ti ểu s ử
được nhào nặn lại, câu chuyện cuộc đời được cấu trúc và s ắp x ếp l ại, t ức là
tác giả tách khỏi những y ếu tố đời tư đ ể th ể hi ện v ới m ột đ ộ gián cách nh ất
định” [99]. Vì nếu như tự truy ện là d ạng văn b ản có tính quy chi ếu, thì
những tiểu thuyết tự thuật là những h ư cấu ngh ệ thu ật d ựa trên n ền ti ểu s ử

21


tác giả, chính đời tư của tác giả là ngu ồn ch ất li ệu c ơ b ản đ ể giúp tác gi ả
viết thành những trang ti ểu thuy ết.
Khi tiến hành khảo sát văn xuôi Việt Nam trong chặng đường từ sau
1990 để lý giải về hiện tượng tự thuật trong sáng tác văn xuôi c ủa các tác gi ả
nữ, Hồ Khánh Vân đã chỉ ra nguyên nhân khiến cho khuynh h ướng vi ết tự
truyện ngày một xuất hiện nhiều trong văn học Vi ệt Nam, đặc bi ệt là trong
sáng tác của những cây bút nữ là vì “tự thu ật vừa là đi ểm nhìn, là v ị trí mà t ừ
đây, các cây bút khái quát hóa và tái hiện đời s ống hi ện th ực, là c ảm h ứng sáng
tác hình thành nên thế giới của tác phẩm từ khuynh hướng tư tưởng, nội dung
phản ánh cho đến bút pháp nghệ thuật, là hệ sinh thể hình tượng hi ện h ữu
trên bề mặt tác phẩm” [160]. Theo Hồ Khánh Vân, các tác phẩm viết theo l ối
tự truyện có “mật độ tự thuật dày đặc, gần như là một “bản dập” của cu ộc
đời nhà văn. Ở đó, không khí của tác phẩm, cốt truyện, nhân vật, tình ti ết, đều
sát với cuộc đời thực của tác giả và người đọc có th ể nhận ra, ki ểm chứng
được. Ở đó, bóng dáng nhà văn và nhân vật trung tâm nh ư hai vòng tròn đ ồng
tâm và có cùng bán kính” [160].
Cùng chung hướng tiếp cận của Hồ Khánh Vân, nhưng Trần Huyền Sâm
lại tiếp cận những tác phẩm tiểu thuyết nữ Việt Nam đương đại dưới góc

nhìn nữ quyền. Ở góc tiếp cận này, Trần Huyền Sâm đã có những ki ến gi ải
khá thỏa đáng khi cho rằng: “Tự thuật không phải là đặc tính riêng của n ữ
giới, nhưng đây là nét ưu trội nhất làm nên bản mặt của văn phong nữ gi ới. Tự
thuật vừa là phương tiện vừa là đối tượng phân tích trong sáng tác n ữ gi ới”
[116]. Trần Huyền Sâm cũng khẳng định: “Đó là phương thức để nữ giới th ể
hiện sự nếm trải giới tính, đồng thời là mục đích để gi ải phóng nh ững kìm
hãm của bản thân” [116].
Tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở nước ta đã có c ả m ột
chuỗi thời gian dài hình thành và phát triển. Tuy nhiên, cho đ ến nay, so v ới các
thể loại khác dường như nó vẫn chưa được nhiều sự ưu ái của các nhà nghiên
cứu, phê bình văn học. Theo khảo sát của chúng tôi, đã có m ột s ố tác gi ả chú ý

22


khảo sát các tác phẩm tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truy ện nh ưng
nhìn chung chỉ dừng lại ở việc kết hợp trong nhận định, đánh giá. Hoặc nếu có
thì cũng chỉ dừng lại ở mức khảo sát một chặng đường ngắn ( Tiểu thuyết có
khuynh hướng tự truyện trong văn học Việt Nam đ ương đại của Đỗ Hải Ninh),
chưa có một công trình thật sự chuyên sâu nào đi vào nghiên cứu về tự truy ện
và tính chất tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX.
1.3. Nhận xét và đánh giá về các tác phẩm cụ thể
1.3.1. Giai đoạn trước 1945
Khảo sát chặng đường một thế kỷ, từ lúc những dấu vết ban đầu của
tiểu thuyết có tính tự truyện xuất hiện cho đến khi ti ểu loại này hợp vào dòng
chủ lưu của tiểu thuyết Việt Nam, chúng tôi nhận thấy sự tồn tại của ti ểu
thuyết có tính chất tự truyện là nhờ “sự đọc” của công chúng đ ộc gi ả qua m ọi
thời đại, trong đó có sự góp mặt của những siêu độc giả, những người gần
như là nhịp cầu nối để đưa tiểu loại này đến gần hơn với công chúng.
Sau đây, chúng tôi điểm lược những bài viết, những công trình nghiên

cứu về tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam giai đoạn
trước 1945.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, khi Nguyên Hồng viết cuốn Những ngày
thơ ấu, Thạch Lam, một trong những cây bút chủ lực của nhóm bút Tự l ực văn
đoàn đã không ngần ngại hạ bút đánh giá về Những ngày thơ ấu như sau: “nó
là sự rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài trong nh ững l ề l ối
khắc nghiệt của một gia đình sắp tàn” [62]. Và khi chọn đưa Nguyên H ồng vào
Nhà văn hiện đại, trong phần nhận xét về Nguyên Hồng, Vũ Ngọc Phan cũng
đã quả quyết rằng Nguyên Hồng chính là “người Việt Nam thứ nh ất dám k ể
về gia đình mình” bằng những dòng tự bạch chân thành: “Thầy tôi làm ngh ề
cai ngục, mẹ tôi con nhà buôn bán…”. Ông vi ết: “Trong Những ngày thơ ấu,
Nguyên Hồng đã cho ta biết rõ hẳn một quãng đời quá khứ của ông. L ối tự
truyện này, ở Anh, ở Mỹ, ở Nga, rất thịnh hành; nhưng ở Việt Nam ta, vi ết
được, tôi cho là can đảm lắm” [104, tr. 126]. Đánh giá về tác ph ẩm này, chủ

23


×