Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích thẩm quyền của Tòa án Việt Nam trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định của Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.53 KB, 16 trang )

Mục lục

1


Đề tài: Phân tích thẩm quyền của Tòa án Việt Nam trong việc giải quyết các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định của Điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên và theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Mở đầu
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập cùng phát triển, các thể nhân, pháp
A.

nhân tham gia vào lĩnh vực khác nhau của đời sống pháp luật quốc tế với những
mục đích khác nhau phù hợp với nhu cầu cũng như lợi ích của chủ thể đó tạo
nên các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Với các quan hệ dân sự giữa những
chủ thể khác nhau trong quan hệ quốc tế thì việc giải quyết các vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngoài là nhu cầu thiết yếu đặt ra đối với các cơ quan tài phán của
các quốc gia. Nhưng xác định cơ quan tài phán của quốc gia nào mới là cơ quan
có thẩm quyền giải quyết thì là một vấn đề rất khó, nhất là khi giữa các quốc gia
không kí kết hiệp định tương trợ tư pháp nào về việc xác định thẩm quyền. Để
tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tài: “Phân tích thẩm quyền của
Tòa án Việt Nam trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài
theo quy định của Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và theo quy định
của pháp luật Việt Nam”. Trong quá trình tìm hiểu, phân tích còn nhiều thiếu
sót, mong thầy cô có những ý kiến đóng góp bổ sung để bài viết được hoàn thiện
hơn.

2


Nội dung


Khái quát về thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước
B.

I.
1.

ngoài
Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 464 BLTTDS 2015, vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngoài là vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp sau: a) Có ít
nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài; b) Các
bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt nam nhưng việc xác lập,
thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên
tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối tượng của quan
hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Cũng giống như vụ việc dân sự trong pháp luật Việt Nam, vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngoài bao gồm các yêu cầu về dân sự có yếu tố nước ngoài ( là
các yêu cầu của chủ thể về các quyền và thực hiện các nghĩa vụ dân sự có yếu tố
nước ngoài như, yêu cầu tuyên bố người nước ngoài mất năng lực hành vi dân
sự,…) và các tranh chấp về dân sự có yếu tố nước ngoài ( các tranh chấp, xung
đột về quyền và lợi ích giữa các chủ thể như tranh chấp hợp đồng, chia di sản
thừa kế,…). Để xác định một vụ việc dân sự có mang “yếu tố nước ngoài” hay
không thì chúng ta cần xác định dựa trên các dấu hiệu. Thứ nhất, dấu hiệu về
chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Chỉ cần có ít nhất một bên tham gia quan hệ
dân sự đó là người nước ngoài thì cũng được coi là có yếu tố nước ngoài. Người
nước ngoài ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả cá nhân, pháp nhân
nước ngoài, tổ chức ngước ngoài,…hay thậm chí cả các chi nhánh, trụ sở của
các bên tham gia ở các quốc gia khác nhau khi các bên tham gia có cùng
quốctịch thì cũng được coi là yếu tố nước ngoài. Thứ hai, dấu hiệu về đối tượng
của quan hệ dân sự. Một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài khi mà quan hệ đó

có đối tượng tồn tại ở nước ngoài, Đối tượng của quan hệ có thể là tài sản hoặc
lợi ích nhất định. Thứ ba, dấu hiệu về căn cứ làm phát sinh, thay đổi, thực hiện
hay chấm dứt quan hệ xảy ra ở nước ngoài.
3


Ví dụ, hai công ty A và B đều có trụ sở tại Việt Nam nhưng một công ty có
chi nhánh đặt tại Cộng hòa Pháp, một công ty có chi nhánh đặt tại Trung Quốc.
Như vậy, khi xảy ra tranh chấp về hợp đồng giữa hai chi nhánh của hai công ty
này thì đây là tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài.
2.

Xung đột thẩm quyền
Trong xu thế hội nhập quốc tế, sự phát triển của các giao dịch dân sự quốc
tế cùng lúc đó cũng kéo theo sự phát sinh của nhiều yêu cầu, tranh chấp giữa các
bên chủ thể tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Cũng chính từ đó,
nhu cầu về việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài được đặt ra
với hệ

thống các cơ quan tư pháp của các quốc gia nơi các chủ thể tham gia

quan hệ dân sự mang quốc tịch nhằm đảm bảo về quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể khi tham gia quan hệ dân sự quốc tế. Vấn đề đặt ra là cơ quan tư pháp của
quốc gia nào sẽ là cơ quan giải quyết các tranh chấp, yêu cầu đó khi mà cả hệ
thống cơ quan tư pháp của các quốc gia đều có thẩm quyền giải quyết các vụ
việc dân sự nói trên, điều này đã dẫn tới xung đột thẩm quyền xét xử. Xung đột
về thẩm quyền (hay còn gọi là xung đột quyền tài phán) là trường hợp trong một
vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, cơ quan tài phán của hai hay nhiều nước
3.


đều có thể có thẩm quyền giải quyết1.
Thẩm quyền xét xử quốc tế của tòa án quốc gia
Dưới góc độ giải quyết tranh chấp mang tính chất quốc tế thì có hai thiết
chế tài phán đều có thẩm quyền giải quyết. Thiết chế đầu tiên đó là hệ thống các
tòa án quốc tế như Tòa án công lí quốc tế của Liên hợp quốc, cơ quan giải quyết
tranh chấp của WTO,…Tuy nhiên, đây là các thiết chế tài phán chỉ có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực công pháp quốc tế với quốc gia là
chủ thể chủ yếu, không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực tư
pháp quốc tế giữa các thể nhân, pháp nhân ở các quốc gia khác nhau. Do đó, cần
phải hiểu thẩm quyền xét xử quốc tế dựa trên tính chất quốc tế của vụ việc – vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài thuộc một trong các trường hợp đã nêu trên và
1 Trích

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp
Hà Nội, 2017, tr. 167
4


cơ quan có thẩm quyền xét xử các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ là hệ
thống tòa án nằm trong cơ quan tư pháp của mỗi quốc gia.
Khi có xung đột về thẩm quyền xét xử xảy ra trong vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngoài thì vấn đề pháp lý đầu tiên, quan trọng nhất cần phải đặt ra là phải
giải quyết xung đột về thẩm quyền xét xử, đó là việc xác định cơ quan tư pháp
nào của một quốc gia nhất định sẽ có thẩm quyền giải quyết. Xác định thẩm
quyền xét xử quốc tế là xác định thẩm quyền của một tòa án một nước khi giải
quyết một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Do việc xác định thẩm quyền
giải quyết một vụ việc dân sự là hoạt động tố tụng độc lập và thuộc chủ quyền
của từng quốc gia nên khi đặt ra vấn đề giải quyết về việc xác định thẩm quyền,
mỗi quốc gia đã và chỉ xây dựng cho mình các quy phạm pháp luật xác định
thẩm quyền cho hệ thống tòa án của nước mình mà không có thẩm quyền tuyên

bố về việc xác định thẩm quyền của tòa án quốc gia khác trong cùng một vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài xảy ra.
Trên thực tế, khi xảy ra tranh chấp hoặc có yêu cầu về vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài, các bên chủ thể trong quan hệ này đã tự mình nộp đơn khiếu
kiện hoặc đơn yêu cầu tới cơ quan tòa án có thẩm quyền để giải quyết nhằm đảm
bảo kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Xuất phát từ việc bình đẳng về
quyền và lợi ích hợp pháp, các bên cùng có vị trí như nhau trong quan hệ dân sự,
việc xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết trước hết dựa vào ý chí và lợi ích
của các bên đương sự khi lựa chọn cơ quan tài phán mà các bên cho rằng, thông
qua việc nộp đơn khởi kiện ra cơ quan tài phán sẽ bảo vệ tốt nhất quyền lợi của
họ. Khi các bên nộp đơn khởi kiện ra tòa án, tòa án thụ lí đơn khởi kiện sẽ căn
cứ vào các dấu hiệu xác định thẩm quyền trong các quy phạm pháp luật về thẩm
quyền được quy định tại điều ước quốc tế mà nước có tòa án đó ký kết tham gia
là thành viên và các quy định tại pháp luật quốc gia nơi có tòa án. Do nguyên tắc
Luật tòa án là nguyên tắc quan trọng nhất trong tố tụng dân sự quốc tế nên việc
tòa án được lựa chọn của một quốc gia sẽ chỉ áp dụng pháp luật của nước nơi có
tòa án mà sẽ không áp dụng pháp luật nước khác. Điều này sẽ làm cho việc tòa
án có thể áp dụng pháp luật một cách triệt để, tránh những sai phạm, vướng mắc
5


khi phải áp dụng pháp luật của một nước mà mình không biết. Cụ thể, để xác
định thẩm quyền của mình, khi đương sự nộp đơn khởi kiện ra tòa án thì tòa án
phải căn cứ vào hai căn cứ pháp lý sau:
Thứ nhất, tòa án có thể căn cứ vào các điều ước quốc tế mà nước nơi có tòa
án đã tham gia, ký kết trở thành thành viên như các hiệp định tương trợ tư pháp
song phương, hiệp định tương trợ tư pháp đa phương về các vấn đề dân sự,
thương mại, hôn nhân và gia đình, …
Thứ hai, trong trường hợp tại các điều ước quốc tế mà nước nơi có tòa án
thụ lý vụ việc dân sự không có quy định về việc xác định thẩm quyền hoặc

không có điều ước quốc tế nào xác định thẩm quyền của tòa án thì khi đó, tòa án
phải căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật trong nước để xác định thẩm
quyền của mình.
Với mục tiêu mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án, tôn trọng sự tự do ý
chí của các bên đương sự trong việc lựa chọn tòa án giải quyết, tạo thuận lợi cho
việc giải quyết tranh chấp thì một trong các điều ước quốc tế đa phương đã có
những quy định cụ thể về việc lựa chọn tòa án có thẩm quyền giải quyết mà theo
đó các quốc gia thành viên tham gia sẽ áp dụng công ước này để xác định về
thẩm quyền của mình, đó là Công ước Lahaye 1965 đã được xây dựng với nội
dung về thỏa thuận lựa chọn tòa án đối với các vụ việc về dân sự và thương mại
tại Hội nghị Lahaye. Cụ thể, Điều 3 Công ước quy định: “Thỏa thuận lựa chọn
tòa án là một thỏa thuận do hai hay nhiều bên kí kết và chỉ định các tòa án của
một nước kí kết hoặc một hay một số tòa án cụ thể của một nước kí kết và loại
trừ tất cả các tòa án khác, để giải quyết các tranh chấp đã phát sinh hoặc sẽ phát
sinh liên quan đến một quan hệ pháp luật cụ thể”. Điều 5 Công ước quy định về
thẩm quyền của toàn án được lựa chọn: “Tòa án hoặc các tòa án của một nước kí
kết được chỉ định trong một thỏa thuận lựa chọn tòa án sẽ có thẩm quyền quyết
định đối với tranh chấp mà thỏa thuận này áp dụng, trừ khi thỏa thuận vô hiệu
hoặc không có hiệu lực theo pháp luật nước đó”.
Thẩm quyền của tòa án Việt Nam trong việc giải quyết các vụ việc dân sự

II.
1.

có yếu tố nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt nam theo quy định của điều ước quốc tế
6


Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam đã và đang nỗ lực, cố gắng

trong quá trình đàm phán, ký kết, tham gia các điều ước quốc tế trong nhiều lĩnh
vực khác nhau, trong đó có các điều ước quốc tế quy định về thẩm quyền xét xử
của tòa án. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, do còn gặp nhiều vướng mắc, bất đồng
mà việc kí kết, tham gia các điều ước quốc tế của Việt Nam còn rất hạn chế, nhất
là số lượng các điều ước quốc tế trong lĩnh vực tố tụng. Các quy định về thẩm
quyền của tòa án thì chủ yếu nằm trong các hiệp định tương trợ tư pháp song
phương về các vấn đề dân sự, hôn nhân và gia đình giữa Việt Nam và các nước.
Trong số 16 hiệp định đang có hiệu lực mà Việt Nam đã kí kết thì cũng chỉ một
số hiệp định có quy định về nguyên tắc xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhằm giải quyết vấn đề xung đột về thẩm quyền xét xử. Trong các hiệp định đã
xây dựng về nguyên tắc xác định thẩm quyền giữa tòa án hai nước, nếu có quy
định về việc cả hai tòa án đều có thẩm quyền giải quyết đối với một vụ việc dân
sự thì tòa án nào thị lý đơn khởi kiện trước sẽ có thẩm quyền giải quyết, tòa án
nhận đơn sau sẽ phải trả lại đơn khởi kiện hoặc ra quyết định đình chỉ giải quyết
vụ việc. Còn đối với trường hợp giữa Việt Nam và nước liên quan không có bất
kì hiệp định tương trợ tư pháp nào liên quan đến việc xác định thẩm quyền của
tòa án, pháp luật của hai nước này cũng không có một quy định cụ thể nào về
việc xác định thẩm quyền của tòa án thì xung đột thẩm quyền xét xử xảy ra là
điều tất yếu, và đây cũng là vướng mắc gặp phải trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài của Tòa án Việt Nam khi cả hai tòa án đều có
thẩm quyền giải quyết.
Theo như các điều ước quốc tế, cụ thể là các hiệp định tương trợ tư pháp
mà Việt Nam kí kết, là thành viên thì dấu hiệu xác định thẩm quyền xét xử của
tòa án được phân chia thành các nhóm tranh chấp cơ bản sau:
Thứ nhất, dấu hiệu về các vụ việc liên quan đến quan hệ nhân thân và quan
hệ tài sản của vợ chồng. Trong đó, quan hệ nhân thân là quan hệ pháp lý mang
tính chất gắn bó với chủ thể từ khi người đó sinh ra đến khi người đó mất đi và
cả quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản đều là các quan hệ pháp lý có tính chất
ổn định lâu dài. Đây là vụ việc phát sinh trong thời kì hôn nhân nên các hiệp
7



định có quy định về thẩm quyền của tòa án cũng thường xác định tòa án có thẩm
quyền giải quyết là tòa án nước nơi có sự hiện diện của quan hệ nhân thân, tài
sản của vợ chồng. Ví dụ, tại hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào,
tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc liên quan đến quan hệ nhân thân và
quan hệ tài sản của vợ chồng là tòa án nước vợ chồng mang quốc tịch chung.
Nếu cả hai vợ chồng đều không cùng chung quốc tịch thì sẽ xác định là tòa án
nơi thường trú chung của cả vợ và chồng hoặc sẽ là tòa án nơi thường trú của
một trong các bên nếu mỗi bên thường trú tại một nước khác nhau. Khi đó, nếu
thường trú tại nước khác nhau thì bên vợ (chồng) nộp đơn trước thì tòa án nơi
vợ (chồng) nộp đơn trước sẽ thụ lý vụ án và có thẩm quyền giải quyết còn tòa án
nơi nhận đơn sau sẽ phải trả lại đơn hoặc đình chỉ giải quyết vụ án. Cũng cần
lưu ý ở đây, việc xác định nơi thường trú chung của vợ chồng là việc sống chung
trong phạm vi một quốc gia nhất định chứ không phải nơi vợ chồng ở chung như
cùng một địa chỉ, cùng một nhà. Do đó, nếu hai vợ chồng một người có quốc
tịch Nga, một người có quốc tịch Việt Nam cùng sống chung tại Nga nhưng lại ở
hai thành phồ khác nhau thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết vẫn là tòa án Nga,
là nơi hai vợ chồng thường trú chung nên Tòa án Việt Nam sẽ không có thẩm
quyền giải quyết.
Thứ hai, dấu hiệu về vụ việc ly hôn và hủy hôn nhân trái pháp luật. Đây
cũng là dấu hiệu liên quan tới quan hệ nhân thân của cả vợ chồng nên cũng sẽ
được xác định như dấu hiệu trên, tòa án có thẩm quyền giải quyết ly hôn và hủy
hôn nhân trái pháp luật là tòa án nước vợ chồng có chung quốc tịch hoặc tòa án
nơi thường trú chung của cả vợ chồng nếu thuộc trường hợp vợ chồng không
cùng quốc tịch hoặc tòa án nơi thường trú của một trong các bên nếu mỗi bên
thường trú ở một nước khác nhau.
Thứ ba, vụ việc về cấp dưỡng nuôi con. Theo các hiệp định tương trợ tư
pháp song phương mà Việt Nam và Tiệp Khắc, Lào, Nga, Trung Quốc đã kí kết
đều xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết là tòa án nơi thường trú của

nguyên đơn. Tuy nhiên, nếu giữa Việt Nam và các nước này không có hiệp định
tương trợ tư pháp về vấn đề công nhận và cho thi hành phán quyết tòa án thì sau
8


khi giải quyết xong vụ việc về cấp dưỡng nuôi con sẽ khó có thể thi hành được
phán quyết.
Thứ tư, vụ việc về thừa kế. Đây là vụ việc mang tính chất nhân thân, tính
chất tài sản và liên quan đến hiệu lực của di chúc nên hầu hết các hiệp định đều
dựa trên dấu hiệu quốc tịch hoặc nơi thường trú của người để lại di sản thừa kế
để xác định thẩm quyền trong trường hợp thừa kế theo pháp luật. Còn đối với di
sản thừa kế là bất động sản, đặc biệt là đất đai, theo pháp luật Việt Nam là thuộc
sở hữu toàn dân do nhà nước là đại diện chủ sở hữu, theo nguyên tắc Luật nơi có
tài sản nên thẩm quyền giải quyết sẽ thuộc về tòa án Việt Nam
Thứ năm, quan hệ nghĩa vụ hợp đồng. Các vụ việc về nghĩa vụ hợp đồng là
vụ việc liên quan tới việc thực hiện những hành vi pháp lý nên việc xác định
thẩm quyền của Tòa án dựa trên dấu hiệu lãnh thổ và nơi thực hiện hành vi. Cụ
thể, theo các hiệp định mà Việt Nam kí kết, tham gia như hiệp định tương trợ tư
pháp giữa Việt Nam và Trung quốc thì thuộc thẩm quyền của tòa án nơi bị đơn
thường trú hoặc có trụ sở, hoặc cũng có thể là nơi nguyên đơn thường trú hoặc
nơi nguyên đơn có trụ sở nếu tài sản của bị đơn hoặc đối tượng tranh chấp nằm
trên lãnh thổ nước nơi nguyên đơn thường trú hoặc có trụ sở.
Thứ sáu, vụ việc về trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tại hiệp định tương
trợ tư pháp giữa Việt Nam với Lào, Ba Lan, Nga, Trung quốc có quy định về
việc xác định thẩm quyền của tòa án là tòa án bên kí kết nơi xảy ra hành vi gây
thiệt hại và nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại, hoặc tòa án
nơi bị đơn thường trú, có trụ sở , có tài sản của bị đơn hoặc cũng có thể là tòa án
nơi nguyên đơn thường trú hoặc có trụ sở có thẩm quyền giải quyết nếu trên
lãnh thổ nước có nguyên đơn có tài sản của bị đơn. Có thể nhận thấy các hiệp
định này cũng rất linh hoạt khi tạo điều kiện cho các bên đương sự có nhiều lựa

chọn xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết nhằm tạo điều kiện tối đa cho các
bên, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Thứ bảy, tranh chấp liên quan đến bất động sản. Bất động sản, đặc biệt là
đất đai thuộc. Đây là loại tài sản đặc biệt chủ quyền của Việt Nam. Việt Nam
không cho phép chiếm hữu tư nhân về đất đại nên theo hiệp định tương trợ tư
pháp mà Việt Nam đã kí kết với các quốc gia, khi xảy ra tranh chấp liên quan
9


đến bất động sản, đặc biệt là đất đai thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết là tòa
án nơi có bất động sản. Cụ thể, khoản 10 Điều 18 Hiệp định tương trợ tư pháp
Việt Nam – Trung quốc: Tòa án của một trong hai bên ký kết ra quyết định sẽ
được coi là có thẩm quyền đối với vụ việc, nếu… 10)bất động sản là đối tượng
của vụ tranh chấp nằm trên lãnh thổ của Bên ký kết đó.
Thứ tám, tranh chấp về lao động. Do tính đặc thù của các vụ việc về lao
động cũng là loại vụ việc về việc thực hiện hành vi pháp lý nên theo hiệp định
đã ký kết, việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về lao động thuộc tòa
án nơi thực hiện hành vi như nơi công việc đang , đã hoặc cần được thực hiện
hoặc cũng có thể là tòa án nơi nguyên đơn thường trú hoặc có trụ sở nếu trên
lãnh thổ nước này có đối tượng tranh chấp hoặc tài sản của bị đơn. Ví dụ, khi
xảy ra tranh chấp về lạo động giữa một bên là công dân nước Việt Nam và một
bên là Công ty nước Nga có chi nhánh tại Việt Nam thì tòa án Việt Nam cũng sẽ
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động này do bị đơn có tài sản nằm trên
2.

lãnh thổ nước có nguyên đơn.
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam
Tòa án Việt Nam sẽ thụ lý giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài theo pháp luật tố tụng Việt Nam trong trường hợp không có điều ước quốc
tế về xác định thẩm quyền xét xử. Theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự

2015, thẩm quyền của tòa án được chia thành thẩm quyền chung được quy định
tại Điều 469 và thẩm quyền riêng biệt quy định tại Điều 470. Trong đó:
Thẩm quyền chung là quy định dựa trên các dấu hiệu chung trong pháp luật
tố tụng Việt Nam để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án. Tòa án Việt Nam
xác định thẩm quyền của mình dựa trên các dấu hiệu bao gồm: theo vụ việc,
theo cấp, theo địa giới lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu
cầu. Điều 469 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã quy định các dấu hiệu xác định
thẩm quyền của tòa án Việt Nam đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài, có thể được chia thành nhóm như sau:
Nhóm các vụ việc, có d) vụ việc li hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công
dân Việt Nam hoặc các đương sự là người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống
lâu dài tại Việt Nam; đ) vụ việc về quan hệ dân sự mà việc xác lập, thay đổi,
10


chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở Việt Nam, đối tượng của quan hệ đó là tài sản trên
lãnh thổ Việt Nam hoặc công việc được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam; e) vụ
việc về quan hệ dân sự mà việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở
ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cơ quan,
tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc có trụ sở, nơi cư trú tại Việt Nam.
Nhóm bị đơn, có a) bị đơn là cá nhân cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại
Việt Nam; b) bị đơn là cơ quan, tổ chức có trụ sở tại Việt Nam hoặc bị đơn là cơ
quan, tổ chức có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam đối với các vụ việc
liên quan đến hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan, tổ chức
tại Việt Nam; c) bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam.
Trong những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, chỉ cần có một trong các
dấu hiệu nêu trên thì vụ việc đó sẽ thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án Việt
Nam. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ mà theo đó tòa án Việt Nam không
có thẩm quyền giải quyết, buộc phải trả lại đơn khởi kiện hoặc tiến hành đình
chỉ giải quyết vụ án. Đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền chung của tòa án

Việt Nam nhưng các bên đương sự đã lựa chọn một tòa án khác hoặc một trung
tâm trọng tài khác để giải quyết thì khi đó, tòa án hoặc trung tâm trọng tài này
mới là cơ quan có thẩm quyền giải quyết chứ không phải là tòa án Việt Nam, trừ
trường hợp sau đó các bên lại thay đổi thỏa thuận bằng việc lựa chọn tòa án Việt
Nam. Ngoài ra, trường hợp vụ việc không thuộc thẩm quyền riêng của tòa án
Việt Nam mà thuộc thẩm quyền riêng của tòa án nước ngoài, vụ việc đã được
giải quyết bằng bản án, quyết định, phán quyết của trọng tài nước ngoài thì tòa
án Việt Nam cũng không có thẩm quyền giải quyết. Một trường hợp nữa, đó là
trường hợp bị đơn được hưởng quyền miễn trừ tư pháp. Đây là một quyền ưu đãi
miễn trừ dành cho người nước ngoài tại Việt Nam mà theo đó, người được
hưởng quyền này sẽ không bị xét xử theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra, sau khi đã xác định được vụ việc thuộc thẩm quyền chung của tòa án,
việc xác định cụ thể hơn nữa tòa án nào cho vụ việc thực tế thì cần tiếp tục căn
cứ vào các quy định về xác định thẩm quyền khác của bộ luật tố tụng dân sụ.
Thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam, khác với thẩm quyền chung là
các dấu hiệu chung được pháp luật trong nước quy định, do tính chất đặc thù của
11


một số loại vụ việc mà pháp luật tố tụng Việt Nam quy định cụ thể những vụ
việc này chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án Việt Nam mà không thuộc thẩm
quyền xét xử của tòa án nước ngoài. Đây là thẩm quyền riêng biệt, mang tính
chất tuyệt đối buộc tòa án Việt Nam phải xét xử, tức là tòa án Việt Nam có thẩm
quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài không phụ thuộc vào
tòa án nước ngoài đã thụ lý, giải quyết; hay nói cách khác, đối với những vụ việc
dân sự này, tòa án Việt Nam không dành quyền giải quyết cho tòa án nước
ngoài.2 Điều 470 bộ luật tố tụng dân sự đã quy định cụ thể về những vụ án dân
sự, việc dân sự thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam. Tòa án Việt
Nam là cơ quan tài phán duy nhất có thẩm quyền xét xử vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài quy định tại Điều 470, là những vụ việc có mối quan hệ gắn bó với

hệ thống cơ quan tài phán đó, nhằm bảo vệ lợi ích của công dân, pháp nhân, lợi
ích của quốc gia, đảm bảo trật tự công cũng như trật tự pháp lý của quốc gia
trong đời sống pháp luật quốc tế. Cũng chính vì tính đặc thù của những vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài này mà tòa án nước ngoài sẽ không có thẩm quyền
để giải quyết. Nếu tòa án nước ngoài vẫn tiến hành giải quyết, đưa ra các phán
quyết về việc giải quyết vụ việc thì phán quyết này sẽ không được công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam. Quy định này nhằm đảm bảo sự tôn trọng thẩm quyền
riêng biệt của tòa án Việt Nam trước các nước hữu quan. Không chỉ quy định tại
pháp luật tố tụng trong nước, thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam còn
được quy định tại các hiệp định tương trợ tư pháp. Cụ thể, tại Điều 18 hiệp định
tương trợ tư pháp Việt Nam – Trung quốc: “Các quy định về thẩm quyền của tòa
án không được xâm hại đến thẩm quyền xét xử riêng biệt được pháp luật của
mỗi bên kí kết quy định. Hai bên kí kết sẽ thông báo cho nhau bằng văn bản qa
đường ngoại giao các quy định liên quan đến thẩm quyền xét xử riêng biệt được
pháp luât của nước mình quy định”.
III.

Thực tiễn

2

/>12


Để làm rõ hơn về việc xác định thẩm quyền của Tòa án Việt Nam trong
việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, sau đây là một ví dụ cụ
thể về tranh chấp trong việc bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Ví dụ như sau:
Công ty A có trụ sở tại Việt Nam là công ty thương mại chuyên kinh doanh
xuất nhập khẩu các thiết bị điện tử, đã đăng kí kinh doanh và hoạt động kinh
doanh ổn định từ năm 2014. Ngày 2/1/2017, công ty A ký kết một hợp đồng mua

bán hàng hóa quốc tế với công ty B, là doanh nghiệp chuyên sản xuất các thiết
bị điện tử, có trụ sở tại Pháp. Trong hợp đồng mà hai bên đã thỏa thuận, công ty
B sẽ bán cho công ty A một lô kiện thiết bị điện tử có tổng trị giá tài sản là 5
triệu đô, lô hàng này sẽ được giao đầy đủ cho công ty A chậm nhất vào ngày
10/1/2017 tại chính trụ sở của công ty A. Đồng thời, hợp đồng cũng quy định rõ
nếu trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì Tòa án Việt Nam sẽ là cơ quan tài
phán có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, đến ngày như đã giao kết giao hàng,
công ty B đã vi phạm nghĩa vụ giao kết khi không giao đủ số lượng hàng hóa
như đã thỏa thuận, dẫn đến hậu quả thiệt hại cho công ty A. Công ty A đã yêu
cầu công ty B bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nhưng công ty
B không đồng ý giải quyết. Do đó, công ty A đã khởi kiện ra tòa án yêu cầu công
ty B bồi thường thiệt hại do việc vi phạm nghĩa vụ.
Xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết?
Giải quyết tình huống
Việc xác định thẩm quyền của tòa án phải dựa trên hai cơ sở pháp lý, đó là
điều ước quốc tế và pháp luật tố tụng quốc gia. Trong trường hợp này, giữa Việt
Nam và pháp chưa kí kết bất kì hiệp định tương trợ tư pháp nào mà trong đó có
quy định về việc xác định thẩm quyền của tòa án. Do đó, việc xác định thẩm
quyền của tòa án phải dựa vào pháp luật Việt Nam.
Có thể thấy ở tình huống nêu trên, công ty A có trụ sở tại Việt Nam kiện
công ty B có trụ sở tại Pháp yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do việc không thực
hiện đúng nghĩa vụ được giao. Do đó, đây là vụ việc dân sự có yếu tố nước
13


ngoài (thuộc điểm a khoản 2 điều 464, có ít nhất một trong các bên tham gia là
cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài), cụ thể hơn đây là tranh chấp trong hợp
đồng kinh doanh, thương mại. Nguyên đơn dân sự trong vụ án này sẽ là công ty
A có trụ sở tại Việt Nam, bị đơn dân sự sẽ là công ty B có trụ sở tại Pháp.
Ngoài ra, theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 470 về thẩm quyền riêng

biệt: c) Vụ án dân sự khác mà các bên được lựa chọn Tòa án Việt Nam để giải
quyết theo pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên và các bên đồng ý lựa chọn Tòa án Việt Nam. Do
trong hợp đồng hai bên thỏa thuận nếu trường hợp xảy ra tranh chấp thì tòa án
Việt Nam sẽ có thẩm quyền giải quyết, hơn nữa, đây là tranh chấp về yêu cầu
bồi thường thiệt hại phát sinh từ quan hệ hợp đồng thương mại nên phía nguyên
đơn có thể lựa chọn tòa án để giải quyết, thuộc Điều 40 bộ luật tố tụng dân sự về
lựa chọn tòa án theo yêu cầu của nguyên đơn, người yêu cầu. Từ những phân
tích nêu trên có thể thấy, vụ án sẽ thuộc thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt
Nam và chỉ duy nhất tòa án Việt Nam mới có thẩm quyền giải quyết. Nếu vụ án
dân sự nêu trên được tòa án bên Pháp ra phán quyết thì phán quyết này cũng sẽ
không được phía Việt Nam công nhận và cho thi hành.
Về việc lựa chọn pháp luật để giải quyết, nguyên tắc Luật tòa án là nguyên
tắc quan trọng trong tố tụng tư pháp quốc tế, nội dung nguyên tắc thể hiện nếu
tòa án của một quốc gia có thẩm quyền giải quyết thì tòa án sẽ áp dụng pháp luật
của nước nơi có tòa án. Do đó, pháp luật được sử dụng ở đây là pháp luật Việt
Nam. Căn cứ vào khoản 1 Điều 30: ‘tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh
doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều
có mục đích lợi nhuận” và khoản 1 Điều 37 về thẩm quyền của tòa án nhân dân
cấp tỉnh thì có thể thấy, tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài nêu trên là tòa án nhân dân cấp tỉnh tại Việt Nam.

14


Kết luận
Từ những phân tích đã nêu ở trên, chúng ta có thể thấy, việc xác định thẩm
C.

quyền của tòa án Việt Nam trong vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài có những

đặc thù riêng, phức tạp hơn so với việc xác định thẩm quyền trong việc giải
quyết các vụ việc dân sự trong nước. Việc xác định thẩm quyền phải trải qua hai
giai đoạn, đó là xác định thẩm quyền dựa trên điều ước quốc tế và dựa trên pháp
luật quốc gia. Việc xác định đúng thẩm quyền xét xử sẽ tạo điều kiện cho việc
giải quyết, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, lợi ích
quốc gia.

15


D.

Tài liệu tham khảo

1.
2.
3.

Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Bộ luật dân sự 2015.
Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa CHXHCN

4.

Việt Nam và CHND Trung Hoa
Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý Về các vấn đề dân sự, gia đình và hình
sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hòa xã

5.


hội chủ nghĩa Xôviết.
Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự giữa nước CHXHCN Việt

6.
7.

Nam và nước CHDCND Lào.
/>Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Tư pháp Hà
Nội, 2017

16



×