Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

bài tập nhóm số 2 hình sự 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.05 KB, 7 trang )

Bài 3
Nguyễn Thị N kể với bạn trai là Trần Văn H về mâu thuẫn với bạn cùng
thuê phòng trọ là Lý Thị D. Nhân lúc N về quê, biết D ở phòng trọ một mình, H
nảy sinh ý định giết D để giải quyết mâu thuẫn hộ N. Khoảng 21 giờ, H đến
phòng trọ của N và D, ở lại chơi khuya với lý do chờ tạnh mưa, mục đích là chờ
mọi ngưòi xung quanh ngủ hết mới hành động. Đến khoảng 1 giờ sáng, H bất
ngờ bóp cổ, đập đầu D vào tường đến khi D bất tỉnh. Đến khoảng 2 giờ, H bế D
đặt lên phía trước xe, trùm áo mưa lên người D để tránh bị người khác phát hiện.
H dắt xe đi đến cầu BT thì đẩy D xuống sông.
Khoảng 3 giờ sáng, bà S là chủ nhà thấy cửa phòng trọ không khoá, lại
không có người nên bảo mọi người và gọi điện thoại cho N. Đến 16 giờ cùng
ngày, N rủ H ra công an phường báo tin về việc D mất tích. Phát hiện dấu vết khả
nghi, công an phường đã bắt giữ H. H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Giám định pháp y cho thấy: D chết do ngạt nước, có tụ máu nhẹ dưới da đầu ở
giữa trán và đỉnh chẩm phải. H bị truy cứu TNHS về tội giết người theo Khoản 2
Điều 93.
1. Từ các dữ liệu đã cho, hãy xác định hình thức lỗi của H?
2. N có bị coi là đồng phạm với H không?
3. Giả sử sau khi bị đẩy xuống sông, D được cứu kịp thời nên không chết.
Trong trường hợp này, H có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người
không? Giải thích tại sao?
4. Nếu H chưa thành niên thì H có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết
người không? Nếu có, H sẽ phải chịu mức hình phạt cao nhất là như thế
nào?

1


1. Hình thức lỗi của H trong trường hợp trên là cố ý trực tiếp.
Lỗi là biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu


hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.
Nội dung cơ bản của lỗi được hợp thành bởi hai yếu tố là lý trí và ý trí. Sự
kết hợp khác nhau giữa lý trí và ý trí tạo nên các hình thức lỗi khác nhau:
- Lỗi cố ý trực tiếp
- Lỗi vô ý vì quá tự tin
- Lỗi cố ý gián tiếp
- Lỗi vô ý do cẩu thả
Trong trường hợp này, đối với hành vi phạm tội của H thuộc vào lỗi cố ý
trực tiếp.
Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi phạm tội
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu
quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra
Trong tình huống trên, H đã có hành động bóp cổ, đập đầu D vào tường
đến khi D bất tỉnh. Sau đó H bế D lên trước xe, trùm áo mưa để tránh bị phát
hiện rồi dắt xe đi đến cầu BT thì đẩy D xuống sông. Hành vi phạm tội của H là
hành vi giết người mà cụ thể là giết D, H đã phạm vào tội giết người qui định tại
Khoản 2 Điều 93.
Về lý trí: H nhận thức rõ tính chất nguy hiểm về hành vi của mình cũng
như hậu quả sẽ xảy ra đối với D, được thể hiện ở chỗ: biết D ở phòng trọ một
mình thì H nảy sinh ý định giết D, lấy cớ trời mưa để ở lại khuya, chờ cho mọi
người đi ngủ hết mới hành động, bất ngờ bóp cổ, đập đầu D vào tường đến khi D
bất tỉnh sau đó “trùm áo mưa lên người D để tránh bị người khác phát hiện, “đẩy
D xuống sông”. H biết rõ mức độ nguy hiểm của hành vi của mình chắc chắn sẽ

2


làm D thiệt mạng và là hành vi bị pháp luật hình sự ngăn cấm, xong vẫn cố tsình
làm.
Về ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh. Nghĩa là hậu quả

của hành vi phạm tội mà người phạm tội thấy trước phù hợp với mục đích,
mong muốn của họ. H biết rằng việc bóp cổ, đập đầu D vào tường đến khi bất
tỉnh và đẩy D xuống sông sẽ khiến D thiệt mạng nhưng H vẫn làm và đó là kết
quả mà H mong muốn đạt được như ý định ban đầu “ giết D để giải quyết mâu
thuẫn hộ N”. Việc D chết là phù hợp với mục đích của H nên dù nhận thức được
tính nguy hiểm của hành vi nhưng H vẫn thực hiện.
2. N không bị coi là đồng phạm với H.
Điều 20 BLHS quy định “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý
cùng thực hiện một tội phạm”.
Xét các dấu hiệu của đồng phạm ta thấy như sau:
*Về mặt khách quan: Đồng phạm đòi hỏi phải có từ hai người trở lên, những
người này có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm và cùng thực hiện tội phạm
(cố ý). Trường hợp trên, N và H không cùng thực hiện thực hiện tội phạm. Vì N
không hề tham gia vào tội phạm với bất kỳ một hành vi nào trong các hành vi
của đồng phạm sau: thực hiện tội phạm, tổ chức thực hiện tội phạm, xúi giục
người khác thực hiện tội phạm, giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Việc N
kể với H về mâu thuẫn với D không thể xem là hành vi xúi giục thực hiện tội
phạm, vì N không hề có lời nói hay hành động nào thúc đẩy H thực hiện hành vi
được mô tả trong CTTP.
*Về mặt chủ quan: đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội phạm
đều có lỗi cố ý. Mỗi người đồng phạm phải cố ý với hành vi của mình đồng thời
biết và mong muốn sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác. Ở đây N
3


hoàn toàn không cùng H thực hiện hành vi giết D, cũng như không biết và không
mong muốn hành hành vi giết người của H xảy ra.
Vậy căn cứ vào điều 20 BLHS và xem xét sự thoả mãn các dấu hiệu của đồng
phạm như đã trình bày ở trên thì ta có kết luận: N không được coi là đồng
phạm với H trong trường hợp đề bài nêu ra.


3. Giả sử sau khi bị đẩy xuống sông, D được cứu kịp thời nên không chết.
Trong trường hợp này, H vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết
người.
Trong trường hợp trên, H phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người.
Như đã nói ở trên, hình thức lỗi ở đây là cố ý trực tiếp.
Vậy khi xét tới giai đoạn phạm tội, sau khi đẩy nạn nhân xuống sông, quá
trình thực hiện tội phạm của H đã tới giai đoạn phạm tội chưa đạt.
Điều 18 BLHS quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện một tội phạm
nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của
người phạm tội.”
H đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP, cụ thể là hành vi
tước đoạt sinh mạng D. Tuy nhiên tội phạm không được thực hiện đến cùng do
hậu quả chết người chưa xảy ra.
Căn cứ vào thái độ tâm lí của H đối với hành vi của mình có thể xác định đây
là trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
“Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt nhưng
người phạm tội đã thực hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu
quả nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn, hậu quả vẫn không xảy ra.”(Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam Tập 1 – Đại học Luật Hà Nội, 2007).

4


Trong trường hợp trên, H đã cố ý thực hiện hết các hành vi nhằm gây ra hậu
quả làm chết người: bóp cổ, đập đầu nạn nhân vào tường đến khi bất tỉnh, đẩy D
xuống sông. Tuy nhiên do có người cứu giúp kịp thời nên D không chết. Đây là
nguyên nhân khách quan, xảy ra ngoài ý muốn của H.
Theo luật hình sự Việt Nam, vấn đề TNHS được đặt ra ngay từ giai đoạn
chuẩn bị phạm tội. Vì thế đối với tội giết người ở giai đoạn phạm tội chưa đạt thì

H vẫn phải chịu TNHS.
Hơn nữa, tội giết người có cấu thành tội phạm hình thức, vì CTTP của tội này
có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành vi
giết người), hậu quả làm chết người không phải là dấu hiệu bắt buộc của loại tội
này. Trong trường hợp trên, H đã thực hiện hết các hành vi mà mình cho là cần
để tước đoạt sinh mạng D và những hành vi này thoả mãn các dấu hiệu của
CTTP trong tội giết người. Như vậy, xét về mặt pháp lí, H phải chịu TNHS vì đã
thực hiện hành vi thoả mãn dấu hiệu trong CTTP của tội giết người được quy
định tại Điều 93 BLHS.
4.

Nếu H chưa thành niên thì tuỳ vào từng trường hợp mà H phải chịu

TNHS hoặc không. Cụ thể như sau:
Căn cứ vào các tình tiết của vụ án có thể xác định H phạm tội giết người
theo quy định tại khoản 2 điều 93 BLHS. Mức cao nhất của khung hình phạt là
15 năm tù. Do vậy đây là tội phạm rất nghiêm trọng.
Nếu H là người chưa thành niên thì có thể chia thành 3 trường hợp:
 Trường hợp 1: H đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
 Trường hợp 2: H đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
 Trường hợp 3: H chưa đủ 14 tuổi.
5


 Trường hợp 1: H đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 BLHS: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm”. Như vậy, trong trường hợp này H
phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện.
Theo quy định về phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội
tại khoản 1 điều 74 BLHS thì: “Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi

phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử
hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu
là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư
mức phạt tù mà điều luật quy định.”
Tội giết người quy định tại khoản 2 điều 93 có hình phạt tù có thời hạn và mức
cao nhất là mười lăm năm tù. Như vậy, mức hình phạt cao nhất được áp dụng
trong trường hợp trên là phạt tù mười một năm ba tháng.
 Trường hợp 2: H đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Nếu H có độ tuổi dưới 16 tuổi thì theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS:
“Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Trong trường hợp này, tội phạm mà H thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng do
cố ý. Vì vậy H phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện.
Theo quy định tại khoản 2 điều 74: “Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân
hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm
tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá
một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.”
6


Khoản 2 điều 93 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tù mười
lăm năm. Vậy mức hình phạt cao nhất được áp dụng trong trường hợp này là
phạt tù bảy năm sáu tháng.
Trường hợp 3: H chưa đủ 14 tuổi.
Trong trường hợp này H không phải chịu TNHS. Luật hình sự Việt Nam quy
định tuổi 14 là tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự. Vì chưa có năng lực
TNHS nên người chưa đạt độ tuổi này sẽ luôn luôn được coi là không có lỗi.
Người không có lỗi sẽ không phải chịu TNHS.


7



×