Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Lý luận về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.42 KB, 25 trang )

1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự
1.1. Khái niệm quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1 Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự
“ Khởi kiện là hành vi đầu tiên của các cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia
vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự [3, tr 230]. Thống nhất với quan điểm trên, theo TS.
Hoàng Ngọc Thỉnh thì “Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan
trọng của các chủ thể…Việcthực hiện quyền này của các chủ thể được gọi là
khởi kiện vụ án dân sự” và “Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan,
tố chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình hay của người khác” [4, tr238]. Khởi kiện trước hếtlà quyền dân sự của
các chủ thể, là phương thức mà các chủ thể yêu cầu toà án bảo vệ quyền dân
sự cho mình, cho nhà nước hoặc người khác. Quyền dân sự này được pháp
luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện nó được thể hiện bằng việc toà án xem
xét, thụ lý và giải quyết.
Khi Nhà nước ra đời thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể được ghi nhận bằng pháp luật của Nhà nước và bảo đảm thực hiện thông
qua các thiết chế do Nhà nước thiết lập. Theo đó, quyền khởi kiện của cơ
quan tổ chức, cá nhân đã được pháp luật ghi nhận và chủ thể cho rằng quyền,


lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm có quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền do Nhà nước quy định bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của mình.
Trong cổ luật La Mã, đã có những quy định đầu tiên về quyền khởi kiện của
công dân La Mã. Theo đó khi có hành vi xâm phạm quyền tƣ pháp của cá
nhân thì người có quyền lợi bị xâm phạm bên cạnh việc sử dụng hình thức tự
trấn áp, họ còn có quyền khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền lợi của
mình. người bị vi phạm có thực hiện quyền khởi kiện hay không, điều này
pháp luật không bắt buộc mà phụ thuộc vào ý chí của người đó [4, tr 212].
Cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, quyền khởi kiện được ghi nhận là


một quyền con người trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và
các công ƣớc quốc tế khác. Quyền khởi kiện là một trong những nhóm
quyền tố tụng thuộc quyền con người và suy cho cùng thì quyền khởi kiện là
quyền của một chủ thể trong mối quan hệ xã hội được pháp luật ghi nhận
nhằm đảm bảo tốt nhất cho những quyền, lợi ích hợp pháp của mình được
thực hiện.
Theo các nhà nghiên cứu về tố tụng của Pháp thì “tố quyền” là khả năng
được thừa nhận đối với cá nhân được yêu cầu sự can thiệp của công lý để đạt
được sự tôn trọng các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Theo từ điển
thuật ngữ luật học của Pháp thì tố quyền trước công lý là khả năng được thừa
nhận đối với các chủ thể được cầu viện tới công lý để đạt được sự tôn trọng
các quyền lợi và lợi ích chính đáng. Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự mới
của Pháp thì thuật ngữ “action” – “tố quyền” được dịch là quyền tham gia tố
tụng theo đó “quyền tham gia tố tụng đối với người có yêu cầu là quyền
được trình bày về nội dung yêu cầu của mình để Thẩm phán quyết định xem
xét yêu cầu như vậy là có căn cứ hay không có căn cứ; đối với bên bị kiện
quyền tham gia tố tụng là quyền được tranh luận về căn cứ của yêu cầu do
bên kia đưa ra”[4, tr23]. Ở Việt Nam, về phương diện lý luận thì nhà nghiên
cứu Trần Thúc Linh cho rằng
“tố quyền tức là có quyền đi kiện”[6, tr23]. TS. Hoàng Ngọc Thỉnh đã khẳng
định trong Giáo trình Luật tố tụng dân của trường Đại học Luật Hà Nội 1994
rằng “Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của công dân, pháp
nhân và các tổ chức xã hội yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ các quyền lợi
hợp pháp của mình, của tập thể của Nhà nước hay của người khác đang bị
tranh chấp hoặc vi phạm”[7, tr109-110]. Khái niệm này dường như không đề
cập tới các việc không có tranh chấp nhưng nghiên cứu về khái niệm vụ án


dân sự trong Giáo trình này” [7,tr6-7], Điều 1 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự 1989 và thực tiễn tố tụng tại toà án thì có thể khẳng định

trong khái niệm trên quyền khởi kiện được thực hiện đối với cả các việc dân
sự không có tranh chấp.
Trong lịch sử pháp lý nước ta, có thời kỳ khái niệm quyền khởi kiện được
hiểu theo nghĩa rất rộng và đồng nhất với quyền yêu Tòa án giải quyết vụ
việc dân sự theo BLTTDS hiện nay. Theo đó, quyền khởi kiện được hiểu là
khả năng Nhà nước cho phép công dân được yêu cầu Tòa án có thẩm quyền
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi cho rằng quyền lợi hợp pháp đó bị
xâm phạm hoặc yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý, các quyền
dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động. Tuy nhiên,
trên cơ sở kế thừa BLTTDS 2004, BLTTDS năm 2015 đã tách thủ tục giải
quyết vụ án dân sự trước đây thành hai thủ tục tố tụng riêng biệt là thủ tục
giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự nên khái niệm
quyền khởi kiện được hiểu theo nghĩa hẹp hơn trước đây, quyền khởi kiện vụ
án dân sự không còn bao hàm cả quyền yêu cầu xem xét về việc công nhận
hay không công nhận một sự kiện pháp lý hoặc các quyền về dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao động nhƣ trước đây nữa mà
quyền khởi kiện vụ án dân sự được hiểu là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp trong vụ án dân sự.
Theo TS. Phan Chí Hiếu thì: “quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng
của cá nhân, pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền, lợi ích
hợp pháp của mình, của Nhà nƣớc, tập thể hay của người khác đang bị tranh
chấp hoặc bị vi phạm” [7, tr305].
như vậy, quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong phạm vi quyền hạn của mình yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nƣớc
thuộc lĩnh vực cơ quan, tổ chức của mình phụ trách khi quyền, lợi ích hợp
pháp đó bị xâm phạm hoặc có tranh chấp. Các phân tích ở trên cho thấy rằng
xét về bản chất thì quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi
khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi phạm.

Theo những kết quả nghiên cứu trên thì bản chất của quyền khởi kiện vụ án
dân sự là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh


chấp hay vi phạm. Ở đây cần phân biệt khái niệm vụ án dân sự và việc dân
sự.
trước khi BLTTDS 2004 được ban hành đã tồn tại ba khái niệm vụ án dân sự,
vụ án kinh tế và vụ án lao động. Khái niệm vụ án dân sự không bao gồm các
tranh chấp phát sinh từ quan hệ lao động, kinh doanh, thƣơng mại, Vụ án
dân sự chỉ bao gồm những tranh chấp và những việc không có tranh chấp về
dân sự và hôn nhân gia đình nhƣ: tranh chấp về quyền sở hữu, hợp đồng, bồi
thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc những việc tranh chấp khác; việc xác
định công dân mất tích hoặc đã chết… mà được tòa án thụ lý giải quyết.
BLTTDS năm 2004 và BLTTDS năm 2015 đều không đƣa ra khái niệm về
vụ án dân sự mà chỉ liệt kê những loại việc nào được xác định là vụ án dân
sự, loại việc nào được xác định là yêu cầu dân sự, cụ thể tại điều 1 BLTTDS
năm 2015 quy định “Bộluật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ
bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (sau
đây gọi là Tòa án) giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự)
và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung
là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây
gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án;”.
như vậy, có thể hiểu, Vụ án dân sự là các tranh chấp giữa các cá nhân, cơ
quan, tổ chức về quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự,
hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được Toà án thụ lý giải
quyết theo quy định của pháp luật TTDS. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
nội dung khởi kiện vụ án dân sự mà không nghiên cứu về yêu cầu giải quyết
vụ việc dân sự.

Chủ thể của quyền khởi kiện là ai? Hay ai là người có thể thực hiện quyền
khởi kiện? Có 2 quan điểm khác nhau về chủ thể của quyền khởi kiện.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Toà án bảo
vệ quyền lợi của nguyên đơn. Điều 68 khoản 2 BLTTDS năm 2015 quy định:
“ Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị
xâm phạm.


Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu
Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình
phụ trách cũng là nguyên đơn.”
Quyền khởi kiện của nguyên đơn là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi
của chủ thể có quyền lợi hợp pháp bị tranh chấp hay bị vi phạm và việc thực
hiện quyền này sẽ làm phát sinh vụ án dân sự tại Toà án. Xét về thực chất thì
đây là quyền của chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm trong việc bắt đầu việc
kiện để bảo vệ quyền lợi của mình, thông qua việc đệ đơn yêu cầu Tòa án
xem xét giải quyết vụ án dân sự. Đó là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc
lợi ích công cộng thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Chính việc khởi kiện của
của nguyên đơn là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân
sự, không có hành vi khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự thì
không có quá trình tố tụng tiếp theo. như vậy, việc xác định quyền khởi kiện
của nguyên đơn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tƣ cách của các
đương sự khi họ tham gia tố tụng tại Tòa án.
Quan điểm thứ hai cho rằng quyền khởi kiện là ngoài quyền yêu cầu Toà án
bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn còn quyền phản tố (kiện ngƣợc lại) của bị
đơn và quyền yêu cầu độc lập Toà án bảo vệ quyền lợi của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan do họ đã không thực hiện quyền yêu cầu của mình

trước khi nguyên đơn khởi kiện vụ án.
Nguyên đơn có quyền khởi kiện và bị đơn có quyền phản bác việc khởi kiện
của nguyên đơn. Bên cạnh đó, quyền phản tố của bị đơn cũng cần được pháp
luật ghi nhận. Điều này xuất phát từ sự bình đẳng giữa các đương sự trong
việc bảo vệ quyền lợi của mình. Trong những vụ án có nhiều quan hệ pháp
luật tranh chấp có mối liên quan đến nhau thì bị đơn có quyền đƣa ra yêu
cầu phản tố đối với nguyên đơn và người có yêu cầu độc lập và yêu cầu này
có thể được Toà án xem xét giải quyết trong cùng vụ án với yêu cầu của
nguyên đơn và người có yêu cầu độc lập khi thoả mãn những điều kiện nhất
định. Thực chất của phản tố là một việc kiện ngƣợc lại của bị đơn đối với
nguyên đơn và người có yêu cầu độc lập nhƣng được xét cùng với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn vì việc giải quyết yêu cầu của hai bên có liên quan
chặt chẽ với nhau. như vậy, xét theo nghĩa rộng về quyền khởi kiện và bảo
đảm quyền khởi kiện thì có thể xem quyền phản tố cũng là quyền khởi kiện


nhƣng là quyền khởi kiện ngƣợc lại của bị đơn đối với nguyên đơn và người
có yêu cầu độc lập do các yêu cầu này có mối liên hệ nhất định.
Cũng theo góc nhìn về sự bình đẳng giữa các đương sự trong việc bảo vệ
quyền lợi của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập cũng có quyền đƣa ra yêu cầu độc lập của mình trong vụ án đã được
thiết lập giữa nguyên đơn và bị đơn. Yêu cầu tố tụng này có thể chống
nguyên đơn, bị đơn hoặc chống cả nguyên đơn và bị đơn. Bản chất của yêu
cầu độc lập này là một yêu cầu tố tụng của người thứ ba nhằm bảo vệ quyền
lợi của mình đang bị tranh chấp hay vi phạm trong một vụ án đã phát sinh
giữa nguyên đơn và bị đơn. Khi nghiên cứu về vấn đề này TS. Nguyễn Công
Bình cho rằng: “Trong vụ án dân sự, lợi ích pháp lý của người có quyền và
nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý
của nguyên đơn và bị đơn. Thông thƣờng người có quyền và nghĩa vụ liên
quan tham gia tố tụng độc lập có đủ điều kiện pháp lý khởi kiện vụ án dân sự

nhƣng do vụ án dân sự đã xuất hiện giữa nguyên đơn và bị đơn nên họ phải
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nếu không
việc bảo vệ quyền và lợi ích của họ sau đó sẽ gặp khó khăn” [2, tr108].
Xét về bản chất thì quyền phản tố của bị đơn có thể hiểu là quyền khởi kiện
ngƣợc lại của bị đơn, quyền yêu cầu của người có quyền nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập là quyền khởi kiện chống lại cả nguyên đơn và bị đơn
hoặc chỉ chống lại nguyên đơn hoặc bị đơn trong vụ án dân sự.
Nhất trí với quan điểm thứ hai về chủ thể quyền khởi kiện, luận văn nghiên
cứu chủ thể quyền khởi kiện bao hàm quyền khởi kiện của nguyên đơn,
quyền phản tố hay quyền khởi kiện ngƣợc lại của bị đơn, quyền có yêu cầu
độc lập hay quyền khởi kiện chống lại nguyên đơn, bị đơn hay chống cả
nguyên đơn, bị đơn của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu
độc lập để bảo vệ quyền lợi của mình khi mà vụ án giữa nguyên đơn và bị
đơn đã được thiết lập.
như vậy theo pháp luật Việt Nam, khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân,
cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự nộp đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hay bảo vệ lợi
ích công cộng, lợi ích nhà nước.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm về quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự


Wikipedia tiếng Việt “ Quyền tự do „hoặc “ tự do „ là một khái niệm
dùng trong triết học chính trị mô tả tình trạng khi một cá nhân không bị sự ép
buộc, có cơ hội để lựa chọn, hành động theo đúng ý chí và nguyện vọng của
chính mình [10].. Có thể hiểu, tự do gồm có hai thành tố quan trọng nhất là
tự do nhận thức và tự do hành động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, Ở
phƣơng Tây, người ta cho rằng, tự do là một quyền tự nhiên, là không gian
vốn có của mỗi con người, và do đó, Nhà nƣớc dân chủ là kết quả của sự
nhƣợng bớt một phần tự do cá nhân cho chính phủ để nhà nƣớc có vốn liếng

điều hành xã hội. Từ đó, có thể khẳng định, sự tự nguyện nhƣợng bớt một
phần tự do cá nhân cho chính phủ nhƣ một hình thức góp vốn chính là bản
chất khế ƣớc xã hội. Điều hành đất nƣớc bằng pháp luật, hay các khế ƣớc xã
hội chính là điểm ƣu việt của phƣơng thức quản lý theo mô hình dân chủ.
Russeau viết “Với khế ƣớc xã hội, con người mất đi cái tự do thiên nhiên và
hạn chế cái quyền được làm những điều muốn làm mà làm được; nhƣng mặt
khác, con người thu lại quyền tự do dân sự và quyền sở hữu những cái mà
anh ta có” [1, tr46]. Hết thảy con người khi sinh ra đều bình đẳng, và được tự
nhiên ban cho những quyền không thể phủ nhận, trong đó có quyền sống,
quyền tự do và quyền mƣu cầu hạnh phúc. Để đảm bảo những quyền này,
các nhà nƣớc được hình thành trên cơ sở sự đồng thuận của các thành viên
trong một xã hội. Nếu hiểu theo nghĩa này thì tự do là một khái niệm rất
nhân văn, nó gắn liền với cái Tự nhiên (nói chung) và con người (nói
riêng). [1, tr46] Điều này được thể hiện trong Tuyên ngôn toàn thế giới về
quyền con người năm 1948 (đoạn 1 lời nói đầu) đã ghi rõ rằng:… thừa nhận
phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành
viên trong gia đình nhân loại. Ở góc độ quốc gia, bản Tuyên ngôn Độc lập
của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 ghi rằng:“ mọi người sinh ra đều có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có hể xâm phạm
được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền
mƣu cầu hạnh phúc „ những quyền này còn được thể hiện trong Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789 và Tuyên ngôn độc lập năm 1945
của Việt Nam. Có thể hiểu quyền tự do của con người là quyền tự nhiên, vốn
có nhƣng trong khuôn khổ pháp luật của mỗi nhà nước.
Quyền tự do khởi kiện có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Quyền tự do khởi kiện được thể hiện ở quyền tự quyết định có
khởi kiện hay không khởi kiện khi quyền và lợi ích bị xâm phạm hoặc tranh


chấp. Giáo sƣ Serge Guinchard – một tố tụng gia đầu ngành của Pháp cho

rằng, cần phân biệt các bên đương sự trong vụ kiện với chủ thể của tố quyền,
những chủ thể có tố quyền chỉ trở thành đương sự trong tố tụng, kể từ ngày
họ thực hiện quyền đi kiện của mình bằng một đơn kiện; ngƣợc lại, người ta
có thể là một bên đương sự trong vụ kiện mà không là chủ thể của tố quyền,
đó là trƣờng hợp nguyên đơn kiện nhƣng sau đó bị phủ nhận quyền khởi
kiện bằng một bản án, do không có lợi ích trong việc kiện, hoặc trƣờng hợp
người bị đòi ra toà với tƣ cách là bị đơn trong vụ kiện, nhƣng vụ kiện này
kết thúc bởi một phán quyết bác bỏ tƣ cách bị đơn của họ[8, tr506].
Để thực hiện được quyền tự do khởi kiện của mình, chủ thể quyền khởi kiện
phải đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định. Điều kiện đầu tiên phải
được kể đến đó là điều kiện về chủ thể. Chủ thể muốn thực hiện việc khởi
kiện thì phải có năng lực pháp luật tố tụng dân sự (NLPLTTDS) và năng lực
hành vi tố tụng dân sự (NLHVTTDS). NLPLTTDS là khả năng pháp luật
quy định cho cá nhân, cơ qua, tổ chức có những quyền và nghĩa vụ trọng
TTDS. NLPLTTDS được coi là điều kiện đầu tiên đồng thời là điều kiện cần
để một chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng dân sự, từ đó một chủ thể chỉ
có quyền tham gia tố tụng dân sự khi được pháp luật thừa nhận có
NLPLTTDS. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là một phạm trù có liên quan
đến yếu tố chủ quan nhƣ khả năng nhận thức, khả năng hành động, ý chí và
lý trí, là khả năng của đương sự trong việc tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ
tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng.
Đối với cá nhân thì năng lực hành vi tố tụng của họ được xác định trên cơ sở
khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của cá nhân trong việc
tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Việc quy định điều kiện về
năng lực hành vi của cá nhân để họ có thể tự mình thực hiện việc khởi kiện
là nhằm bảo đảm cho người có quyền lợi có thể thể hiện ý chí đích thực của
mình trong việc bảo vệ quyền lợi trước Toà án. Tuy nhiên, đối với những
đương sự có đủ năng lực hành vi để thực hiện quyền khởi kiện nếu vì những
lý do khác nhau mà họ không thể thực hiện được quyền khởi kiện thì pháp
luật cũng có thể bảo đảm điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện quyền này

thông qua cơ chế uỷ quyền cho người khác đại diện thay mặt mình khởi kiện
trước Toà án. Việc cho phép đương sự thực hiện quyền khởi kiện thông qua
đại diện theo ủy quyền là phƣơng tiện pháp lý cần thiết tạo điều kiện cho
đương sự bằng nhiều hình thức khác nhau có thể thực hiện quyền khởi kiện
một cách thuận lợi nhất để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.


Thứ hai, quyền tự do khởi kiện là quyền năng của chủ thể mà không ai có
quyềnquyết định hay hạn chế một cách tùy tiện kể cả nhà nƣớc. Trong giao
lƣu dân sự, khi quyền và lợi ích bị coi là xâm phạm hoặc có tranh chấp các
chủ thể có quyền khởi kiện mà không bị bất kỳ một cá nhân, tổ chức hay cơ
quan nhà nƣớc nào được phép cản trở hoặc hạn chế một cách tùy tiện.
Thứ ba, quyền tự do khởi kiện thể hiện ý chí tự nguyện của chủ thể, ý chí
này được thể hiện trong nhận thức và hành động, không bị ai ép buộc .
Thứ tư, chủ thể có quyền tự do khởi kiện nhƣng quyền khởi kiện đó
không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Quyền
tự do của chủ thể được đặt trong mối quan hệ với quyền và lợi ích của các
chủ thể khác trong xã hội để đảm bảo một điều rằng, chủ thể có thể tự do
thực hiện quyền khởi kiện nhƣng không phải lúc nào chủ thể cũng có thể
kiện và kiện bất kỳ điều gì. Suy cho cùng, quyền tự do khởi kiện bị giới hạn
bởi các quy định của pháp luật, những quy định này được xây dựng trên cơ
sở xem xét đến lợi ích chung của cộng đồng xã hội.
Quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự có thể được hiểu là chủ thể được
tự quyết định thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người
khác hay bảo vệ lợi ích công cộng , lợi ích Nhà nước theo trình tự thủ tục tố
tụng dân sự.
1.2 Cơ sở khoa học của việc xây dựng quy định pháp luật về quyền tự do
khởi kiện
Quyền và lợi ích của các chủ thể là động lực để các chủ thể tham gia vào các

quan hệ xã hội. Trong giao lưu dân sự, quyền và lợi ích của các bên được
xem nhƣ là tiền đề dẫn đến tranh chấp dân sự“ Tranh chấp pháp lý sẽ không
thể xuất hiện, nếu không có yêu cầu khởi kiện của các bên „ như vậy quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể là cơ sở để các chủ thể thực hiện quyền
khởi kiện. Các quyền và lợi ích này có thể là các quyền về tài sản hoặc
quyền nhân thân. Tự do khởi kiện vụ án dân sự chính là công cụ pháp lý hữu
hiệu để bảo vệ các quyền dân sự của chủ thể. Cơ sở để pháp luật quy định
khởi kiện vụ án xuất phát từ nguyên tắc quyền dân sự của cá nhân được tôn
trọng và bảo vệ. Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 có ghi
“Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có thẩm
quyền với phƣơng tiện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm


các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận”. như vậy,
quyền khởi kiện được ghi nhận trong pháp Luật quốc tế và là cơ sở vững
chắc cho việc ghi nhận quyền này trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, nếu nhƣ Hiến pháp 1992 của nƣớc CHXHCN Việt Nam,
quyền khởi kiện được ghi nhận gián tiếp tại Điều 50: “Ở nƣớc cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa
và xã hội được tôn trọng, thể
hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” thì
đến Hiến Pháp 2013 quyền con người, quyền dân sự được đề cao, khẳng
định trực tiếp, rõ nét hơn tại điều 14 Hiến pháp 2013:
“ 1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật
trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. „

Tuy nhiên, dù là đạo luật cơ bản nhƣng để Hiến pháp đi vào cuộc sống, phát
huy tác dụng thì cần phải có một hệ thống văn bản luật và dƣới luật thực sự
đồng bộ, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp. Các quy định của Hiến pháp
cũng chỉ là quy định “ treo „ nếu không được luật hóa một cách chính xác và
cụ thể. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, một loạt các văn bản
Luật và dƣới luật đã được sửa đổi bổ sung đã được Quốc hội thông qua,
quyền khởi kiện của các chủ thể được ghi nhận cụ thể trong các văn bản
pháp luật về nội dung và pháp luật về tố tụng. Trên cơ sở quy định
BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 quy định cụ thể, chính xác và đầy đủ hơn
quyền dân sự trong đó có quyền tự do khởi kiện của chủ thể:
1.

Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền dân sự được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

2.

Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an


toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. (Điều 2 BLDS
năm 2015).
Khi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có
quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc
yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền dân sự của mình; Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; Buộc
xin lỗi, cải chính công khai; Buộc thực hiện nghĩa vụ; Buộc bồi thƣờng thiệt
hại; Hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền; Yêu cầu khác theo quy định của luật.

Việc ghi nhận quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự chính là công cụ hữu hiệu
để bảo vệ quyền dân sự của chủ thể trong Bộ luật dân sự và các văn bản pháp
luật có liên quan. Có thể nói khởi kiện là“ phƣơng thức luật định mở rộng
cho hết thảy những ai muốn cầu cứu đến công lý, để xin che chở quyền lợi
lâm nguy „[30, tr109].
Tuy nhiên để thực hiện quyền tự do khởi kiện vụ án dân sự, chủ thể của
quyền khởi kiện phải chứng minh giữa chủ thể và người bị kiện trước đó đã
tồn tại quan hệ pháp luật dân sự mà theo quan hệ pháp luật này chủ thể
quyền khởi kiện bị ảnh hƣởng, xâm phạm về quyền và lợi ích.Việc chứng
minh được thể hiện ở việc cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh quan hệ
pháp luật dân sự giữa các bên. Điều này được quy định trong các luật về nội
dung nhƣ Bộ luật dân sự; Luật Doanh nghiệp, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ
em, Luật hôn nhân và gia đình……
Ngoài điều kiện chứng minh quyền và lợi ích bị xâm phạm thì điều kiện tƣ
cách pháp lý của chủ thể có cho phép chủ thể được đứng đơn khởi kiện hay
không? Bộ luật tố tụng dân sự 2015 được ban hành trên cơ sở kế thừa các
quy định Bộ luật tố tụng dân sự 2005 đã quy định cụ thể về chủ thể thực hiện
quyền khởi kiện vụ án dân sự. Thông thƣờng chủ thể của quyền khởi kiện là
nguyên đơn, người có quyền và lợi ích hợp pháp bị coi là xâm phạm hoặc có
tranh chấp. Để thực hiện được quyền tự do khởi kiện, chủ thể phải có đủ
NLPLTTDS và NLHVTTDS. Để thực hiện quyền tự do khởi kiện, chủ thể
phải đảm bảo độ tuổi do luật định, từ 18 tuổi trở lên, có khả năng nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình, không bị mất năng lực hành vi dân sự. Đối
với những người mất năng lực hành vi dân sự hoặc dƣới 15 tuổi việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước tòa phải do người đại diện hợp pháp


của họ thực hiện. Đối với người từ đủ 15 đến chƣa đủ 18 tuổi, trong điều
kiện nhất định nhƣ đã tham gia độc lâp quan hệ dân sự trước đó, có tài sản
riêng vẫn có thể tham gia quan hệ tố tụng dân sự với tƣ cách chủ thể độc lập.

Ngoài ra yêu cầu, vụ việc được khởi kiện chƣa được giải quyết bằng một
bản án hay quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nƣơc có
thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật, trừ các trƣờng hợp đặc biệt; việc thực
hiện quyền tự do khởi kiện phải tuân thủ các điều kiện khác nhƣ đúng thẩm
quyền xét xử theo lãnh thổ, thẩm quyền xét xử và các điều kiện về hình thức
khởi kiện. Tất cả những điều kiện trên được quy định cụ thể trong Bộ
LTTDS năm 2004 và BLTTDS năm 2015.
2. Lịch sử các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện
trong pháp luật dân sự Việt Nam
Quyền khởi kiện của chủ thể có thể nói được thể hiện rõ nét, cụ thể nhất
trong hệ thống pháp luật về tố tụng và một số quy định trong pháp luật dân
sự, do vậy luận văn tập trung nghiên cứu kỹ quyền khởi kiện qua các thời kỳ
chủ yếu trong pháp luật tố tụng dân sự.
2.1. Thời kỳ Nhà nước phong kiến Việt Nam
Quyền khởi kiện được ghi nhận một cách gián tiếp trong Bộ Luật Hồng Đức
và Bộ Luật Gia Long. Tuy nhiên, những quy định trong các Bộ luật này thể
hiện quyền khởi kiện không có sự phân biệt các vụ kiện về dân sự hay hình
sự, tất cả các hành vi
vi phạm pháp luật đều bị các chế tài về hình sự kể cả những vụ việc mà ngày
nay chúng ta coi chỉ có tính chất dân sự.
Căn cứ để khởi kiện là các hành vi phạm tội được ghi nhận trong luật Hồng
Đức và Luật Gia Long. người đứng đơn khởi kiện được gọi là nguyên cáo, là
người có quyền lợi bị xâm phạm phải chứng minh được quyền khởi kiện của
mình bằng việc đưa ra những bằng chứng và chứng cứ để chứng minh về cơ
sở của việc kiện. Chẳng hạn, khởi kiện về điền thổ phải có văn tự, về tài sản
phải có chúc thƣ, về nợ phải có giấy tờ ghi nhận nợ.
người bị nguyên cáo kiện được gọi là bị cáo, cũng có quyền phản đối yêu
cầu của nguyên cáo bằng hình thức tƣơng tự, đƣa ra bằng chứng chứng
minh làm cơ sở cho việc phản đối nộp cho nha môn. như vậy, Cổ luật Việt



Nam đã có những quy định cơ bản về điều kiện khởi kiện. Tuy nhiên, Cổ luật
cũng có những quy định hạn chế quyền khởi kiện của các thành viên trong
gia đình. Cụ thể là cấm con cháu kiện ông bà, cha mẹ, ông bà ngoại, ông bà
cha mẹ chồng (Điều 511 Luật Hồng Đức, Điều 306 Luật Gia Long); con
cháu cũng không được tố cáo ông bà cha mẹ, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ
chồng (Điều 504 Bộ Luật Hồng Đức, Điều 304 Bộ luật Gia Long)…v.v.
Chính các quy định này đã hạn chế quyền khởi kiện của công dân.
Trong thời kỳ Pháp thuộc thì các Bộ luật dân sự được áp dụng riêng rẽ cho
ba kỳ. Các bộ luật quan trọng ta phải kể đến đến đó là Bộ Luật Dân sự Nam
Kỳ giản yếu ra đời năm 1883, Bộ dân luật Bắc Kỳ ra đời năm 1931 và Bộ
dân luật Trung Kỳ (Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật) ra đời năm 1936. Các Bộ
luật trên đều ghi nhận quyền công dân trong lĩnh vực dân sự.
2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Trong thời kỳ đầu của cách mạng Tháng 8 năm 1945 Nhà nƣớc ta chủ yếu
ban hành các sắc lệnh nhƣ Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 cho giữ tạm
thời những luật lệ hiện hành của chế độ cũ. Sau đó, Nhà nƣớc đã ban hành
hàng loạt các sắc lệnh trong lĩnh vực dân sự quyền dân sự, quyền khởi kiện
đã được ghi nhận cụ thể, trong đó phải kể đến Sắc lệnh số 97/SL ngày
22/5/1950“ Sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật „ có một ý
nghĩa đặc biệt đặt cơ sở, những nguyên tắc cho sự hình thành và phát triển
của dân luật. Đó là nguyên tắc“ Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ
khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi của nhân dân „ ( Điều 1) hoặc
nhƣ“ người ta chỉ được hƣởng dụng và sử dụng các vật thộc quyền sở hữu
của mình một cách hợp pháp và không gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân
dân „ ( Điều 12)… Trong lĩnh vực tố tụng Nhà nƣớc ban hành các Sắc lệnh
cho phép Tòa án áp dụng thủ tục tố tụng để giải quyết tranh chấp dân sự
nhƣ: Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch Thẩm
phán; Sắc lệnh 52/SL ngày 17/04/1946 quy định thẩm quyền của các Tòa án;
Sắc lệnh 112/SL ngày 28/06/1946 bổ sung Sắc lệnh 51; Sắc lệnh 130/SL

ngày 19/07/1946 quy định về thể thức thi hành án; Sắc lệnh 85/SL ngày
22/05/1950 cải cách bộ máy tƣ pháp và tố tụng; Sắc lệnh 159/SL ngày
07/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn. Tuy nhiên, trong điều kiện kháng
chiến từ năm 1945 đến năm 1954 các Sắc lệnh do Nhà nƣớc ban hành chủ
yếu quy định chung quyền dân sự, về thủ tục tố tụng mà không có quy định
cụ thể về quyền khởi kiện.


Sau khi Hiến pháp 1959 được ban hành, Điều 22 Hiến pháp năm 1959 đã ghi
nhận nguyên tắc “ Công dân nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đều bình
đẳng trước pháp luật” các BLDS của phong kiến và thời kỳ Pháp thuộc hết
hiệu lực thi hành bởi Chỉ thị số 772/TATC ngày 10/7/1959 “ Về vấn đề đình
chỉ áp dụng luật pháp cũ của phong kiến đế quốc”, trong giai đoạn này các
văn bản pháp luật được ban hành dƣới dạng Nghị định của Chính phủ ,
Quýet định của thủ tƣớng chính phủ về kinh tế, không có văn bản dƣới luật
mang tính dân sự, các quy định này mang nặng tính chất hành chính, không
có quy định điều chỉnh vấn đề thừa kế….Việc giải quyết các vụ án căn cứ
chủ yếu vào các Thông tƣ, chỉ thị, nghị quyết của TAND tối cao.
Trong lĩnh vực tố tụng Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy
định các nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân,
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật nhƣ Luật Tổ chức Tòa án, Luật
Tổ chức Viện Kiểm sát đã ghi nhận và đảm bảo đầy đủ nguyên tắc đó.
Để cụ thể hóa nguyên tắc trên Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có hƣớng
dẫn về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự tạo
cơ sở cho việc áp dụng trên thực tế quyền này của công dân. Các văn bản tố
tụng được ban hành thời kỳ này trực tiếp hoặc gián tiếp quy định về quyền
khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện. Đó là công văn số 1111/NCLP ngày
13/07/1963 của Tòa án nhân dân tối cao về thủ tục xử chia tài sản ly hôn đối
với người mất trí; công văn số 05/NCLP ngày 29/06/1966 của Tòa án nhân
dân tối cao về tƣ cách bị đơn; Thông tƣ số 39/NCLP ngày 21/01/1972 của

Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn về thụ lý, xếp và tạm xếp những việc
kiện về hôn nhân và gia đình và tranh chấp dân sự; Công văn số 96/NCLP
ngày 08/02/1977 của Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn trình tự xét xử sơ
thẩm về dân sự. Sau này Công văn số 546/DS ngày 07/07/1989 về quyền
khởi kiện của cá nhân, tổ chức vì lợi ích của Nhà nƣớc có quy định khi Viện
kiểm sát khởi tố vụ kiện thì cần đƣa cơ quan Nhà nƣớc hoặc hợp tác đứng
vào vai trò nguyên đơn trong vụ kiện vì họ là đương sự chính trong vụ kiện.
Tiếp đến là công văn số 05/NCLP ngày 29/06/1986 của Tòa án nhân dân tối
cao về tƣ cách của bị đơn trong vụ kiện dân sự; Nghị quyết 01/NQ/H ĐTP
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 20/01/1988.
Có thể nhận xét trong giai đoạn từ năm 1945 đến 1989, vấn đề quyền khởi
kiện tiếp tục được ghi nhận và củng cố. Tuy nhiên để xác định chủ thể có
quyền khởi kiện thì cần phải căn cứ vào pháp luật nội dung, trong đó sẽ xác


định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia các quan hệ cụ thể, từ
đó mới xác định được chủ thể mang quyền và chủ thể có nghĩa vụ. Các văn
bản này cũng đề cập đến việc thực hiện quyền khởi kiện và bảo đảm quyền
khởi kiện. Theo đó, nguyên đơn có đủ tƣ cách để đi kiện phải là người có
năng lực hành vi dân sự và có quyền lợi bị xâm phạm.
2.3. Từ năm 1989 đến năm 2005:
Kế thừa và phát triển các quy định về pháp luật dân sự của giai đoạn trước
đó, Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật dân sự nhƣ Pháp lệnh
Hợp đồng dân sự năm 1991, Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp, pháp lệnh
hợp đồng kinh tế năm 1989, pháp lệnh Thừa kế năm 1990….., Bộ luật dân sự
năm 1995 được ban hành đã thay thế
một loạt các pháp lệnh trước đó trong lĩnh vực dân sự, quyền khởi kiện của
cá nhân, cơ quan, tổ chức được hình thành, ghi nhận rõ nét hơn.
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự Nhà nƣớc đã ban hành ba Pháp lệnh về thủ tục
tố tụng. Đó là Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

(PLTTGQCVADS) ngày 29/11/1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế (PLTTGQCVAKT) ngày 06/03/1994, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các tranh chấp lao động (PLTTGQCTCLĐ) ngày 11/04/1996. Đây là những
văn bản pháp luật quan trọng về tố tụng dân sự, trong đó có những quy định
liên quan đến quyền khởi kiện của chủ thể.
PLTTGQCVADS 1989 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho việc thực
thi quyền khởi kiện của công dân trên thực tế. Điều 1 Pháp lệnh này quy
định: “Công dân, pháp nhân theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền
khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình”. Điều 34 quy định về phạm
vi khởi kiện, theo đó một người có thể khởi kiện đối với một người về một
hoặc nhiều yêu cầu khác nhau, một người có thể khởi kiện đối với nhiều
người hoặc nhiều người có thể khởi kiện một người về cùng một quan hệ
pháp luật. Tuy nhiên, theo quy định của Pháp lệnh năm 1989, trình tự thủ tục
giải quyết những vụ việc phát sinh tranh chấp và không phát sinh tranh chấp
đều được giải quyết theo một thủ tục chung.
PLTTGQCVAKT 1994 và PLTTGQTCLĐ 1996 đã tách hai mảng kinh tế và
lao


động ra khỏi trình tự thủ tục giải quyết các vụ án dân sự theo quy định của
PLTTQGCVADS năm 1989. Hai Pháp lệnh này về cơ bản được xây dựng
trên cơ sở PLTTGQCVADS năm 1989 nên các quy định về quyền khởi kiện
và bảo đảm quyền khởi kiện về cơ bản tƣơng tự nhƣ trong
PLTTGQCVADS. PLTTQGCVAKT năm 1994 không quy định quyền khởi
tố vụ án kinh tế của Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, theo Điều 28
PLTTQGCTCLĐ 1996 thì “đối với những vi phạm pháp luật liên quan đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động là người chƣa thành niên,
người tàn tật và các vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác, nếu không có ai
khởi kiện thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố”.

Có thể nói pháp luật tố tụng thời gian này với ba pháp lệnh riêng rẽ với các
thủ tục khác nhau, đã gây rất nhiều khó khăn cho các chủ thể khi thực hiện
quyền khởi kiện bởi người dân vốn hạn chế về kiến thức pháp luật nay lại
phải chịu sự phức tạp của các quy định nên quyền tự do khởi kiện của chủ
thể còn nhiều hạn chế.
2.4. Từ năm 2005 đến nay
Quyền khởi kiện của chủ thể trong giao lƣu dân sự đã được ghi nhận tƣơng
đối rõ nét đồng bộ trong cả lĩnh vực luật nội dung và luật tố tụng. BLTTDS
năm 2004 có hiệu lực từ ngày 1/1/2005 đã thay thế ba pháp lệnh
PLTTGQCVADS. PLTTQGCVAKT, PLTTGQCTCLĐ cùng với nó là BLDS
năm 2005 được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 đã ghi
nhận quyền khởi kiện của các tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực dân sự,
hôn nhân và gia đình, thƣơng mại và lao động. Trong lĩnh vực luật nội dung,
Bộ luật dân sự năm 2005 đã có quy định có tính nguyên tắc bảo đảm quyền
khởi kiện của chủ thể“ Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ
thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự
bảo vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền:
Công nhận quyền dân sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; Buộc
xin lỗi cải chính công khai; Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi
thƣờng thiệt hại „ (Điều 9 BLDS năm 2005).
Trong lĩnh vực tố tụng, BLTTDS năm 2004 đã quy định về hai trình tự khác
nhau là trình tự thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và trình tự thủ tục giải


quyết các việc dân sự không có tranh chấp. Theo đó các quy định về quyền
khởi kiện, quyền yêu cầu và cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện cũng có nhiều
thay đổi.
Trong quá trình thực thi BLTTDS 2005, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp

với các cơ quan hữu quan xây dựng, ban hành các văn bản hƣớng dẫn các
quy định của BLTTDS. Cụ thể là Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày
31-3-2005 hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những
quy định chung” của BLTTDS; Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 179-2005hƣớng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về “Chứng minh
và chứng cứ”; Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 hƣớng dẫn
thi hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án
cấp sơ thẩm” của BLTTDS; Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04-82006 hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Thủ tục giải
quyết các vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của BLTTDS; Thông tƣ liên tịch
số 03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01-9-2005 của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn thi hành một số quy
định của BLTTDS về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
và sự tham gia của Kiểm sát viên trong việc giải quyết các vụ việc dân sự;
Thông tƣ liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTCTANDTC ngày 28-12-2007 Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ
Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hƣớng
dẫn áp dụng một số quy định về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.
Các văn bản trên đóng vai trò quan trọng trong việc cụ thể hoá BLTTDS,
hƣớng dẫn áp dụng thống nhất BLTTDS trên phạm vi toàn quốc, tạo cơ sở
pháp lý cho việc bảo đảm quyền khởi kiện trên thực tế.
Tuy nhiện, sau hơn 10 năm BLTTDS 2004 và BLDS năm 2005 có hiệu lực
thi hành đã bộc lộ những hạn chế, vƣớng mắc cần phải khắc phục sửa đổi
nhƣ: vấn đề thời hiệu khởi kiện, sự thống nhất quy định giữa các luật nội
dung, quyền khởi kiện của các chủ thể trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
tụng…., nhiều quy định không còn phù
hợp với nội dung của Hiến pháp năm 2013 và tiến trình hội nhập quốc tế
ngày nay, đặc biệt quyền tự do khởi kiện của chủ thể còn bị hạn chế phần
nhiều do thiếu vắng các quy định của luật nội dung hoặc quy định của luật tố
tụng chƣa đảm bảo quyền tự do khởi kiện của đương sự.


BLTTDS và BLDS năm 2015 có hiệu lực pháp luật trong thời gian tới được

kỳ vọng là khắc phục được những lỗ hổng, những tồn tại mà BLTTDS năm
2004 và BLDS năm 2005. Quyền dân sự trong đó Quyền khởi kiện của chủ
thể được khẳng định mạnh mẽ, cụ thể có tính nguyên tắc trong cả luật nội
dung và luật tố tụng, quyền dân sự của chủ thể không chỉ được“tôn trọng „,“
bảo vệ „ mà còn được“ công nhận „ và“ bảo đảm „ theo Hiến pháp và pháp
luật, cùng với nó là quy định trong BLTTDS 2015 “ Tòa án không được từ
chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chƣa có điều luật để áp dụng.”. Đối
với những vụ việc chƣa có luật áp dụng, BLDS năm 2015 quy định áp dụng
giải quyết theo tập quán pháp, tƣơng tự luật và lẽ công bằng.
Qua việc nghiên cứu khái quát về quá trình hình thành và phát triển của các
quy định của pháp luật dân sự về quyền khởi kiện có thể thấy Quyền khởi
kiện của các chủ thể qua các thời kỳ ngày càng được ghi nhận rõ ràng, tiến
bộ hơn. Đặc biệt BLTTDS năm 2015 ra đời đã đánh dấu một bƣớc phát triển
và ngày càng hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng dân sự về quyền tự
do khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền tự do khởi kiện của chủ thể
Quyền tự do của con người nói chung, quyền tự do khởi kiện nói riêng chịu
ảnh hƣởng bởi rất nhiều yếu tố trong đó phải kể đến nhƣ các quy định của
pháp luật về quyền khởi kiện; Trình độ hiểu biết hay khả năng nhận thức của
chủ thể; Trách nhiệm của cơ quan tài phán là TAND; Hiệu quả hoạt động của
cơ quan nhà nước…Việc đánh giá các yếu tố ảnh hƣởng đến quyền tự do
khởi kiện của các chủ thể một cách chính xác là cơ sở để các nhà nghiên cứu
và thi hành pháp luật đƣa ra được những quyết sách đúng đắn.
3.1 . Quy định của pháp luật – yếu tố ảnh hưởng quyết định quyền tự do
khởi kiện.
Giả thiết quyền và lợi ích của mình bị tranh chấp hay vi phạm, chủ thể có
quyền khởi kiện nhƣng không có nghĩa là họ có quyền khởi kiện bất kỳ ai,
kiện đến bất kỳ cơ quan nào, trong một số trƣờng hợp chủ thể có thể không
thực hiện được quyền khởi kiện vì lợi ích an ninh quốc gia, cộng đồng xã hội
hay còn gọi là giới hạn quyền khởi kiện. Việc kiện của chủ thể phải dựa trên

cơ sở một quan hệ pháp luật nhất định, căn cứ vào các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ pháp luật này để xác định người mà họ có quyền đi kiện
và kiện đến cơ quan nào, theo trình tự thủ tục nhất định. Điều này chính là sự


phản ánh mối quan hệ giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự,
chính những quy định này ảnh hƣởng trực tiếp đến quyền tự do khởi kiện
của chủ thể.
Mục tiêu của nhà nƣớc pháp quyền là xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ
phù hợp với thực tế, một yếu tố có tính chất quyết định thực hiện quyền công
dân nói chung, quyền tự do khởi kiện của chủ thể nói riêng.
Sau hơn 10 năm thi hành BLTTDS năm 2004 và BLDS năm 2005 các quy
định về quyền tự do khởi kiện của chủ thể chƣa được đảm bảo trên thực tế.
Nhiều vụ việc đã không được cơ quan tòa án thụ lý giải quyết do thiếu vắng
các quy định về luật nội dung hoặc để được tòa án thụ lý chủ thể quyền khởi
kiện phải trải qua rất nhiều các thủ tục, tốn nhiều thời gian và công sức… Ví
dụ: đối với tranh chấp đất đai, theo quy định của BLTTDS năm 2004 trước
khi nộp đơn khởi kiện lên tòa án có thẩm quyền, chủ thể đơn khởi kiện phải
nộp đơn tại UBND xã, phƣờng nơi cƣ trú hoặc nơi có bất động sản, sau khi
hòa giải, có biên bản hòa giải ở địa phƣơng thì chủ thể mới được quyền khởi
kiện tại tòa án có thẩm quyền và khi đó tòa án mới thụ lý, điều này có ảnh
hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể. Hoặc như do
không có pháp luật điều chỉnh nên khi có tranh chấp xảy ra tòa án không biết
xử lý vụ việc thế nào do không có văn bản hướng dẫn, nhiều vụ việc đã
không thể thụ lý giải quyết nhƣ việc tranh chấp mồ mả … điều này đã gây
mất lòng tin của nhân dân vào một nền công lý…. Điều này
có thể thấy các quy định của pháp luật ảnh hƣởng rất lớn đến việc thực hiện
quyền tự do khởi kiện của chủ thể.
Tuy nhiên, quyền dân sự trong đó quyền tự do khởi kiện của chủ thể được
đặt trong mối liên hệ với quyền và lợi ích của chủ thể khác và lợi ích chung

của cộng đồng xã hội. Chính vì vậy pháp luật dân sự đã quy định giới hạn
của việc thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể. BLDS năm 2005 quy
định có tính chất gián tiếp tại điều 10 “Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà
nƣớc, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Việc xác
lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích của
Nhà nƣớc, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.” Đến
BLDS năm 2015 đã quy định rõ ràng về giới hạn quyền dân sự, trong đó có
quyền khởi kiện theo đó “ Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,


trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.” Điều 10
BLDS năm 2015 quy định về Giới hạn việc thực hiện quyền dân sự nhƣ sau:
“1. Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự của mình gây
thiệt hại cho người khác, để vi phạm nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện mục
đích khác trái pháp luật.
2. Trường hợp cá nhân, pháp nhân không tuân thủ quy định tại khoản 1 Điều
này thì Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác căn cứ vào tính chất, hậu
quả của hành vi vi phạm mà có thể không bảo vệ một phần hoặc toàn bộ
quyền của họ, buộc bồi thường nếu gây thiệt hại và có thể áp dụng chế tài
khác do luật quy định.”
như vậy, quyền dân sự, quyền tự do khởi kiện của chủ thể chịu ảnh hƣởng
trực tiếp bởi các quy định của pháp luật, bởi hành lang pháp lý cho phép chủ
thể được thực hiện quyền gì và thực hiện nhƣ thế nào? .
3.2. Nhận thức của chủ thể – yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thực hiện
quyền tự do khởi kiện.
Tự do và nhận thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong bài Biện
chứng về tự do của tác giả Nguyễn Trần Bạt, ông cho rằng“ tự do nhận thức
là nền tảng để con người đi tới tự do hành động. Không có tự do nhận thức
tức là không có tự do tinh thần, con người sẽ không thể có tự do hành động

bởi luôn vấp phải các rào cản về mặt nhận thức, và do đó, con người sẽ cảm
thấy bị hạn chế, bị mất tự do ngay từ trong ý nghĩ chứ không chỉ trong hành
vi của mình.” [1, tr46].
Với khả năng nhận thức của mình chủ thể có thể xác định rõ quyền và lợi ích
của mình bị xâm phạm hay tranh chấp là cái gì? Ai là người bị coi là đã xâm
phạm hay tranh chấp đối với chủ thể? Khởi kiện lên cơ quan nào? Theo trình
tự thủ tục gì? Nếu có khả năng nhận thức rõ được vấn đề trên thì chủ thể
thực hiện quyền tự do khởi kiện một cách dễ dàng. Tuy nhiên, trên thực tế do
trình độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế nên người đi kiện đã xác định và
khởi kiện không đúng người mà mình có quyền khởi kiện theo quy định của
pháp luật. Chẳng hạn, nguyên đơn kiện về hợp đồng ký kết với công ty
nhƣng lại không khởi kiện công ty – chủ thể có quyền, nghĩa vụ theo hợp
đồng mà khởi kiện chi nhánh của công ty ; chủ sở hữu kiện đòi động sản
phải đăng ký quyền sở hữu đang bị người thứ ba chiếm hữu trái pháp luật
nhƣng lại không khởi kiện người đang chiếm hữu mà khởi kiện người được


chủ sở hữu giao quản lý tài sản ; người bị thiệt hại kiện yêu cầu bồi thƣờng
thiệt hại ngoài hợp đồng nhƣng lại khởi kiện người không có trách nhiệm
phải bồi thƣờng…v.v. Trong những trƣờng hợp đặc biệt này, với tƣ cách là
cơ quan bảo vệ công lý và cầm cân nảy mực thì vai trò đôn đốc và hƣớng
dẫn thủ tục tố tụng của toà án là hết sức cần thiết. Căn cứ vào tiêu chí nhận
thức của chủ thể, pháp luật dân sự đã có những quy định riêng đối với từng
đối tƣợng, theo đó người từ đủ 18 tuổi trở lên, có khả năng nhận thức được
coi là người có đầy đủ năng lƣc hành vi dân sự và tố tụng dân sự, họ có
quyền tự do thực hiện quyền khởi kiện của mình mà không phụ thuộc vào
bất kỳ đối tƣợng nào khác. Đối với những đối tƣợng khác nhƣ người mất
năng lực hành vi dân sự ( không có khả năng nhận thức); người chƣa đủ 18
tuổi ( người có năng lực hành vi chƣa đầy đủ) hay người không có năng lực
hành vi ( người dƣới 6 tuổi) thì việc thực hiện quyền dân sự của họ bị phụ

thuộc vào đối tƣợng khác, pháp luật dân sự gọi là người đại diện theo pháp
luật, khi đó việc thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể phụ thuộc vào
người đại diện theo pháp luật, vào trình độ hiểu biết của họ..
Có thể thấy, khả năng nhận thức, trình độ hiểu biết của chủ thể có ảnh hƣởng
rất lớn đến việc thực hiện quyền tự do khởi kiện của chủ thể.
3.3 . Trách nhiệm của Toà án, cơ quan trực tiếp thụ lý giải quyết vụ án –
yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện quyền tự do khởi kiện
Quy định của pháp luật, khả năng nhận thức, hiểu biết của chủ thể chỉ là yếu
tố cần để tạo cơ sở cho thực hiện quyền tự do khởi kiện, trách nhiệm của toà
án trong việc thụ lý giải quyết vụ án là yếu tố đủ để quyền tự do khởi kiện có
hiệu lực và hiệu quả trên thực tế. Tính độc lập, khách quan của Tòa án là
điều không thể thiếu để bảo đảm quyền tự do khởi kiện. Pháp luật ghi nhận
quyền khởi kiện của đương sự nhƣng nếu nhƣ Toà án – chủ thể có thẩm
quyền xem xét để chấp nhận hay bác bỏ quyền này không độc lập hoặc
người tiến hành tố tụng không vô tư, khách quan thì việc ghi nhận quyền
khởi kiện cũng chỉ là trên giấy tờ mà không được bảo đảm thực hiện trên
thực tế. Sự độc lập của Toà án, sự vô tư, khách quan của người tiến hành tố
tụng sẽ là bảo đảm cần thiết cho quyền khởi kiện được thực thi trên thực tế.
Nếu như pháp luật đã có những quy định hợp lý và minh bạch hoá về điều
kiện thụ lý, căn cứ trả đơn, chuyển đơn khởi kiện, đình chỉ giải quyết vụ án
nhằm bảo đảm về mặt pháp lý quyền khởi kiện thì hoạt động tố tụng cụ thể


của toà án trong việc nhận đơn, xem xét, quyết định việc thụ lý hay không
thụ lý yêu cầu của đương sự, chuyển đơn khởi kiện hay đình chỉ giải quyết
vụ án lại có ý nghĩa bảo đảm trên thực tế quyền tự do khởi kiện của đương
sự. Nếu nhƣ pháp luật đã quy định rõ ràng những trƣờng hợp mà Toà án có
quyền trả lại đơn khởi kiện thì toà án chỉ có quyền từ chối thụ lý trong những
trƣờng hợp đã được quy định. Ngoài những trƣờng hợp đó thì Toà án phải
xem xét thụ lý đúng thời hạn luật định. Sự chậm trễ của Toà án trong việc thụ

lý mà không có lý do chính đáng, việc chuyển đơn kiện lòng vòng mà không
có cơ sở pháp lý hay đình chỉ giải quyết vụ án ngoài những trƣờng hợp luật
định cũng phải được coi là đã xâm phạm đến quyền tự do khởi kiện của
đương sự. Do vậy, để đánh giá về quyền tự do khởi kiện có được thực thi hay
không thì ngoài việc căn cứ vào quy định của pháp luật cần phải xét đến hoạt
động tố tụng cụ thể của Toà án trong việc thụ lý, trả đơn, chuyển đơn khởi
kiện hay đình chỉ giải quyết vụ án. Thực tế thi hành BLTTDS hơn 10 năm
qua có thể thấy, quyền tự do khởi kiện của chủ thể đã bị hạn chế một phần do
quy định của pháp luật hoặc do hoạt động tố tụng của toà án các cấp, nhiều
vụ việc không được thụ lý giải quyết do có quy định của luật nội dung
hƣớng dẫn giải quyết hoặc đùn đẩy trách nhiệm dẫn đến quyền khởi kiện của
chủ thể bị ảnh hƣởng. Bên cạnh đó việc Tòa án xem xét giải quyết vụ việc
một cách chính xác khách quan cũng là yếu tố đảm bảo thực hiện quyền khởi
kiện của chủ thể, vì việc chấp nhận, xem xét thụ lý đơn khởi kiện mới chỉ là
khởi đầu của quá trình bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện của đương sự.
Việc giải quyết yêu cầu khởi kiện đó nhƣ thế nào mới là việc bảo vệ quyền
khởi kiện.
3.4 . Hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác –
yếu tố ảnh hưởng đến quyền tự do khởi kiện
Khi quyền và lợi ích của chủ thể bị coi là xâm phạm hoặc tranh chấp, đa
phần chủ thể có thể trực tiếp thực hiện quyền khởi kiện của mình đến toà án
có thẩm quyền, trong một số trƣờng hợp các vụ việc theo quy định của pháp
luật tố tụng hoặc dân sự phải có xác nhận của cơ quan nhà nƣớc khác thì vụ
việc mới được xem xét thụ lý giải quyết, chủ thể mới được thực hiện quyền
khởi kiện của mình. Điều này đã ảnh hƣởng đến quyền tự do khởi kiện của
chủ thể. Cụ thể nhƣ, đối với các việc tranh chấp liên quan đến quyền sử
dụng đất thì thủ tục tiền tố tụng bắt buộc phải được thực hiện trước khi khởi
kiện ra toà án là phải tiến hành hoà giải ở cơ sở, cụ thể là vụ việc phải được



tiến hành tại UBND cấp xã. Khi tiếp nhận đơn nếu UBND cấp xã nhanh
chóng xem xét, nắm bắt nội dung tranh chấp, hoạt động tiến hành hoà giải
được thực hiện ngay sau đó thì vụ việc được sớm xử lý. Ngƣợc lại, nếu vụ
việc dậm chân tại chỗ ở UBND cấp xã thì quyền tự do khởi kiện của chủ thể
đƣơng nhiên bị ảnh hƣởng. Thực tế chƣa có một cơ chế nào quy định trình
tự, thủ tục, thời hạn tiến hành việc hoà giải nên không có một cơ chế ràng
buộc trách nhiệm của cán bộ, cơ quan nhà nƣớc trong thực hiện hoà giải ở
cơ sở…. hoặc trước đây luật doanh nghiệp 2005 quy định cổ đông trước khi
khởi
kiện ra cơ quan tài phán phải gửi đơn đến ban kiểm soát công ty trước, khi
có kết quả giải quyết thì chủ thể mới được thực hiện quyền khởi kiện của
mình. Đối với các tranh chấp lao động cũng vậy, trước khi thực hiện quyền
khởi kiện tại tòa án một số tranh chấp lao động phải thực hiện thủ tục hòa
giải qua các hòa giải viên lao động…
Một yếu tố ảnh hƣởng không nhỏ đến quyền tự do khởi kiện của chủ thể đó
là chứng cứ. Chứng cứ là vấn đề mấu chốt trong các tranh chấp dân sự,
không có chứng cứ thì chủ thể không thể thực hiện quyền khởi kiện cũng
nhƣ không có hoạt động chứng minh và đương sự không thể bảo vệ được
mình. Chính vì vậy, công tác thu thập chứng cứ là khâu quan trọng nhất
trong quá trình chứng minh, là tiền đề cho các hoạt động chứng minh còn lại
nhƣ cung cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên nếu chứng cứ này
lại nằm ở các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, nếu họ gây khó khăn, không
cung cấp chứng cứ cho đương sự thì đương sự không thể thực hiện quyền
khởi kiện của mình, ví dụ trong các tranh chấp đất đai, chứng cứ nằm trong
cơ quan nhƣ UBND các phƣờng, xã, Phòng Tài nguyên môi trƣờng, Phòng
công chứng…..
Vấn đề thi hành án dân sự cũng là vấn đề cần được quan tâm, sau khi bản án
có hiệu lực pháp luật, những phán quyết trong bản án có được thực thi
nghiêm túc trong thực tế ? Điều này ảnh hƣởng đến niềm tin công lý của
công dân. Nếu bản án, quyết định có hiệu lực được thi hành trên thực tế, tạo

niềm tin pháp lý, công dân khi bị xâm phạm hoặc có tranh chấp dân sự sẽ tìm
đến pháp luât, tìm đến toà án để phân xử và ngƣợc lại quyền tự do khởi kiện
sẽ không có khả năng thực thi khi họ không tin vào công lý, vào hoạt động
của cơ quan nhà nƣớc.


4. Danh mục tài liệu tham khảo
1.

Nguyễn Trần Bạt (2005), Biện chứng của Tự do , Tạp chí Khoa học &
Tổ quốc số 5/2005

2.

Nguyễn Công Bình(2008), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam
Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND.

3.

Đại học Luật Hà Nội(2005), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb Tƣ
pháp, Hà Nội.

4.

Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam,
, Nxb CAND.

5.

Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật TTDS Việt Nam, NXB

công an nhân dân.

6.

Trần Thúc Linh (1964), Danh từ pháp luật lƣợc giải, Nhà sách Khai
Trí, Sài Gòn

7.

Phan Hữu Thƣ (1994), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Đại học Luật Hà
Nội

8. Serge Guinchard et Frédérique Ferrand (2006), Procédure civile, Droit
interne et droit communautaire, Dalloz, 28 édition 2006, p. 128, tr 506
9. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2004.
10.Trang
web
Wikipedia
Tiếng
/>
Việt

,

địa

chỉ

11. Bản án dân sự sơ thẩm số: 18/2015/DSST ngày 12/03/2015 của TAND

thành phố Bắc Ninh.
12 .Thông báo số 35/TB-TAND ngày 22 /10/2016 của TAND thành phố Bắc
Ninh về việc.
13.TS. Quách Thúy Quỳnh (2012) Về chế định kiện phái sinh (Tạp chí Luật
học số 3/2012)
14. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Hà Nội


15. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hà Nội; 18.Quốc hội
(2005), Bộ luật dân sự năm 2005, Hà Nội;
16. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015, Hà Nội
17. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động, Hà Nội.
18. Từ điển Tiếng Việt (2003), Nxb. Đà Nẵng;
19. Viện Khoa học pháp lý-Bộ Tƣ pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ
điển bách khoa – Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội;
20. Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm
phán TAND tối cao Hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai
“Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân
sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
21. Lê Thị Bích Lan (2005), “Vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự”, Luật
học, (Số đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005).
22. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Báo cáo tổng kết năm 2015 và nhiệm
vụ trọng tâm công tác năm 2016 của các Tòa án nhân dân
23. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
24. Liễu Thị Hạnh, Thụ lý vụ án dân sự một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Luận án thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2009;

25. Nguyễn Thu Hiền, Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý án Dân sự
trong pháp luật tố tụng Việt Nam, Luận án thạc sỹ luật học, Khoa Luật Đại
học quốc gia Hà Nội, 2012.
26. Văn phòng thƣờng trực về nhân quyền, Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh (2015), Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
trong Hiến Pháp


×