BÀI LÀM
I. Một số vấn đề lý luận chung
Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là những quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy mà nó là những vụ việc liên quan đến hai hay
nhiều nước nên tòa án của mỗi nước đều có thể có thẩm quyền giải quyết. Thẩm quyền là
tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho 1 cơ quan, tổ chức hoặc một công chức
được xem xét giải quyết những công việc cụ thể trong lĩnh vực và phạm vi nhất định
nhằm thực hiện chức năng của bộ mấy nhà nước. Thẩm quyền của Tòa án là toàn bộ
những quyền do pháp luật quy định, theo đó Tồa án được tiến hành xem xét, giải quyết
những vụ việc cụ thể theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân
sự có yếu tố nước ngoài của Tòa án là thẩm quyền của Tòa án được pháp luật quy định
cho quyền giải quyết vụ việc pháp sinh từ các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Thẩm quyền xét xử vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài của tòa án một nước
phụ thuộc vào quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên về vấn đề
này và pháp luật tố tụng dân sự của quốc gia đó. Nhìn chung, thẩm quyền xét xử vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài của tòa án các nước có hai dạng: thẩm quyền xét xử
chung và thẩm quyền xét xử riêng biệt.
Thẩm quyền xét xử chung là thẩm quyền đối với những vụ việc mà tòa án nước
đó có quyền xét xử nhưng tòa án nước khác cũng có thể xét xử (điều này tùy thuộc
vào tư pháp quốc tế của các nước khác có quy định là tòa án nước họ có thẩm quyền
với những vụ việc như vậy hay không). Khi mà tòa án nhiều nước đều có thẩm quyền
xét xử với một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, thì quyền xét xử thuộc về tòa án
nước nào phụ thuộc vào việc nộp đơn của các bên chủ thể.
Thẩm quyền xét xử riêng biệt là trường hợp quốc gia sở tại tuyên bố chỉ có tòa
án nước họ mới có thẩm quyền xét xử đối với những vụ việc nhất định. Nếu tòa án
nước khác vẫn tiến hành xét xử đối với những vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử riêng
biệt, hậu quả là bản án, quyết định được tuyên bởi tòa án nước khác sẽ không được
công nhận, cho thi hành tại quốc gia sở tại. Trong trường hợp này, kể cả các bên chủ
thể thỏa thuận tòa án nước khác thì về nguyên tắc, tòa án nước đó cũng cần phải từ
chối thụ lý vụ việc để tôn trọng thẩm quyền xét xử riêng biệt của quốc gia sở tại.
Thông thường,quốc gia ấn định thẩm quyền xét xử riêng biệt của mình đối với
những vụ việc có tính chất hết sức quan trọng tới an ninh, trật tự của quốc gia (ví dụ:
Việt Nam xác định thẩm quyền xét xử riêng biệt đối với các vụ án dân sự có liên quan
đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam) hay nhằm mục
đích bảo vệ cho các cá nhân, pháp nhân, một lĩnh vực ngành nghề nào đó trong nước
(ví dụ: Việt Nam xác định thẩm quyền xét xử riêng biệt đối với tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng vận chuyển mà người vận chuyển có trụ sở chính hoặc chi nhánh tại Việt
Nam). Vì thế, để chắc chắn rằng vụ việc có thuộc thẩm quyền xét xử riêng biệt của
quốc gia nào đó hay không, chỉ cần xem xét pháp luật của các quốc gia có mối liên hệ
mật thiết tới vụ việc đó.
II. Ý nghĩa của việc phân biệt thẩm quyền chung và thẩm quyền của tòa
án Việt nam trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài
Với Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004, lần đầu tiên thẩm quyền của tòa án Việt
Nam đối với việc xét xử các vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định một cách
toàn diện, đầy đủ và hướng tới sự tương thích với các chuẩn mực pháp lý chung của thế
giới. Xác định thẩm quyền giải quyết của tòa án là một nội dung quan trọng của quá
trình giải quyết xung đột pháp luật trong Tư pháp quốc tế.
Thứ nhất, việc phân biệt này giúp xác định chủ thể có thẩm quyền giải quyết
vụ việc. Theo đó, khi có một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài xảy ra thì việc xác
định thẩm quyền chỉ là việc các bên xem xét nó có thuộc thẩm quyền riêng biệt của
tòa án nước nào hay không. Nếu không thuộc thẩm quyền riêng biệt thì các bên có thể
nộp đơn đến một trong các tòa án có thẩm quyền.
Thứ hai, qua các quy định về thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng của tòa án,
có thể khẳng định thẩm quyền tài phán của Việt Nam. Việc các quốc gia quy định như
thế nào là vấn đề của mỗi quốc gia, và Việt Nam cũng quy định các vấn đề mang tính
chất riêng biệt. Mục đích chính của các quốc gia khi đưa ra hệ thống các quy phạm này
chỉ nhằm một mục đích duy nhất là bảo vệ chủ quyền quốc gia mình. Theo quan điểm
về chủ quyền quốc gia mở rộng, quyền lực quốc gia không đơn thuần bị hạn chế bởi
ranh giới lãnh thổ mà còn là sự mở rộng ra ngoài ranh giới địa lí trên cơ sở dân cư, một
trong những đặc tính cơ bản của quốc gia. Xuất phát từ hai nguyên tắc cơ bản trong
việc đảm bảo từ chủ quyền trên (lãnh thổ và dân cư), các quốc gia cũng khá tương đồng
trong việc chấp nhận một số căn cứ làm cơ sở cho việc xác định thẩm quyền xét xử của
Tòa án quốc gia mình đối với một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài cụ thể.
Thứ ba, việc phân biệt thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng có ý nghĩa trong
việc xác định giá trị pháp lý của các bản án quyết định của Tòa án nước ngoài, các
thỏa thuận lựa chọn tòa án giải quyết.
Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật
Việt Nam về phân định thẩm quyền giải quyết của tòa án đối với các vụ việc dân sự
có yếu tố nước ngoài là yêu cầu cần thiết trong quá trình hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về Tư pháp quốc tế nói riêng và toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung.
III. Phân biệt thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng của Tòa án Việt
Nam trong việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
Thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng của Tòa án Việt Nam trong việc giải
quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài bên cạnh những điểm giống nhau như:
đều là việc xét xử của Tòa án đối với một vụ việc dân sự, đều được quy định trong các
văn bản pháp quy, đều được tiến hành theo thủ tục tố tụng của Việt Nam… thì giữa
chúng còn có những khác biệt cơ bản sau:
1.Những căn cứ xác định thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng biệt của
Tòa án Việt Nam.
Thẩm quyền chung khác với thẩm quyền riêng biệt ở những căn cứ để xác định
thẩm quyền của Tòa án Việt Nam. Trong khi thẩm quyền chung được quy định chung
cho các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài mang tính khái quát và rộng hơn, thì
thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam chỉ quy định một số trường hợp cụ thể mà
Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết.
Để làm rõ điểm này, chúng ta sẽ đi vào phân tích từng trường hợp cụ thể:
Điều 410 Bộ Luật Tố tụng dân sự Việt Nam quy định về thẩm quyền chung của
Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.
Khoản 1 quy định: “Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc
dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo quy định tai Chương III của Bộ luật
này, trừ trường hợp Chương này có quy định khác.” Như vậy, có thể hiểu rằng,
những yếu tố xác định tòa án có thẩm quyền đối với quan hệ quốc nội được sử dụng
để xác định quyền tài phán quốc tế của Tòa án Việt Nam. Việc quy dẫn đến Chương
III của Bộ luật tố tụng dân sự không những cho phép biết được thẩm quyền tài phán
quốc tế mà còn có thể cho biết thẩm quyền lãnh thổ của Tòa án Việt Nam.
Ví dụ: Khoản 2 Điều 410 không cho biết là Tòa án Việt Nam có thẩm quyền
hay không khi bị đơn Việt Nam có cư trú hay trụ sở tại Việt Nam. Song, theo điểm a
Khoản 1 Điều 35 (Chương III) quy định: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị
đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động”. Vậy áp dụng quy tắc của Khoản 1 Điều 410
có thể hiểu rằng: Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc có yếu tố
nước ngoài khi bị đơn Việt Nam có cư trú hay trụ sở tại Việt nam và tòa án nơi có cư
trú hay trụ sở là tòa án có thẩm quyền.
Khoản 2 Điều 410 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 áp dụng phương pháp liệt
kê những trường hợp mà Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết đối với các vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Bao gồm các trường hợp sau đây:
- Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài: Điểm a khoản 2 Điều 410 Bộ Luật tố
tụng dân sự năm 2004 quy định: Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài trong trường hợp “Bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở
chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại
Việt Nam”.
Theo quy định này Tòa án Việt Nam chỉ có thẩm quyền giải quyết trong trường
hợp này khi phía khởi kiện là bên Việt Nam (bên cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc
bên chi nhánh, văn phòng đại diện là bị đơn), còn nếu cơ quan, tổ chức nước ngoài
hoặc bên chi nhánh, văn phòng đại diện là bên khởi kiện (là nguyên đơn) thì Tòa án
Việt Nam không có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, theo điểm b khoản 1, Điều 411
thì Tòa án Việt Nam có thẩm quyền riêng biệt đối với “tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng vận chuyển mà người vận chuyển có trụ sở hoặc chi nhánh tại Việt Nam”. Trong
tranh chấp về hợp đồng vận chuyển, bị đơn có thể là người vận chuyển hoặc khách
hàng. Trong trường hợp khách hàng là bị đơn thì việc người vận chuyển kiện khách
hàng cư trú là thuận tiện hơn cả. Tại sao trong trường hợp này lại cho rằng thẩm
quyền riêng biệt là của Tòa án Việt Nam? Do vậy, ta nên để việc xác định thẩm quyền
trong trường hợp này theo thẩm quyền chung thì phù hợp hơn.
Ví dụ như Doanh nghiệp Việt Nam A ký hợp đồng mua lô hàng từ Mỹ. Để
chuyển hàng từ Mỹ về Việt Nam, A đã thuê công ty vận chuyển B của Việt Nam vận
chuyển bằng đường không. Khi bay trên vùng trời của Mỹ, máy bay gặp tai nạn và nổ
tung. Ở đây, người vận chuyển có trụ sở tại Việt Nam, vậy Tòa án Việt Nam có thẩm
quyền riêng biệt. Điều này đã hợp lý chưa? Tại sao không để Tòa án nơi xảy ra vụ
máy bay nổ giải quyết? Như vậy, ta thấy trong trường hợp này, Tòa án Việt Nam có
thẩm quyền chung sẽ hợp lý hơn.
- Bị đơn là người nước ngoài: Điểm b khoản 2 Điều 410 Bộ Luật tố tụng dân
sự 2004 quy định: Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài trong trường hợp “Bị đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch cư
trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam hoặc có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam”.
Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, người nước ngoài có nơi “cư trú, làm ăn,
sinh sống lâu dài tại Việt Nam” được xem là người nước ngoài thường trú tại Việt
Nam. Điều này có nghĩa là khi bị đơn nước ngoài chỉ có nơi “tạm trú” tại Việt Nam
thì tòa án Việt Nam không có thẩm quyền giải quyết.
Trường hợp thứ hai, người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam thì phải
có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam. Tài sản của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt
Nam không phân biệt là động sản hay bất động sản, nghĩa là chỉ cần tài sản nằm trên
lãnh thổ Việt Nam thì Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết tranh chấp không
cần biết bị đơn là người nước ngoài cư trú hay không cư trú tại Việt Nam.
Tuy nhiên, theo điểm a, khoản 1, Điều 411 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án dân
sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam
thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam. Như vậy, đối với vụ việc dân sự
mà bị đơn là người nước ngoài, người không quốc tịch mà có liên quan đến quyền đối
với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam thì chỉ có Tòa án Việt Nam mới
có thẩm quyền giải quyết. Cũng tương tự như vậy, điểm đ, khoản 2 Điều 411 cũng
quy định thẩm quyền giải quyết riêng biệt đối với việc công nhận tài sản có trên lãnh
thổ Việt Nam là vô chủ hoặc công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý với bất
động sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam.
- Nguyên đơn là người nước ngoài: điểm c khoản 2 Điều 410 Bộ luật tố tụng
dân sự 2004 quy định: Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài trong trường hợp “Nguyên đơn là công dân nước ngoài, người không quốc tịch
cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam đối với vụ việc dân sự về yêu cầu đòi
tiền cấp dưỡng, xác định cha mẹ”.
Như vậy, khi bên nước ngoài là nguyên đơn thì Tòa án Việt Nam chỉ có thẩm
quyền giải quyết vụ việc trong một số trường hợp cụ thể là “yêu cầu đòi tiền cấp
dưỡng, xác định cha mẹ” và người nước ngoài phải “cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài
tại Việt Nam”. Quy định này là hoàn toàn hợp lý vì những vụ việc này liên quan đến
nhân thân của các đương sự trong vụ việc cũng như những chủ thể khác có liên quan,
nên khi vụ việc xảy ra liên quan đến các chủ thể hiện đang có mặt tại Việt Nam thì
bên người nước ngoài hoàn toàn có quyền khởi kiện tại Tòa án Việt Nam để yêu cầu
Tòa án Việt Nam giải quyết
- Quan hệ theo pháp luật Việt Nam: Điểm d khoản 2 Điều 410 Bộ Luật tố tụng
dân sự năm 2004 quy định: Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài trong trường hợp “Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác
lập, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt Nam …, nhưng có ít nhất một trong các
đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài”.
Theo quy định này Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết khi bên nước
ngoài không có trụ sở chính, cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt
Nam (đối với cơ quan, tổ chức) hoặc không có nơi thường trú ở Việt Nam (đối với cá
nhân) nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật Việt
Nam. Tư cách của bên nước ngoài trong quan hệ cũng không cần được xác định trong
trường hợp này.
- Quan hệ xảy ra ở Việt Nam: Điểm d khoản 2 Điều 410 Bộ Luật tố tụng dân
sự năm 2004 quy định: Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài trong trường hợp “Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam nhưng có một trong các
đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài”.
Cũng tương tự như trường hợp trên, tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết
khi bên nước ngoài không có trụ sở chính, cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại
diện tại Việt Nam (đối với cơ quan, tổ chức) hoặc không có nơi thường trú ở Việt
Nam (đối với cá nhân) nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phải
xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam.
- Quan hệ theo pháp luật nước ngoài: Điểm đ khoản 2 Điều 410 Bộ Luật tố
tụng dân sự 2004 quy định: Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài trong trường hợp “Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác
lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó … theo pháp luật nước ngoài, nhưng các đương
sự đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú tại
Việt Nam”.
Trong trường hợp này căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài theo pháp luật nước ngoài nhưng các chủ thể tham gia đều là chủ
thể Việt Nam và có ít nhất một bên cư trú tại Việt Nam.
- Quan hệ xảy ra ở nước ngoài: Điểm đ khoản 2 Điều 410 Bộ Luật tố tụng dân
sự năm 2004 quy định: Tòa án Việt Nam giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài trong trường hợp “Vụ việc dân sự về quan hệ dân sự mà căn cứ để xác lập, thay
đổi, chấm dứt quan hệ đó … xảy ra ở nước ngoài, nhưng các đương sự đều là công
dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam và nguyên đơn hoặc bị đơn cư trú tại Việt Nam”. Ví
dụ: A là công dân Việt Nam, cư trú tại Việt Nam, sang nước T du lịch, B cũng là công
dân Việt Nam nhưng cư trú, làm ăn ở nước T. Trong một lần lưu thông tại nước T, xe
của B va vào xe của A gây ra thiệt hại. Sự việc này xảy ra ở nước ngoài, cả hai đương
sự đều là công dân Việt Nam và một bên cư trú tại Việt Nam nên tòa án Việt Nam có
thẩm quyền giải quyết.
- Điểm g khoản 2 Điều 410, Bộ luật tố tụng dân sự quy định Tòa án Việt Nam
giải quyết vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam. Đây là
thẩm quyền chung, vì vậy Tòa án Việt Nam hoặc Tòa án nước ngoài đều có thẩm
quyền giải quyết. Tuy nhiên, điểm c khoản 1 Điều 411 lại quy định, Tòa án Việt Nam
có thẩm quyền riêng biệt trong “vụ án ly hôn giữa công dân Việt Nam với công dân
nước ngoài hoặc người không quốc tịch, nếu cả hai vợ chồng cư trú, làm ăn, sinh sống