Tải bản đầy đủ (.doc) (214 trang)

Pháp luật đại cương 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.42 KB, 214 trang )

Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
CHƯƠNG 1
NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ ĐỊA VỊ
PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1.1 Bản chất nhà nước, kiểu và hình thức nhà nước
1.1.1. Nguồn gốc, bản chất của Nhà nước
1.1.1.1. Nguồn gốc của Nhà nước
a. Tổ chức xã hội và quyền lực trong xã hội Cộng sản nguyên thủy.
Xã hội loài người đã trải qua một thời kỳ không có nhà nước và pháp luật,
đó là thời kỳ Cộng sản nguyên thủy. Trong thời kỳ này, do trình độ phát triển hết
sức thấp kém của lực lượng sản xuất nên con người cùng sống chung, cùng lao
động và cùng hưởng thụ những thành quả do lao động chung mang lại. Mọi người
đều bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, xã hội không phân biệt kẻ giàu người
nghèo, không có sự phân chia giai cấp.
Cơ sở kinh tế của xã hội Cộng sản nguyên thủy tạo ra hình thức tổ chức xã
hội là Thị tộc - tổ chức cơ sở đầu tiên của xã hội loài người. Thị tộc là một tổ chức
lao động sản xuất, một bộ máy kinh tế xã hội. Sự phát triển của xã hội cộng với các
yếu tố tác động khác đòi hỏi Thị tộc phải mở rộng quan hệ với các Thị tộc khác,
dẫn đến sự xuất hiện các Bào tộc và Bộ lạc do nhiều Bào tộc hợp thành.
Trong xã hội Cộng sản nguyên thủy, quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà
gắn liền với xã hội, hòa nhập với xã hội. Để tổ chức và quản lý thị tộc, xã hội đã
hình thành hình thức Hội đồng thị tộc bao gồm tất cả những người lớn tuổi trong
Thị tộc với quyền hạn rất lớn. Tổ chức quản lý Bào tộc là Hội đồng Bào tộc bao
gồm các tù trưởng, thủ lĩnh quân sự của các Thị tộc, với các nguyên tắc tổ chức
quyền lực tương tự như nguyên tắc tổ chức quyền lực của Thị tộc nhưng có sự tập
trung cao hơn. Hội đồng Bộ lạc là hình thức tổ chức quản lý của Bộ lạc với nguyên
1
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
tắc tổ chức tương tự như Thị tộc và Bào tộc nhưng mức độ tập trung quyền lực cao
hơn nữa. Như vậy, trong xã hội Cộng sản nguyên thủy đã xuất phát từ xã hội và
phục vụ cho lợi ích của toàn xã hội. Những người đứng đầu Thị tộc, Bào tộc, Bộ


lạc không có đặc quyền, đặc lợi nào; họ cùng sống, cùng lao động và hưởng thụ
như mọi thành viên khác và chịu sự kiểm tra của công cộng.
b. Phân chia giai cấp và sự xuất hiện nhà nước
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội đã làm
thay đổi cơ cấu tổ chức xã hội của xã hội Cộng sản nguyên thủy. Sau ba lần phân
công lao động xã hội, chế độ tư hữu xuất hiện đã phân chia xã hội thành kẻ giàu,
người nghèo, hình thành hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ. Một xã hội mới với
sự phân chia giai cấp và sự đấu tranh giai cấp đòi hỏi phải có một tổ chức quyền
lực mới, ngõ hầu có thể dập tắt được các cuộc xung đột giai cấp, tổ chức quyền lực
đó là nhà nước. Như vậy, nhà nước xuất hiện một cách khách quan, “ một lực
lượng nảy sinh từ xã hội, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ
làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho xung đột đó nằm trong vòng trật tự”.
1.1.1.2. Bản chất của nhà nước
Bản chất của nhà nước là những yếu tố tất nhiên bên trong của nhà nước, nó
quy định sự vận động và phát triển của nhà nước. Bản chất của nhà nước biểu hiện
ở hai tính chất cơ bản của nó là tính giai cấp và tính xã hội.
Làm rõ bản chất của nhà nước tức là phải xác định: Nhà nước là của ai? Do
giai cấp nào tổ chức nên và lãnh đạo? phục vụ lợi ích của giai cấp nào?
* Tính giai cấp của nhà nước
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng nhà nước chỉ xuất hiện
và tồn tại trong xã hội có giai cấp và luôn mang bản chất giai cấp sâu sắc. Nhà
nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà
được. Nhà nước trước hết là bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai
cấp khác, là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị giai cấp.
2
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
- Nhà nước do giai cấp thống trị tổ chức ra để làm nhiệm vụ quản lí và bảo
vệ giai cấp thống trị về mọi mặt.
- Trong xã hội có giai cấp sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác
thể hiện ở ba loại quyền lực: Quyền lực về kinh tế, quyền lực chính trị và quyền

lực về tư tưởng ( Quyền lực được hiểu là khả năng sức mạnh của người nào đó bắt
người khác phải phục vụ mình, phục tùng mình). Giai cấp thống trị về kinh tế trở
thành giai cấp thống trị về chính trị, ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện một
cách tập trung và biến thành ý chí nhà nước, bắt buộc mọi thành viên trong xã hội
phải tuân theo phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
- Để thực hiện sự thống trị của mình giai cấp thống trị phải tổ chức và sử
dụng nhà nước, củng cố duy trì quyền lực về chính trị kinh tế và tư tưởng đối với
toàn bộ xã hội. Nhà nước sử dụng các cơ quan cưỡng chế như quân đội, cảnh sát,
toà án, nhà tù để trấn áp các lực lượng đối địch, bắt các giai cấp, tầng lớp khác
phục tùng ý chí của mình.
Trong các xã hội bóc lột, nhà nước có thuộc tính chung là bộ máy đặc biệt
duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị, tư tưởng của thiểu số đối với đa số là nhân
dân lao động, thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, là công cụ thực hiện nền chuyên chính và bảo vệ
lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
bộ máy thống trị của đa số với thiểu số.
* Tính xã hội của nhà nước
Nhà nước ra đời và tồn tại trong xã hội với cơ cấu bao gồm giai cấp thống trị
và các tầng lớp giai cấp khác. Bản thân giai cấp thống trị cũng chỉ tồn tại trong mối
quan hệ với các giai cấp, các tầng lớp dân cư khác. Do vậy nhà nước ngoài tính
cách là công cụ duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị, còn phải là
một tổ chức quyền lực công, là phương thức đảm bảo lợi ích chung của toàn xã
hội. Nhà nước không chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà còn đứng ra giải
quyết những vấn đề nảy sinh từ trong đời sống xã hội. Mức độ biểu hiện và thực
3
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
hiện vai trò xã hội không giống nhau ở những kiểu nhà nước khác nhau. Trong các
kiểu nhà nước bóc lột như nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản
thì tính xã hội tính giai cấp thể hiện rõ nét, do vậy tính xã hội hay mục đích xã hội
của nhà nước lại mờ nhạt đi. Trong kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa thì tính xã hội

lại được thể hiện rất rõ ràng vì mục đích của nhà nước là phục vụ lợi ích chung của
toàn xã hội.
Từ những kết luận trên có thể đi đến định nghĩa sau: Nhà nước là một tổ
chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế
và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện
mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
* Đặc trưng của nhà nước.
Mỗi kiểu nhà nước có bản chất riêng, nhưng tất cả các nhà nước đều có
những đặc trưng chung, làm cho nhà nước khác với tổ chức thị tộc trong xã hội
Cộng sản nguyên thuỷ. Những đặc trưng cơ bản đó là:
- Nhà nước thiết lập quyền lực công cộng đặc biệt, không còn hoà nhập hoàn
toàn với cư dân nữa. Quyền lực công cộng đặc biệt ở đây là quyền lực nhà nước
mà chủ thể của nó là giai cấp thống trị về kinh tế, chính trị, tư tưởng trong xã hội.
Để thực hiện quyền lực này và để quản lý xã hội, nhà nước có một người đặc biệt
chuyên làm nhiệm vụ quản lý, họ tham gia vào các cơ quan nhà nước và hình
thành nên một bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị, bắt các
giai cấp khác phải phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
- Nhà nước phân chia dân cư theo lãnh thổ thành các đơn vị hành chính,
không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính... Việc
phân chia này quyết định phạm vi tác động của nhà nước trên quy mô rộng lớn
nhất và dẫn đến việc hình thành các cơ quan trung ương và địa phương của bộ máy
nhà nước.
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia: Chủ quyền quốc gia mang nội dung
chính trị pháp lý, nó thể hiện quyền độc lập tự quyết của nhà nước về những chính
4
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
sách đối nội và đối ngoại không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Chủ quyền
quốc gia là thuộc tính không thể chia cắt của nhà nước.
- Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lí bắt buộc đối với mọi
công dân. Với tư cách là người đại diện chính thức của toàn xã hội, nhà nước là tổ

chức duy nhất có quyền ban hành pháp luật. Pháp luật do nhà nước ban hành nên
có tính bắt buộc chung, mọi người đều phải tôn trọng pháp luật.
- Nhà nước quy định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới các hình thức
bắt buộc, số lượng và thời hạn ấn định trước. Sở dĩ nhà nước phải đặt ra các loại
thuế vì bộ máy của nhà nước là một lớp người đặc biệt, tách ra khỏi lao động sản
xuất để thực hiện chức năng quản lý, bộ máy đó phải được nuôi dưỡng bằng nguồn
tài chính lấy từ khu vực sản xuất trực tiếp. Thiếu thuế nhà nước không thể tồn tại
được. Nhưng mặt khác, chỉ có nhà nước mới có độc quyền đặt ra thuế và thu thuế.
* Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước là những phương diện, những hoạt động chủ yếu
của nhà nước nhằm để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Chức
năng của nhà nước được xác định xuất phát từ bản chất của nhà nước, do cơ sở
kinh tế và cơ cấu giai cấp của xã hội quyết định.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, các chức năng được chia thành
chức năng đối nội và chức năng đối ngoại:
- Chức năng đối nội: là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong
nội bộ đất nước. Ví dụ: Đảm bảo trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối
chế độ, bảo vệ chế độ kinh tế... là những chức năng đối nội của nhà nước.
- Chức năng đối ngoại: thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các
nhà nước và dân tộc khác. Ví dụ: Phòng thủ đất nước, chống xâm lược từ bên
ngoài, thiết lập mối bang giao với các quốc gia khác...
- Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc
xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn luôn xuất phát từ tình hình
5
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
thực hiện các chức năng đối nội. Đồng thời, kết quả của việc thực hiện chức năng
đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức năng đối nội.
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều
hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau trong đó có ba hoạt động chính là:
Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tuỳ thuộc

vào tình hình của mỗi nước, các phương pháp hoạt động để thực hiện các chức
năng của nhà nước cũng rất đa dạng nhưng nhìn chung thì có hai phương pháp
chính là thuyết phục và cưỡng chế. Trong các nhà nước bóc lột thì phương pháp
cưỡng chế được sử dụng rộng rãi và là phương pháp chủ yếu để thực hiện các chức
năng của nhà nước. Còn trong nhà nước xã hội chủ nghĩa thuyết phục là phương
pháp cơ bản còn cưỡng chế được sử dụng kết hợp và dựa trên cơ sở của thuyết
phục và giáo dục.
1.1.2. Các kiểu và hình thức Nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm kiểu nhà nước
Lịch sử xã hội loài người cho đến nay đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội
trong đó có 4 hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp và tương ứng có 4 kiểu nhà
nước: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội
chủ nghĩa.
Kiểu nhà nước là tổng thể những đặc điểm cơ bản của nhà nước thể hiện bản
chất giai cấp, vai trò xã hội, những điều kiện phát sinh, tồn tại và phát triển của nhà
nước trong một hình thái kinh tế xã hội có giai cấp nhất định.
Các kiểu nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản đều có đặc
điểm chung là nhà nước bóc lột, chúng xuất hiện và tồn tại trên cơ sở của chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, là công cụ duy trì và bảo vệ nền thống trị và lợi ích của các
giai cấp chủ nô, địa chủ phong kiến và giai cấp tư sản. Còn nhà nước xã hội chủ
nghĩa là kiểu nhà nước mới dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, là nhà
nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
6
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
Sự thay thế kiểu nhà nước diễn ra thông qua cách mạng xã hội mà kết quả là
kiểu nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ và hoàn thiện hơn kiểu nhà nước trước.
1.1.2.2. Các kiểu nhà nước trong lịch sử
a) Các kiểu nhà nước bóc lột: nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản.
* Nhà nước chủ nô.
Nhà nước chủ nô là nhà nước đầu tiên trong lịch sử, ra đời khi chế độ thị tộc

tan rã. Cơ sở kinh tế cả nhà nước chủ nô là chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư
liệu sản xuất, sản phẩm lao động và người nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ có
hai giai cấp chính là nô lệ và chủ nô, ngoài ra còn có các tầng lớp thợ thủ công và
những người lao động tự do khác. Chủ nô là một bộ phận thiểu số của xã hội
nhưng nắm giữ trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội, còn nô lệ là lực lượng
chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất nhưng chỉ là “công cụ biết nói” trong tay chủ
nô, phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nô. Tầng lớp thợ thủ công và những người lao
động tự do có địa vị khác với người nô lệ nhưng vẫn trong quỹ đạo chi phối của
chủ nô về chính trị, kinh tế, tư tưởng.
Nhà nước chủ nô xét về bản chất chỉ là công cụ bạo lực để thực hiện nền
chuyên chính của giai cấp chủ nô, duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của chủ nô,
đàn áp nô lệ và những người lao động khác.
Nhà nước chủ nô thực hiện bảo vệ củng cố chế độ sở hữu của chủ nô đối với
tư liệu sản xuất, sản phẩm lao động và người nô lệ đàn áp sự phản kháng của nô lệ
và các tầng lớp khác bằng bạo lực, củng cố hệ tư tưởng tôn giáo và sử dụng nó để
thống trị về mặt tư tưởng đối với xã hội. Trong một chừng mực nhất định nhà nước
chủ nô cũng tổ chức một số hoạt động kinh tế như quản lý đất đai, tổ chức khai
hoang xây dựng và quản lý các công trình thuỷ nông.... Nhà nước chủ nô tiến hành
chiến tranh xâm lược, bằng chiến tranh giai cấp chủ nô thực hiện khát vọng làm
giàu, cướp bóc của cải, bắt tù binh bổ sung vào đội quân nô lệ và mở rộng phạm vi
thống trị.
7
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
Bộ máy nhà nước chủ nô ở giai đoạn đầu còn đơn giản, mang nhiều dấu ấn
của tổ chức thị tộc, chủ nô là người lãnh đạo và là nhà chức trách. Về sau bộ máy
phát triển hơn trong đó cảnh sát, quân đội, toà án là những bộ phận chủ yếu cấu
thành bộ máy nhà nước.
Hình thức chính thể: chủ yếu theo chính thể quân chủ, quân chủ chuyên chế,
một số nước có hình thức chính thể cộng hoà.
* Kiểu nhà nước phong kiến.

Vào giai đoạn cuối của chế độ chiếm hữu nô lệ, quan hệ sản xuất dựa trên
chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ, cộng với sự bóc lột sức
lao động của nô lệ đã trở nên kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu
thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ ngày càng trở nên gay gắt, dẫn đến nhiều cuộc
nổi dậy của nô lệ: lao động của nông dân trên ruộng đất của các chúa đất đưa năng
suất lao động cao hơn lao động của nô lệ và dần dần thay thế lao động của nô lệ;
chế độ phong kiến dần dần thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ; nhà nước phong kiến
thay thế nhà nước chủ nô. Nhìn chung các nhà nước phong kiến ở Châu Âu và một
số nhà nước Châu Á ra đời dựa trên sự tan rã của nhà nước chủ nô. Tuy nhiên cũng
có quốc gia trong đó nhà nước phong kiến là đầu tiên như Triều Tiên, Mông Cổ,
Việt Nam và dân tộc Giéc- manh ở Châu Âu.
Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ
phong kiến đối với tư liệu sản xuất mà chủ yếu là ruộng đất, người nông dân không
có hoặc có rất ít ruộng đất nên phải phụ thuộc vào địa chủ phong kiến. Xã hội
phong kiến có kết cấu giai cấp phức tạp, địa chủ và nông dân là hai giai cấp chính,
ngoài ra trong xã hội còn có tầng lớp thợ thủ công, thương nhân... Giai cấp địa chủ
phong kiến được chia ra nhiều đẳng cấp với những đặc quyền khác nhau về sở hữu
ruộng đất, vua hay quốc vương là người có thứ bậc cao nhất trong thứ bậc, đẳng
cấp của xã hội phong kiến. Các đẳng cấp phong kiến ở Châu Âu như công, hầu, bá,
tử, nam... đều gắn liền với những mức độ khác nhau về số lượng điền trang, thái ấp
mà họ chiếm hữu.
8
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
Địa vị người nông dân trong xã hội phong kiến có những ưu thế hơn so với
địa vị người nô lệ nhưng chưa có sự khác biệt rõ rệt. Nông dân có kinh tế cá thể,
được sở hữu đối với nhà cửa, công cụ lao động, ruộng đất ( thường với số lượng
ít). Địa chủ phong kiến không có quyền định đoạt tính mạng người nông dân như
trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Người nông dân bị bóc lột dưới hình thức nộp tô
bằng hiện vật (thóc gạo, vật nuôi...) hoặc bằng tiền, ngoài ra còn bị cưỡng bức lao
dịch cho phong kiến. Mức độ phụ thuộc của người nông dân vào địa chủ phong

kiến có khác nhau ở các nước và trong giai đoạn cụ thể của nhà nước phong kiến.
Về bản chất, nhà nước phong kiến là công cụ trong tay giai cấp địa chủ
phong kiến để thực hiện chuyên chính đối với giai cấp nông dân, thợ thủ công và
các tầng lớp lao động khác, là phương tiện duy trì địa vị kinh tế, bảo vệ lợi ích và
sự thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến bảo vệ chế độ
sở hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến, duy trì các hình thức bóc lột với nông
dân và các tầng lớp lao động khác, đàn áp tư tưởng, tuyên truyền hệ tư tưởng
phong kiến, nô dịch các tầng lớp lao động bằng hệ thống tổ chức tôn giáo. Nhà
nước phong kiến có thực hiện những hoạt động kinh tế nhưng với mức độ hạn chế.
Về đối ngoại, nhà nước phong kiến tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng đất đai
– lãnh thổ, cướp bóc của cải và phòng thủ chống bành chướng, xâm lược.
Bộ máy nhà nước phong kiến mang nặng tính quân sự, tập trung quan liêu
gắn liền với chế độ đẳng cấp phong kiến. Các cơ quan mang nặng tính cưỡng chế
như: quân đội, nhà tù, toà án. Cấu trúc bộ máy nhà nước phong kiến bao gồm:
Vua, Bộ máy giúp việc nhà vua ở trung ương ( triều đình) và hệ thống quan lại
giúp nhà vua ở địa phương.
Hình thức chính thể phổ biến nhất của nhà nước phong kiến là chính thể
quân chủ với những biến dạng khác nhau: chính thể quân chủ trung ương tập
quyền, chính thể quân chủ phân quyền cát cứ, chính thể quân chủ đại diện đẳng
cấp, chính thể quân chủ chuyên chế cực đoan.
*
Kiểu nhà nước tư sản
9
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
Nhà nước tư sản ra đời do hai nguyên nhân chính về kinh tế và xã hội. Quan
hệ sản xuất phong kiến chỉ có ý nghĩa tiến bộ trong giai đoạn đầu của chế độ phong
kiến còn sang giai đoạn cuối thì nó trở thành lực cản sự phát triển của lực lượng
sản xuất, vì nhu cầu giải phóng sức lao động đã trở nên cấp bách, thế nhưng quan
hệ sản xuất phong kiến không thể đáp ứng được nhu cầu đó. Mâu thuẫn giữa quan
hệ sản xuất phong kiến với tính chất xã hội hoá và trình độ phát triển ngày càng

cao của lực lượng sản xuất càng trở nên quyết liệt, đòi hỏi phải được giải quyết. Từ
mâu thuẫn về kinh tế dẫn tới mâu thuẫn gay gắt về xã hội giữa địa chủ và nông dân
cũng cần được giải quyết, do chế độ bằng phát canh thu tô của địa chủ. Ngay trong
lòng xã hội phong kiến ở giai đoạn cuối đã hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa và giai cấp tư sản muốn tiến hành cách mạng tư sản để xoá bỏ quan hệ sản
xuất phong kiến, thiết lập kiểu quan hệ sản xuất mới – quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Con đường cơ bản và phổ biến nhất để giành quyền lực chính trị là cách
mạng xã hội, thay thế hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, thiết lập chính quyền
của giai cấp tư sản. Sự ra đời của nhà nước tư sản ở từng nước còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau về lịch sử, xã hội do vậy có những đặc điểm riêng.
Nhà nước tư sản là kiểu nhà nước bóc lột cuối cùng trong lịch sử, là công cụ
duy trì nền thống trị của giai cấp tư sản đối với tầng lớp nhân dân lao động
Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa
trên chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư. Đối tượng
sở hữu của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chủ yếu là công xưởng, hầm mỏ, nhà
máy, đồn điền với phương thức bóc lột giá trị thặng dư.
Cơ cấu giai cấp trong xã hội tư sản gồm hai giai cấp chính là tư sản và vô sản.
Nắm trong tay những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội giai cấp tư sản giữ vai trò
thống trị xã hội. Về phương diện pháp lí giai cấp vô sản được tự do nhưng do không
có tư liệu sản xuất phải bán sức lao động và trở thành người làm thuê cho giai cấp tư
sản chịu sự bóc lột của giai cấp tư sản. Ngoài ra trong xã hội còn có giai cấp nông
dân, tầng lớp tiểu tư sản và tri thức... Tôn giáo trong xã hội còn có vai trò quan trọng
10
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
nhưng không còn là quốc giáo như trong xã hội phong kiến, nhà thờ tách ra khỏi nhà
nước, tín ngưỡng là công việc của cá nhân. Nhà nước tư sản đặc biệt chú trọng
truyền bá hệ tư tưởng tư sản, đảm bảo vai trò thống trị của hệ tư tưởng này trong xã
hội, ngăn cản sự phát triển của các tư tưởng tiến bộ và cách mạng.
Bản chất của nhà nước tư sản được thể hiện qua các chức năng của nhà nước
tư sản: về đối nội nhà nước tư sản bảo vệ củng cố quyền sở hữu tư nhân tư bản chủ

nghĩa đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động xã hội; bảo vệ củng cố tăng
cường nhà nước tư sản, đàn áp nhân dân lao động về tư tưởng, quản lí kinh tế tư
bản chủ nghĩa, tổ chức và quản lí văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật và giải
quyết các vấn đề xã hội cấp bách khác... Về đối ngoại tiến hành các hoạt động bảo
vệ đất nước khỏi sự xâm lược từ bên ngoài, gây chiến tranh xâm lược để mở rộng
thuộc địa giành giật thị trường và phân chia lại thế giới, gây ảnh hưởng của mình
đối với các quốc gia khác và đặc biệt là chống lại sự ảnh hưởng từ phe các nước xã
hội chủ nghĩa.
Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực:
quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp nhằm tạo ra cơ chế đối trọng
kiềm chế nhau, kiểm soát nhau. Về cơ cấu có nghị viện, người đứng đầu nhà nước,
chính phủ, hệ thống các toà án và chính quyền địa phương.
Hình thức chính thể có hai loại chính thể quân chủ lập hiến (Anh, Nhật, Bỉ,
Hà Lan... và chính thể cộng hoà dân chủ tư sản với các hình thức chính thể cộng
hoà tổng thống ( Mỹ, Brazin, Côlômbia...), Cộng hoà đại nghị (Ý, Áo, Phần Lan,
Canada, Ấn Độ...), Cộng hoà hỗn hợp ( Pháp)
b) Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã hội
loài người đến thời điểm hiện nay. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa mang
tính tất yếu khách quan phù hợp với quy luật vận động và phát triển của xã hội.
11
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa là những tiền đề kinh
tế, xã hội và chính trị xuất hiện trong lòng xã hội tư bản.
Về mặt kinh tế: vào cuối thế kỷ 19, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
bộc lộ tính trì trệ, kìm hãm sự phát triển sản xuất xã hội, không phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển đến mức xã hội hóa cao, mâu
thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất ngày càng gay
gắt đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa,
xác lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất, đó chính là quan hệ

sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất – quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa. Đây là tiền đề cho sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Về mặt xã hội: Do mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản và
những người lao động khác ngày càng gay gắt. Giai cấp vô sản ngày càng lớn
mạnh cả về số lượng và chất lượng. Là đại biểu cho phương thức sản xuất mới giai
cấp vô sản ý thức được vai trò và sứ mạng lịch sử của mình lãnh đạo quần chúng
lao động tiến hành cách mạng xã hội lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, giải
phóng mình và các tầng lớp nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột thiết lập nhà
nước kiểu mới- nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Về mặt tư tưởng: Các lãnh tụ giai cấp vô sản đã sáng lập ra chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác với kiểu
nhà nước bóc lột. Cơ sở kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân
là giai cấp lãnh đạo nhà nước và xã hội quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ duy trì sự thống
trị của đa số với thiểu số là giai cấp bóc lột, thực hiện dân chủ với đa số là nhân
dân lao động, chuyên chính với thiểu số bóc lột, chống đối. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa là bộ máy hành chính, cơ quan cưỡng chế đồng thời là một tổ chức quản lý
kinh tế- xã hội, là công cụ xây dựng một xã hội bình đẳng, tự do và nhân đạo.
12
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
1.1.2.3. Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là cách tổ chức quyền lực nhà nước và những phương
pháp để thực hiện quyền lực nhà nước. Hình thức nhà nước là một khái niệm
chung được hình thành từ ba yếu tố cụ thể: Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc
nhà nước và chế độ chính trị.
a. Hình thức chính thể.
Đây là cách tổ chức và trình tự lập ra các cơ quan quyền lực tối cao của nhà
nước và xác lập các mối quan hệ cơ bản của các cơ quan đó. Hình thức chính thể

có hai dạng cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà.
- Chính thể quân chủ: là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước
tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên
tắc thừa kế (Vua, Quốc vương, Hoàng đế).
Chính thể quân chủ được chia thành: Chính thể quân chủ tuyệt đối và chính
thể quân chủ hạn chế. Trong các nước quân chủ tuyệt đối, người đứng đầu nhà
nước ( Vua, Hoàng đế ) có quyền lực vô hạn, còn trong các nhà nước quân chủ hạn
chế người đứng đầu nhà nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao và bên cạnh đó
còn có một cơ quan quyền lực khác nữa, như Nghị viện trong các nhà nước tư sản
có chính thể quân chủ (Nghị viện ở Anh, Nhật bản, Hà lan...)
- Chính thể cộng hoà là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước
thuộc về một cơ quan được bầu ra trong một thời gian nhất định ( như Đại hội nhân
dân ở nhà nước Aten cổ đại, Nghị viện ở nhà nước cộng hoà tư sản, Quốc hội nhà
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa).
Chính thể cộng hoà có hai hình thức chính là cộng hoà dân chủ và cộng hoà
quý tộc. Trong các nước cộng hoà dân chủ quyền tham gia bầu cử để bầu ra cơ
quan đại diện quyền lực của nhà nước quy định cho mọi công dân (trên thực tế chỉ
trong nhà nước cộng hoà dân chủ xã hội chủ nghĩa thì quyền bầu cử của công dân
mới được thực hiện đầy đủ, còn trong nhà nước bóc lột quy định này chỉ mang tính
13
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
chất hình thức). Trong các nước cộng hoà quý tộc quyền đó chỉ quy định đối với
tầng lớp quý tộc do pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện (Ví dụ: Nhà nước
cộng hoà quý tộc chủ nô Spac thế kỉ VI – IV trước công nguyên, Nhà nước cộng
hoà quý tộc chủ nô La Mã cổ đại thế kỉ VI – I trước công nguyên, hay chế độ cộng
hoà quý tộc một số thành phố ở Châu Âu dưới chế độ phong kiến như Venexơ,
Phơlorenxơ (Italia), Nôpgôrớt, Pơ - scốp (Nga).
Chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà có những đặc điểm khác nhau ở
những giai đoạn lịch sử khác nhau, tuỳ thuộc vào bản chất giai cấp, nhiệm vụ, mục
tiêu của nhà nước tập quán chính trị, mức độ đấu tranh giai cấp. Vì vậy khi nghiên

cứu hình thức chính thể của một nước nhất định cần phải gắn nó với những điều
kiện lịch sử cụ thể. Hầu hết các nước theo chính thể cộng hoà hiện nay đều là dưới
hình thức cộng hoà dân chủ với những biến dạng sau: Cộng hoà đại nghị, cộng hoà
tổng thống, cộng hoà hỗn hợp.
Tất cả các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều là nhà nước cộng hoà dân chủ
được đặc trưng bằng sự tham gia rộng rãi của nhân dân lao động vào việc thành lập
cơ quan đại diện của mình, cử tri trực tiếp bẩu ra các cơ quan quyền lực cao nhất,
cử tri cùng toàn thể nhân dân giám sát chặt chẽ hoạt động của các cơ quan dân cử,
nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lí nhà nước và quản lí xã hội...
b. Hình thức cấu trúc nhà nước
Đây là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ và xác lập
các mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước, giữa trung ương với địa
phương. Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là: Hình thức nhà nước đơn
nhất và hình thức nhà nước liên bang.
- Nhà nước đơn nhất là nhà nước có chủ quyền chung, có hệ thống cơ quan
quyền lực và quản lí thống nhất từ trung ương đến địa phương và có các đơn vị
hành chính bao gồm Tỉnh( Thành Phố), Huyện (quận), xã (phường). Và có một hệ
thống pháp luật thống nhất trên toàn lãnh thổ quốc gia. Công dân mang một quốc
tịch (Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Campuchia, BaLan, Hungari, Pháp, Nhật...)
14
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
- Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai hay nhiều nhà nước thành viên
hợp lại. Nhà nước liên bang có chủ quyền chung, nhưng mỗi nhà nước thành viên
có chủ quyền riêng; có hai hệ thống các cơ quan nhà nước - một của nhà nước liên
bang, một của nhà nước thành viên; có hai hệ thống pháp luật - một của nhà nước
liên bang và một của mỗi nhà nước thành viên; công dân mang hai quốc tịch ( Mỹ,
Mêhicô, Ấn độ, Brazin, Malaixia, Liên xô trước đây...)
- Còn một loại hình thức nhà nước khác nữa là nhà nước liên minh. Nhà
nước liên minh chỉ là sự liên kết tạm thời của một vài nhà nước để thực hiện những
nhiệm vụ nhất định. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nhà nước liên minh tự giải tán

hoặc có thể chuyển thành nhà nước liên bang ( ví dụ từ năm 1776 đến 1787 Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ là nhà nước liên minh, sau đó phát triển thành nhà nước liên
bang), hay các liên minh về kinh tế hiện nay.
c. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp và thủ đoạn mà cơ quan nhà
nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước
Từ khi có nhà nước cho đến nay, giai cấp thống trị đã sử dụng nhiều phương
pháp cai trị nhưng nhìn chung là có hai phương pháp chính là dân chủ và phản
dân chủ.
Tương ứng với hai phương pháp ấy là hai chế độ nhà nước: chế độ dân chủ
(chế độ dân chủ chủ nô, chế độ dân chủ quý tộc phong kiến, chế độ tư sản, chế độ
dân chủ xã hội chủ nghĩa) và chế độ phản dân chủ ( chế độ độc tài chuyên chế chủ
nô, chế độ độc tài chuyên chế phong kiến, chế độ độc tài phát xít tư sản).
1.2. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.2.1. Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc kiểu nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới, có bản chất khác với
bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa do
15
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa và đặc điểm quyền lực chính trị của chủ nghĩa xã
hội quy định.
Ra đời từ cách mạng tháng Tám năm 1945, ngay từ những ngày đầu, nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa- nay là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam- đã thể hiện bản chất của một nhà nước gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích
của nhân dân, của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Bản chất của nhà nước được xác định
trong hiến pháp năm 1992 ( đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ); “ Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông

dân và đội ngũ tri thức” ( điều 2).
Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện
qua những đặc trưng cơ bản sau đây:
1.2.1.1. Nhân dân là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước
Nhà nước ta ngày nay là nhà nước do dân mà nòng cốt là liên minh công
nông và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức thành.
Chủ thể cao nhất có quyền định đoạt quyền lực nhà nước là nhân dân. Không một
cá nhân nào hoặc một nhóm người nào có quyền quyết định quyền lực nhà nước.
Với tư cách là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước, nhân dân thực hiện
quyền lực dưới những hình thức khác nhau được Hiến pháp quy định. Hình thức cơ
bản nhất là nhân dân thông qua bầu cử để lập ra các cơ quan đại biểu của mình. “
Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân
là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân
bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” ( Điều 6 Hiến pháp năm 1992). Nhân
dân còn thực hiện quyền lực nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên trong việc tham gia giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ
quan nhà nước.
16
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
1.2.1.2. Nhà nước là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết các dân tộc anh em
trên lãnh thổ Việt Nam
Tính dân tộc của Nhà nước ta là một vấn đề có tính lịch sử, là truyền thống
lâu đời và là nguồn sức mạnh của nhà nước. Ngày nay, tính dân tộc của nhà nước
càng được tăng cường do khả năng kết hợp thống nhất với tính giai cấp, tính nhân
dân và tính thời đại. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “ Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống
trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần của đồng bảo dân tộc thiểu số” ( Điều 5 )
1.2.1.3. Nhà nước thể hiện tính xã hội rộng lớn
Nhà nước ta một mặt vẫn thể hiện tính giai cấp của mình, là nhà nước mà
nền tảng chính trị là sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mặt khác cũng thể hiện tính
chất xã hội một cách rộng rãi và sâu sắc.
Với quan điểm coi “ lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích của toàn dân
tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhà nước ta đặc biệt quan tâm
đến việc giải quyết các vấn đề của toàn xã hội như: việc làm, thất nghiệp, xóa đói
giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, giúp đỡ người già cô đơn, trẻ mồ
côi… Nhà nước coi việc giải quyết các vấn đề xã hội là một trong những phương
hướng hoạt động cơ bản của nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường.
1.2.1.4. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mang tính thời đại. Đó là nhà nước trong
đó mọi chủ thể, kể cả nhà nước đều tuân thủ và chấp hành pháp luật. Tính chất nhà
17
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhà nước ta được thể hiện qua các dấu hiệu
cơ bản sau:
Thứ nhất, mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị- xã hội, tổ chức chính trị- xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và của mọi
công dân đều phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật.
Thứ hai, nhà nước đã và đang xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng
bộ và ngày càng hoàn thiện nhằm điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, trong
đó các đạo luật có vị trí tối thượng.
Thứ ba, nhà nước đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của nhân dân thông qua
sự quy định và bảo vệ của pháp luật.
Thứ tư, quyền lực của nhà nước là thống nhất, tập trung nhưng các quyền lực

lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân định rõ ràng có sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lực đó.
Tính chất pháp quyền của xã hội chủ nghĩa của nhà nước ta được khẳng định
trong nhiều quy phạm pháp luật của Hiến pháp năm 1992 ( đã được bổ sung sửa
đổi năm 2001 ).
1.2.1.5. Nhà nước thực hiện chính sách hòa bình hữu nghị với các nước trên
thế giới.
Bản chất của nhà nước ta không chỉ thể hiện trong các đường lối chính sách
đối nội mà còn được phản ánh trong các đường lối, chính sách đối ngoại.
Nhà nước ta thực hiện một cách nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế với phương châm “
Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định” Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu
hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội
18
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác
với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội” ( Điều 14 )
1.2.2. Chức năng của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cũng như các nhà nước khác, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có hai chức năng cơ bản: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
1.2.2.1. Chức năng đối nội
* Chức năng kinh tế
Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, chức năng kinh tế của nhà nước có sự
khác nhau nhất định nhưng bao giờ nó cũng là chức năng cơ bản, quan trọng nhất của
nhà nước ta. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,

chức năng kinh tế của nhà nước Việt Nam có những nội dung chủ yếu sau đây:
- Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể phát triển nhiều hình
thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt; tạo môi trường kinh doanh
cho kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân phát triển; phát triển đa dạng
kinh tế tư bản nhà nước; tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát
triển thuận lợi.
- Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
19
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
- Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế.
* Chức năng xã hội
Chức năng xã hội của nhà nước là toàn bộ các mặt hoạt động của nhà nước
nhằm tác động vào các lĩnh vực cụ thể của xã hội. Trong điều kiện đất nước đang
chuyển sang cơ chế thị trường, chức năng xã hội của nhà nước hướng vào những
mục tiêu cơ bản sau đây:
- Xác định giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhà nước coi trọng việc phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực bồi dưỡng nhân tài. Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học và
công nghệ quốc gia, xây dựng nền khoa học công nghệ tiên tiến, phát triển đồng bộ
các ngành khoa học.
- Giải quyết việc làm, chăm lo cải thiện điều kiện làm việc cho người lao
động. cải cách chế độ tiền lương của cán bộ công chức, bảo đảm cho doanh nghiệp
được tư chủ trong việc trả lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và

hiệu quả của doanh nghiệp.
- Thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo; thực hiện các chính sách xã
hội để bảo đảm an toàn cuộc sống cho mọi thành viên cộng đồng; thực hiện chính
sách ưu đãi xã hội đối với người có công, chính sách cứu trợ xã hội đối với người
gặp rủi ro, bất hạnh; thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
của nhân dân, chăm sóc và bảo vệ trẻ em.
* Chức năng bảo đảm sự ổn định an ninh- chính trị, bảo vệ các quyền tự do, dân
chủ của nhân dân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội.
Giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước, giữ
vững trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc những thành quả của cách mạng,
20
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
phục vụ sự nghiệp xây dựng Tổ quốc luôn luôn là một chức năng quan trọng của
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực hiện chức năng này, nhà nước sử dụng sức mạnh bạo lực để phòng
ngừa, ngăn chặn mọi âm mưu xâm hại đến nền an ninh quốc gia, đến sự ổn định
chính trị trong nước; kiên quyết trấn áp mọi hành động chống phá của các lực
lượng thù địch để bảo vệ sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Nhà nước quy định các quyền tự do, dân chủ của công dân; xác lập cơ chế
bảo vệ và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tạo ra các điều
kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội để công dân thực hiện đầy đủ và có hiệu
quả các quyền tự do, dân chủ của mình; kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh
mọi hành vi xâm phạm đến các quyền tự do, dân chủ của công dân.
Bảo vệ trật tự, an toàn xã hội là một trong những đòi hỏi bức thiết của sự
nghiệp đổi mới. Nhà nước đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật; cải cách tổ chức,
nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật; nâng cao chất lượng
hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật; tiến hành các biện pháp cần thiết để ngăn
ngừa tội phạm, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
1.2.2.2. Chức năng đối ngoại
* Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là chức năng cơ bản, thường xuyên của
nhà nước ta. Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, kết hợp
sức mạnh của toàn dân với sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy
sức mạnh tổng hợp của đất nước với sức mạnh của từng vùng, từng địa phương,
từng lực lượng nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, các lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò
đặc biệt quan trọng. Nhà nước chăm lo xây dựng quân đội nhân dân và công an
21
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng lực lượng
dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu; xây dựng công nghiệp quốc phòng,
không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc.
* Thiết lập, củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữu nước ta với
các nước trên thế giới.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa, đặc điểm đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Nhà nước ta luôn coi trọng
việc thiết lập, củng cố và phát triển các mối quan hệ hữu nghị hợp tác với tất cả các
nước có chế độ chính trị- xã hội khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại, hòa bình,
tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Nhà nước coi trọng việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc
lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường.
Là thành viên chính thức của nhiểu tổ chức quốc tế, Nhà nước ta luôn quan
tâm, tăng cường các nỗ lực chung trong cuộc đấu tranh vì một thế giới mới, vì sự
hợp tác bình đẳng và dân chủ, vì hòa bình và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
1.3. Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.3.1.Khái niệm, đặc điểm
Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống cơ quan

từ trung ương đến các địa phương và cơ cở, tổ chức và hoạt động theo những
nguyên tắc thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ chung của nhà nước.
Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc điểm
sau đây:
22
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
Một là: Việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên những
nguyên tắc chung thống nhất mà nguyên tắc cơ bản bao trùm là nguyên tắc tất cả
nguồn lực thuộc về nhân dân. Quyền lực thuộc về nhân dân có nghĩa là nhân dân
có toàn quyền quyết định mọi công việc của nhà nước và xã hội, giải quyết tất cả
mọi công việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia, đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, tư tưởng của đất nước và dân tộc. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua hệ thống cơ quan nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra, đứng đầu là
Quốc hội- cơ quan đại biểu cao nhất và Hội đồng nhân dân- cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương. Các cơ quan khác của nhà nước đều bắt nguồn từ cơ quan
quyền lực nhà nước, chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước,
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực nhà nước.
Hai là: Các cơ quan trong bộ máy nhà nước đều mang tính quyền lực nhà
nước, đều có quyền nhân danh nhà nước để tiến hành các hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ của mình. Tính quyền lực nhà nước thể hiện ở chỗ các cơ quan nhà
nước đều có một phạm vi thẩm quyền được pháp luật quy định. Thẩm quyền của
các cơ quan trong bộ máy nhà nước là toàn bộ những quyền hạn, nhiệm vụ mà nhà
nước quy định cho cơ quan đó tùy thuộc vào vị trí của nó trong bộ máy nhà nước.
Ba là: Đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước là những người hết
lòng, hết sức phục vụ nhân dân, là công bộc của nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám
sát của nhân dân. Họ là những người có phẩm chất, đạo đức, có đủ trình độ, năng
lực để thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao, có tinh thần trách nhiệm trong công
tác.
1.3.2. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những tư tưởng
chỉ đạo làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước. Những nguyên tắc đó được quy định trong hiến pháp năm 1992, đó là:
23
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
1.3.2.1. Nguyên tắc “ Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp” ( Điều 2, đoạn 2)
Một đặc điểm cơ bản của bộ máy nhà nước Việt Nam là được tổ chức theo
nguyên tắc tập quyền, khác với nguyên tắc phân quyền trong các nhà nước tư sản.
Quyền lực của Nhà nước Việt Nam cững bao gồm quyền lập pháp, quyền hành
pháp, quyền tư pháp. Ba lĩnh vực quyền lực đó là cơ quan đại biểu cao nhất, do
nhân dân trực tiếp bầu ra. “ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
( Điều 83 Hiến pháp 1992)
Tuy tổ chức theo nguyên tắc tập quyền nhưng trong bộ máy Nhà nước ta có
sự phân công rõ ràng và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền lực nhà nước. Quốc hội là cơ quan duy nhất giữ quyền lập
pháp đồng thời cũng có thẩm quyền trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp. Chính
phủ giữ quyền hành pháp nhưng cũng có vai trò quan trọng trong lĩnh vực lập pháp
và tư pháp. Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân giữ quyền tư pháp đồng
thời cũng có thẩm quyền nhất định trong lĩnh vực lập pháp và hành pháp. Hoạt
động của các cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp đều phải báo cáo trước quốc
pháp đều phải báo cáo trước Quốc hội và phải chịu sự giám sát của Quốc hội.
1.3.2.2. Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức hoạt động
của Nhà nước ta. Sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho bộ máy nhà nước hoạt động
theo một đường lối chính trị đúng đắn, thể hiện bản chất cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững bản chất tốt đẹp của

một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính trên tinh thần đó,
Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “ Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong
của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công
24
Pháp luật đại cương Khoa Công nghệ thông tin- ĐHTN
nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” ( Điều 4)
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở chỗ Đảng đặt ra đường
lối, chính sách quan trọng, có quan hệ nhiều mặt, có ảnh hưởng chính trị rộng lớn
đối với việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà nước thể chế hóa các
đường lối, chính sách của Đảng vào việc tổ chức và hoạt động của mình. Đảng
kiểm tra việc chấp hành đường lối chính sách, coi trọng việc bố trí cán bộ cho các
cơ quan nhà nước, chỉ đạo sự phối hợp hoạt động giữa bộ máy nhà nước với các tổ
chức khác trong hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng mọi đảng viên
và tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật
của Nhà nước.
1.3.2.3. Nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý của
nhà nước.
Thu hút đông đảo nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước là
nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nguyên tắc
này không những có ý nghĩa trong việc tạo điều kiện phát huy trí tuệ của nhân dân
vào công việc quản lý nhà nước mà còn là phương tiện hữu hiệu để ngăn chặn tệ
quan liêu, cửa quyền, tham nhũng của cá nhân và tổ chức trong bộ máy nhà nước.
Hình thức tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước rất đa dạng như: bầu
những người đại diện của mình vào các cơ quan nhà nước; trực tiếp làm việc trong
các cơ quan nhà nước; thảo luận, góp ý kiến vào các dự án pháp luật; giám sát hoạt
động của các cán bộ, công chức nhà nước và cơ quan nhà nước… Nhân dân còn
tham gia quản lý nhà nước thông qua các tổ chức chính trị, xã hội của mình như:
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của mặt trận, các tổ chức công đoàn…

Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý của
nhà nước được quy định trong điều 53 của Hiến pháp năm 1992: “ Công dân có
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×