Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bình luận về nguyên tắc “mặc cả thú tội” trong pháp luật Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho các nước trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.65 KB, 15 trang )

I.

Mở đầu

Mô hình tố tụng hình sự của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là đặc trưng cho tố
tụng tranh tụng. Trong đó, mặc cả thú tội là một nguyên tắc đặc trưng của mô
hình này. Đã có rất nhiều vụ án hình sự được giải quyết ngay tại thủ tục này,
thay vì mở một phiên tòa công khai. Nguyên tắc “Mặc cả thú tội” ngày nay được
sử dụng rất rộng rãi trong tố tụng hình sự Hoa Kỳ bởi những ưu điểm đáng kể
mà nó mang lại. Để có thể hiểu thêm về nguyên tắc này cũng như chọn lọc được
những bài học kinh nghiệm trong tố tụng hình sự cho cho các nước trên thế giới,
tôi xin chọn đề tài “Bình luận về nguyên tắc “mặc cả thú tội” trong pháp luật
Hoa Kỳ và kinh nghiệm cho các nước trên thế giới.”

1.
a.

II. Nội dung
Khái quát chung về mô hình tố tụng hình sự Hoa Kỳ.
Mô hình tố tụng hình sự Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ có 50 tiểu bang và chính quyền liên bang, do đó có đến 51 mô
hình tố tụng hình sự riêng biệt và độc lập. Trong đó, mô hình tố tụng hình sự của
liên bang Hoa Kỳ là mô hình tố tụng tranh tụng. Đây là mô hình tố tụng đề cao
luật hình thức hơn luật nội dung (trọng chứng hơn trọng cung). Bên buộc tội và
bên bào chữa tham gia phiên tòa một cách bình đẳng, công khai, tuân thủ
nguyên tắc tranh tụng. Sự bình đẳng đó không chỉ diễn ra tại phiên tòa mà còn
thể hiện xuyên suốt ở tất cả các nội dung, các giai đoạn trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Với tư cách đó, các bên có quyền đưa ra các tài liệu chứng
cứ tự thu thập được và có trách nhiệm chứng minh sự có tội hay vô tội của bị
cáo.
Không có BLTTHS riêng, nhưng pháp luật của liên bang Hoa Kỳ điều


chỉnh về TTHS bằng nhiều văn bản: Quy tắc TTHS Liên bang, Quy tắc tố tụng
phúc thẩm liên bang, Quy tắc của tòa án tối cao, Quy tắc về bằng chứng của liên
bang, hàng loạt các đạo luật của liên bang và các quyết định hợp hiến của Tòa
tối cao, Quy tắc nội bộ của cơ quan điều tra (Quy tắc Miranda).
Cơ quan điều tra của liên bang Hoa Kỳ gồm những cơ quan chủ yếu sau:
Cục điều tra liên bang (FBI), Cục bài trừ ma túy (DEA), Cục chống buôn lậu
1


rượu, thuốc lá và vũ khí (ATF), Cơ quan cảnh sát Mỹ (USMS), Cơ quan mật vụ
Hoa Kỳ (SS), Cơ quan nhập cư và quốc tịch (INS). Hoa Kỳ cũng tổ chức 93 Văn
phòng Chưởng lý liên bang tại 50 bang trải khắp quốc gia và các văn phòng này
đều thành lập các đơn vị điều tra chuyên trách của mình giống như các phòng
chuyên trách trong Bộ phận hình sự ở tổng hành dinh.
Công tố viên không có thẩm quyền ra quyết định điều tra, không có thẩm
quyền giám sát đối với hoạt động điều tra đang được tiến hành, không có quyền
ra lệnh mà chỉ có quyền yêu cầu điều tra viên tiến hành việc điều tra hay kết
thúc điều tra hay thực hiện một số thủ tục điều tra nhất định. (Đương nhiên, nếu
điều tra viên thực hiện một tội phạm mà công viên biết được,cho dù tội phạm
được thực hiện liên quan đến nhiệm vụ điều tra của người đó hay không công tố
viên có thể truy tố điều tra viên về tội phạm đó). Mức độ tham gia của công tố
viên vào các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra liên bang rất khác nhau,
không chỉ vì sự khác nhau của một số quy định pháp luật, mà còn bởi sự khác
nhau trong tập quán và thực tiễn, và việc đó thường khác nhau giữa các điều tra
viên và giữa các công tố viên với nhau. Phần lớn các công tố viên liên bang phải
dựa vào các cơ quan điều tra liên bang độc lập để tiến hành những thủ tục điều
tra theo yêu cầu. Các nhân viên FBI rất kiên quyết trong việc tiến hành hoạt
động điều tra, nếu như có thể, mà không có bất kỳ sự tham gia nào của công tố
viên. Khi đã kết thúc việc điều tra của mình, họ sẽ chuyển kết luận điều tra vắn
tắt cùng với lời khai của nhân chứng tới cho công tố viên để xem xét quyết định

truy tố. Mặc dù, Công tố viên không có vai trò giám sát đối với FBI nhưng lại có
thẩm quyền điều tra rất lớn, là người lập cáo trạng hình sự. Trên thực tế, công tố
viên là người chỉ đạo hoạt động điều tra và những vụ việc thuộc thẩm quyền
điều tra của cơ quan nào thì nhân viên điều tra của cơ quan đó trợ giúp công tố
viên trong hoạt động điều tra. Các cơ quan này và kể cả cơ quan công tố cũng
không có quyền bắt giữ nghi can trong giai đoạn điều tra. Việc bắt giữ chỉ được
thực hiện khi có lệnh phê chuẩn của Tòa án.1

1 />
2


Cơ quan xét xử trong hệ thống tư pháp Hoa Kỳ bao gồm các tòa án liên
bang và tiểu bang. Trong quá trình xét xử, Thẩm phán tòa án chỉ đóng vai trò
trung lập, đứng giữa hai bên: một bên buộc tội và một bên gỡ tội. Nhằm đảm
bảo cho việc xét xử được công bằng, phiên tòa được diễn ra như theo đúng thủ
tục luật định, Thẩm phán sẽ lắng nghe ý kiến của các bên tham gia: công tố viên,
luật sư bào chữa cho bị cáo, bị cáo cùng với việc xem xét tài liệu, chứng cứ do
các bên cung cấp để xét tính hợp pháp của tài liệu chứng cứ thu thập được.
Thông qua đó, họ sẽ xem xét và quyết định luật áp dụng. Họ có quyền đối chất
và quyền kiểm tra chéo; hủy bỏ các chứng cứ được thu thập trái phép; hủy bỏ
các cáo trạng không đủ cơ sở pháp lý nhưng không thể cân nhắc hoặc lệnh cho
bồi thẩm đoàn cân nhắc một tội danh nặng hơn tội danh đã nêu trong cáo trạng
của công tố viên và đại bồi thẩm đoàn. Bồi thẩm đoàn, chứ không phải Thẩm
phán là người quyết định cuối cùng dựa trên tình tiết và chứng cứ khách quan
của vụ án.
b.

Trình tự, thủ tục tố tụng hình sự cơ bản của Hoa Kỳ.
Trình tự, thủ tục tố tụng một vụ án hình sự tại Hoa Kỳ được chia thành 11

bước, trong đó có 7 bước được tiến hành ở giai đoạn tiền xét xử trước khi mở
phiên tòa.
Bước 1: Điều tra của cơ quan điều tra.
Điều tra viên sẽ cùng sự tư vấn pháp lý của công tố viên thực hiện việc
điều tra. Việc điều tra nhằm làm rõ hành vi phạm tội và danh tính của người thực
hiện hành vi đó.
Trong giai đoạn điều tra, người thực hiện nhiệm vụ điều tra chính là điều
tra viên với sự tư vấn pháp lý của công tố viên. Việc điều tra sẽ tập trung vào 2
nhiệm vụ chính là: xác định có hành vi phạm tội xảy ra hay không và xác định
danh tính của người đã thực hiện hành vi phạm tội. Hoạt động điều tra của Điều
tra được thực hiện bởi các biện pháp nghiệp vụ của trinh sát hoặc từ những kinh
nghiệm thu thập, tích lũy được.. Những biện pháp thường được áp dụng trong
quá trình điều tra ở Hoa Kỳ bao gồm: xem xét dấu vết, vật chứng, chứng cứ để
lại nơi hiện trường xảy ra tội phạm, xét hỏi người bị tình nghi, khám người, tài
sản, nơi ở của kẻ phạm tội,..
3


Bước 2: Buộc tội
Công tố viên sẽ quyết định có buộc tội nghi phạm hay không dựa trên
việc nghiên cứu nội dung trong hồ sơ vụ án thu thập được cùng tài liệu chứng
cứ. Mặc dù hồ sơ đã đầy đủ bằng chứng kết tội đối với người bị buộc tội nhưng
một đặc quyền mà cơ quan công tố của Hoa Kỳ có được, quyền “tùy nghi truy
tố” mà sẽ không buộc tội. Quyền tùy nghi truy tố được hiểu là kể cả trong
trường hợp vụ án đã có đầy đủ chứng cứ nhưng Công tố viên vẫn có thể không
truy tố tội phạm, đình chỉ vụ án vì lợi ích công cộng. Nếu quyết định buộc tội
nghi phạm, công tố viên sẽ ban hành cáo trạng. Cùng với việc buộc tội, Công tố
viên phải quyết định việc có đưa vụ án ra trước đại bồi thẩm đoàn hay không.
Đại bồi thẩm đoàn sau khi nghe ý kiến của Công tố viên và nhân chứng sẽ bỏ
phiếu kín để xác định có đủ bằng chứng cho việc buộc tội.

Bước 3: Phiên trình diện đầu tiên
Trong ngày bị bắt/buộc tội hoặc sau đó một ngày, nghi phạm sẽ được đưa
đến phiên trình diện đầu tiên trước một thẩm phán tại Tòa án quận liên bang.
Trong lần gặp này, nghi phạm sẽ được: thông báo về nội dung cáo trạng; thông
báo về quyền của nghi phạm trong quá trình tố tụng; sắp xếp để có luật sư trong
quá trình tố tụng; thông báo quyết định của Thẩm phán về việc nghi phạm có bị
tạm giam hay được tại ngoại; hỏi xem có nhận tội hay không?
Bước 4: Chuẩn bị phiên tòa
Công tố viên và luật sư phải tiến hành rất nhiều việc trong đó phải kể đến
một số việc quan trọng nhất như: nghiên cứu kỹ các tình tiết của vụ án; trò
chuyện với nhân chứng sẽ được triệu tập đến Tòa; xem xét, đánh giá chứng cứ;
dự kiến những vấn đề sẽ nảy sinh tại phiên tòa và lập kế hoạch cho phiên tòa
cũng như chuẩn bị tranh tụng và lời buộc tội hoặc gỡ tội tại phiên tòa. Trong giai
đoạn này, công tố viên và luật sư phải tiến hành trao đổi nhân chứng vụ án, đây
cũng là một yếu tố giúp đảm bảo sự công bằng trong hoạt động tố tụng. Ngoài
ra, Công tố viên phải cung cấp cho nghi phạm bản sao của những tài liệu, chứng
cứ mà công tố viên dự kiến sẽ sử dụng tại phiên tòa, đồng thời nếu công tố viên
có những bằng chứng chứng minh nghi phạm vô tội thì phải cung cấp chúng cho

4


luật sư của nghi phạm, nếu không thực hiện, công tố viên sẽ bị Tòa án phạt hoặc
phiên tòa sẽ bị hủy và mở một phiên tòa khác.
Bước 5: Mặc cả thú tội
Trong phiên trình diện đầu tiên, nghi phạm sẽ được hỏi có nhận tội hay
không. Một người sẽ thú tội khi trên thực tế họ đã thực hiện hành vi phạm tội và
nhận tội trong một phiên tòa trước một thẩm phán. Thẩm phán có thể bác bỏ
thỏa thuận nhận tội nếu thấy rằng, bị cáo chưa hiểu hậu quả của việc nhận tội
hoặc không thực sự tự nguyện đưa ra lời nhận tội.Thẩm phán cũng có thể không

chấp nhận thỏa thuận nhận tội nếu thấy rằng, hành vi phạm tội của bị cáo quá
nghiêm trọng không thể cho phép giảm xuống tội nhẹ hơn hoặc hình phạt đưa ra
là quá cao hoặc quá thấp.
Bước 6: Phiên điều trần sơ bộ
Phiên điều trần sơ bộ được tiến hành khi vụ việc không được giải quyết
bằng phiên tòa mặc cả thú tội. Công tố viên phải cung cấp bằng chứng để buộc
tội nghi phạm. Nếu tại đây, thẩm phán kết luận có đủ căn cứ để buộc tội nghi
phạm thì phiên tòa sẽ nhanh chóng được mở. Nếu thẩm phán cho rằng đã có đủ
chứng cứ để chứng minh nghi phạm thực hiện tội phạm thì thẩm phán sẽ bác bỏ
việc buộc tội.
Bước 7: Kiến nghị trước phiên tòa
Bước cuối cùng công tố viên và luật sư có thể thực hiện trước khi mở
phiên tòa là đưa ra kiến nghị với Tòa án trước khi phiên tòa được tiến hành. Các
kiến nghị đó có thể là: kiến nghị hủy bỏ xét xử, kiến nghị hủy bỏ chứng cứ, kiến
nghị thay đổi địa điểm xét xử,..
Bước 8: Phiên tòa
Sau một thời gian chuẩn bị, phiên tòa sẽ được mở. Tại phiên tòa, công tố
viên sẽ triệu tập nhân chứng, trình diện chứng cứ để chứng minh với bồi thẩm
đoàn nghi phạm là người đã thực hiện hành vi phạm tội. Nghi phạm và luật sư
cũng sẽ đưa ra những bằng chứng và nhân chứng để bảo vệ quan điểm của họ.
Tại phiên tòa, thẩm phán sẽ đóng vai trò là trọng tài để quyết định tài liệu, tình
tiết...nào được coi là chứng cứ và được gửi đến bồi thẩm đoàn.
Bước 9: Thủ tục sau phiên tòa
Sau phiên tòa, có thể xảy ra một số khả năng sau:

5


-


Mở một phiên tòa mới: Việc này thường hiếm khi xảy ra nhưng vẫn có thể

-

trong trường hợp nếu công lý yêu cầu.
Nếu bị cáo vô tội, có thể trả tự do cho bị cáo.
Rà soát lại những thông tin trên kết luận của bồi thẩm đoàn.
Bước 10: Tuyên bố hình phạt
Một vài tháng sau khi bị kết tội, bị cáo quay lại tòa án để nghe về hình

phạt. Thẩm phán sẽ phải cân nhắc để đưa ra mức hình phạt phù hợp cho bị cáo.
Quyết định của thẩm phán dựa trên mức tối thiểu và tối đa của khung hình phạt
đối với loại tội mà Nghị viện ban hành; chỉ dẫn của Ủy ban thi hành án liên bang
đối với mức hình phạt cho từng loại tội danh cụ thể và lời khai, bản trình bày
của nạn nhân cũng như luật sư và bị cáo. Ngoài ra,thẩm phán còn phải cân nhắc
thêm rất nhiều yếu tố nữa như: bị cáo đã từng phạm tội trước đó chưa hay đây là
lần phạm tội đầu tiên, có ăn năn hối cải không?...
Bước 11: Kháng cáo
Bị cáo có quyền kháng cáo tới Tòa án phúc thẩm nếu bị cáo cho rằng việc
kết tội là không đúng hoặc hình phạt là quá nghiêm khắc. Kháng cáo là cơ hội
để bị cáo chỉ ra những sai lệch đã xảy ra trong quá trình xét xử sơ thẩm. Các
kháng cáo thường phức tạp và hệ quả của nó là tòa phúc thẩm sẽ phải xem xét
lại vụ án. Trên cơ sở xem xét lại vụ án, Tòa phúc thẩm có thể thay đổi phán
quyết, thay đổi hình phạt hoặc xét xử lại, tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể.
2.
a.

Nguyên tắc mặc cả thú tội
Khái niệm.
Nguyên tắc mặc cả thú tội được sử dụng rộng rãi trong tố tụng hình sự

Hoa Kỳ. Mặc cả thú tội là sự thoả thuận theo đó, công tố viên cho phép bị cáo
nhận tội để đổi lại một vài nhượng bộ như giảm lời buộc tội hoặc đưa ra một
mức án khoan dung hơn. Các công tố viên cũng thực hiện quyền tự quyết trong
việc thương thuyết với luật sư biện hộ. Có những lợi thế của mặc cả thú tội cho
cả bên bị buộc tội lẫn Nhà nước. Đối với bị cáo, đó là cơ hội được giảm mức án
và chi phí cho luật sư. Đối với Chính phủ, nó làm giảm chi phí cho việc truy tố,
cải thiện tính hiệu quả của các Tòa án bằng việc phải xử lý các vụ án ít hơn bằng
các thủ tục đầy đủ của một phiên tòa và cho phép bên công tố có thể giành hết
các nguồn lực của mình để giải quyết những vụ án nghiêm trọng hơn
6


Mặc cả thú tội là sự thoả thuận giữ người bị buộc tội và công tố viên,
trong đó người bị cáo buộc phạm tội thú nhận tội lỗi trên thực tế mà mình đa
thực hiện để đổi lại một vài nhượng bộ từ phía công tố viên như giảm lời buộc
tội hoặc đưa ra một mức án khoan dung hơn.
Các công tố viên cũng thực hiện quyền tự quyết trong việc thương thuyết
với luật sư biện hộ. Thông qua nguyên tắc mặc cả thú tội, Luật sư biện hộ và
công tố viên có thể thảo luận giảm buộc tội hoặc giảm mức án cho bị cáo.
b.

Đặc điểm.
Việc sử dụng nguyên tắc mặc cả thú tội đã được áp dụng rất nhiều và giải
quyết thành công đối với không ít các vụ án hình sự. Mặc cả thú tội- việc thú tội
của người bị buộc tội tại phiên tòa đã góp phần làm việc giải quyết vụ án hình sự
được diễn ra nhanh chóng, thay vì phải xét xử theo trình tự thủ tục luật định.
Trong một vài trường hợp, bị cáo và công tố viên có thể làm việc với Thẩm phán
để định trước hình phạt mà bị cáo phải nhận nếu bị cáo chấp nhận thỏa thuận
nhận tội. Trong hầu hết các vụ án hình sự, vai trò của Tòa án khi giải quyết mà
sử dụng nguyên tắc mặc cả thú tội là không nhiều. Tòa án không được tham gia

vào những cuộc thảo luận giữa luật sư biện hộ và công tố viên khi họ “mặc cả
thú tội”, nhưng các bên phải công bố thoả thuận thú tội tại phiên toà công
khai. Tuy nhiên, thỏa thuận giữa các bên có thể được Tòa án chấp nhận hoặc bác
bỏ.
Mặt khác, về vấn đề thời hạn, pháp luật tố tụng hình sự của Hoa Kỳ
không quy định về thời hạn truy tố hoặc thời hạn truy tố khác nhau giữa các
bang, tùy thuộc vào hệ thống tố tụng. Tuy nhiên, thỏa thuận nhận tội có thể được
các bên tham gia thương lượng, thỏa thuận trong một thời gian rất ngắn. Do đó,
việc các bên giải quyết dựa trên nguyên tắc mặc cả thú tội sẽ làm giảm tải hệ
thống tư pháp, giảm thiểu chi phí tố tụng cũng như vấn đáp ứng được việc xử lý
đối với các trường hợp vi phạm pháp luật, đảm bảo pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh, công lý được thực thi.
Mặc cả thú tội được thực hiện giữa người bị cáo, luật sư của họ và công tố
viên.
-

Bị cáo
7


Bị cáo có thể đề nghị hoặc thông qua sự tư vấn của luật sư bào chữa để
thỏa thuận nhận tội với công tố viên để đổi lấy một cáo buộc ít nghiêm trọng
hơn trước những chứng cứ bất lời và sự buộc tội của công tố viên. Tuy nhiên, bị
cáo vẫn có quyền rút lại lời khai nhận tội của mình trước khi thẩm phán Tòa án
xét xử chấp nhận lời khai nhận tội của mình.
-

Luật sư biện hộ.
Luật sư biện hộ là người đại diện bị cáo tham gia tranh tụng vói Công tố


viên. Trong việc thỏa thuận nhận tội, luật sư biện hộ có vai trò như một bên
trung gian thỏa thuận giữa công tố viên và bị cáo. Trước những cáo buộc bất lợi
cho bị cáo, luật sư sẽ tiến tới thỏa thuận với phía Công tố để đổi lấy cáo buộc ít
nghiêm trọng hơn cho bị cáo khi nhận thấy chứng cứ không thể chối cãi. Đồng
thời, cũng là người thuyết phục bị cáo chấp nhận thỏa thuận trên.
-

Công tố viên.
Quyền tuỳ nghi truy tố là quyền đặc biệt của Công tố viên. Với tư cách là

một nhân viên được bầu hoặc được bổ nhiệm, công tố viên là người có quyền
lực nhất trong hệ thống tư pháp hình sự. Các công tố viên thực hiện quyền tự
quyết không bị ràng buộc, có quyền quyết định ai là người bị truy tố, đưa ra
những lời buộc tội nào, khi nào thì bỏ qua lời buộc tội, có thực hiện việc mặc cả
thú tội hay không và cần phải tổ chức thực hiện việc truy tố như thế nào. Các
công tố viên thực hiện quyền tự quyết khi ra quyết định trong ba lĩnh vực chủ
yếu là: Quyết định đưa ra lời buộc tội, quyết định đình chỉ vụ án (bãi bỏ lời buộc
tội) và mặc cả thú tội.
Quyết định việc truy tố dựa trên 3 yếu tố: Thứ nhất, truy tố khi có đủ chứng cứ
pháp lý (đủ các yếu tố tối thiểu để phát động truy tố hình sự), theo đó, một văn
phòng công tố có thể tiếp nhận nhiều vụ án để truy tố nhưng xử lý phần lớn các
vụ án đó thông qua thủ tục mặc cả thú tội. Thứ hai, để đẩy nhanh tiến trình tố
tụng đối với các vụ án, giảm sự ùn tắc số lượng án tại các Tòa án, duy trì quyền
công tố và giảm các phí tổn từ các nguồn lực của Tòa án, các công tố viên bỏ
qua những vụ án chứng cứ yếu từ ngay đầu vào và giảm mức độ nghiêm trọng
xuống thành tội ít nghiêm trọng nhằm giải quyết các vụ án thông qua mặc cả thú
8


tội. Thứ ba, các công tố viên chỉ truy tố khi có đủ khả năng để xét xử, bao gồm

cơ sở truy tố, điều tra của cảnh sát và đối chứng của luật sư. Các công tố viên
chỉ đệ trình bản buộc tội trong trường hợp có đủ bằng chứng để đảm bảo việc
kết án và chỉ sử dụng tối thiểu thủ tục mặc cả thú tội2.
c.

Các loại thỏa thuận nhận tội
Một là, giảm cáo trạng. Là một hình thức thỏa thuận phổ biến nhất nhằm
giảm mức cáo buộc của cáo trạng đưa ra xuống mức độ ít nghiêm trọng hơn, khi
bị cáo đồng ý nhận tội sẽ có lợi hơn cho bị cáo.
Hai là, xóa cáo trạng tăng nặng. Hình thức thương lượng lời khai thứ hai
là chưởng lý hạt đồng ý xóa bỏ những lời buộc tội khác đang dành cho một cá
nhân. Một biến thể của hình thức này là thỏa thuận không khởi tố “theo chiều
dọc”, có nghĩa là không đưa ra những cáo buộc nghiêm trọng hơn chống lại cá
nhân đó. Loại thỏa thuận thứ hai là bác những cáo buộc “theo chiều ngang”, đó
là bác bỏ những cáo trạng bổ sung đối với cùng một tội đang dành cho bị cáo.
Một biến thể khác của hình thức thương lượng lời khai này là thỏa thuận mà
trong đó điều khoản phạm tội nhiều lần được xóa khỏi bản cáo trạng. Ở cấp độ
liên bang và tại nhiều bang, một người bị đánh giá là phạm tội thường xuyên khi
bị kết án lần thứ ba về một trọng tội tại bất cứ nơi nào ở Mỹ. Bản án bắt buộc
cho người phạm tội thường xuyên là tù chung thân. Ở các tòa án bang, lời buộc
tội đối với người phạm tội thường xuyên được xóa bỏ để đổi lấy lời khai tự nhận
tội. Một thương lượng lời khai khác thuộc loại này là thỏa thuận mà trong đó
những cáo trạng ở các tòa án khác nhau được hợp nhất tại một tòa án để các bản
án được thi hành cùng một lúc. Do những cáo trạng và quyết định của phiên tòa
sơ bộ được lưu giữ ở nhiều khu vực tài phán nên chúng được đưa vào sổ ghi án
xét xử trong một hệ thống luân phiên. Điều này có nghĩa là một bị cáo buộc bốn
điểm giả mạo và tội danh sở hữu công cụ giả mạo có thể bị đưa vào sổ ghi án
của năm tòa án khác nhau. Nhìn chung, việc chuyển tất cả những cáo trạng của
một người cho tòa án đầu tiên được liệt kê là tập quán phổ biến ở những địa hạt
2 Thông tin khoa học Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Mô hình tố tụng hợp chủng quốc Hoa kỳ,

/>
9


có hệ thống nhiều tòa án như vậy. Điều này mang lại cho thẩm phán chủ tọa
quyền tự quyết cho phép tất cả những bản án của bị đơn được thực hiện cùng
một lúc.
Ba là, thương lượng hình phạt. Hình thức thứ ba của thương lượng lời
khai liên quan đến việc để bị cáo tự nhận tội để đổi lấy một thỏa thuận của công
tố yêu cầu thẩm phán có bản án nhẹ hơn.
d.

Vi phạm thỏa thuận nhận tội.
Việc thỏa thuận nhận tội có một đặc điểm đáng chú ý, đó chính là sự tự
nguyện đồng ý của bị cáo. Do đó, bị cáo phải có nghĩa vụ đối với thỏa thuận
này. Sự vi phạm thỏa thuận sẽ mang lại hệ quả là phá vỡ ràng buộc giữa các bên
tham gia thỏa thuận. Trường hợp phía công tố không tuân theo thỏa thuận, bị cáo
có thể rút lại lời khai nhận tội của mình hoặc nhờ đến thẩm phán buộc thực hiện
theo đúng thỏa thuận.

3.
a.

Ưu nhược điểm của nguyên tắc Mặc cả thú tội.
Ưu điểm
Thứ nhất, ưu điểm đầu tiên cần nói đến đó là những lợi ích nhất định dành
cho bị cáo. Trước những chứng cứ rõ ràng, không thể chối cãi, một thỏa thuận
nhận tội có mức độ ít nghiêm trọng hơn so với cáo buộc mà phía công tố viên
đưa ra sẽ giúp bị cáo chịu mức hình phạt nhẹ hơn so với hành vi phạm tội của
mình. Thêm vào đó, bị cáo sẽ tránh được một phiên tòa có thể bất lợi hơn cho

bản thân nếu có thêm những bằng chứng đối lập với lợi ích của bị cáo.
Thứ hai, đối với công tố viên, thẩm phán và cảnh sát. Văn phòng chưởng
lý hạt và các thẩm phán tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức do họ
không phải chuẩn bị và chủ trì những vụ án không có tranh cãi thực sự về sự vô
tội hoặc những vụ không phù hợp với thủ tục xét xử. Nó cũng loại trừ khả năng
bên bị cáo buộc thuyết phục được ban hội thẩm tha bổng. Cuối cùng, khi cảnh
sát không được yêu cầu xuất hiện ở tòa án để chứng thực trong các vụ xét xử
hình sự thì họ sẽ có nhiều thời gian hơn cho việc ngăn ngừa và giải quyết tội
phạm.

10


Thứ ba, đối với xã hội, thỏa thuận nhận tội cũng mang lại những lợi ích
nhất định. Lời khai nhận tội của bị cáo sẽ khiến bị cáo phải chịu những chế tài
tương ứng với mức độ hành vi phạm tội của mình. Việc này rõ ràng mang tính
giáo dục, thể hiện quyền lực của nhà nước khi người phạm tội phải chịu tội,
không thể trốn tránh pháp luật.
b.

Nhược điểm
Tuy đem lại một số lợi ích như trên, nhưng nguyên tắc “mặc cả thú tội”
vẫn bộc lộ những yếu điểm nhất định của nó.
Thứ nhất, Việc thỏa thuận nhận tội, tức bị cáo sẽ chấp nhận lời nhận tội,
tránh được việc phải đưa vụ án ra xét xử theo trình tự thủ tục luật định. Việc này
sẽ không đảm bảo được sự công khai trong việc xét xử. Từ điều đó, lợi ích của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân sẽ không được đáp ứng, đảm bảo, sức ép của dư
luận xã hội cũng không mang lại hiệu quả.
Thứ hai, bản án của bị đơn có thể dựa trên những căn cứ không mang tính
hình phạt. Với rất nhiều vụ án có thương lượng lời khai trong quyết định của tòa

án, bản án có thể không liên quan gì đến những dữ kiện cụ thể của vụ án, đến
những yêu cầu trừng phạt đối với tội phạm, hay đến mối quan tâm chính đáng
của xã hội về sự khởi tố vụ án quyết liệt.
Thứ ba, thỏa thuận nhận tội sẽ làm mất quyền của bị cáo trước phiên tòa.
Bị cáo sẽ không có cơ hội được trình bày, thuyết phục thẩm phán về hành vi
phạm tội của mình cũng như thuyết phục rằng mình không có tội. Hơn nữa, đối
với bị cáo là người kém hiểu biết, việc chỉ nghe rằng nhận cáo buộc ít nghiêm
trọng hơn sẽ rất thu hút họ. Bị cáo sẽ mặc nhiên thừa nhận, mặc dù không biết
hành vi phạm tội của mình có thể không đến mức phải chịu hình phạt đó. Khi đó
những người vô tội thậm chí có thể bị những sức ép phi lý phải tự nhận tội.
Thứ tư, nhằm thể hiện được chỗ đứng cũng như tiếng nói của mình trước
luật sư biện hộ và bị cáo, dẫn dắt luật sư tới việc thỏa thuận nhận tội, Công tố
viên có thể đưa ra các cáo buộc với mức độ nghiêm trọng hơn so với chứng cứ
tài liệu. Việc này đã dẫn tới sự làm dụng nguyên tắc mặc cả thú tội.
11


Thứ năm, cơ chế thương lượng lời khai có khả năng phá vỡ những quy tắc
bằng chứng then chốt về mặt thủ tục tố tụng và hiến pháp. Do công tố không
nhất thiết phải đưa ra bằng chứng hay nhân chứng trước tòa nên một sự lừa bịp
cũng có thể tạo ra lời kết tội ngay cả khi vụ án không thể đáp ứng các yêu cầu về
thủ tục tố tụng thỏa đáng. Luật sư bào chữa có thể gặp bất lợi vì những quy tắc
khám phá (những điều luật cho phép luật sư bào chữa được biết chi tiết bằng
chứng mà công tố sẽ đưa ra) ở một số bang hạn chế việc chuẩn bị vụ án của luật
sư bào chữa trong một khoảng thời gian sau khi thương lượng lời khai đã diễn
ra. Do vậy, việc thương lượng lời khai có thể tước đi những quyền hiến định căn
bản của bị cáo.
4.

Bài học kinh nghiệm cho các nước trên thế giới.

Nguyên tắc “mặc cả thú tội” không chỉ tồn tại trong hệ thống pháp luật
Hoa Kỳ, mà còn xuất hiện tại nhiều quốc gia khác trên thế giới mà mô hình tố
tụng hình sự thuộc hệ thống mô hình tố tụng tranh tụng, với tên gọi “thỏa thuận
nhận tội”. “Mặc cả thú tội” không phải là một đặc điểm trong hệ thống thẩm vấn
vì bị can không phải là một bên theo nghĩa đầy đủ trong tố tụng, và vì trách
nhiệm cuối cùng trong việc xác định sự thật thuộc về thẩm phán. Thẩm phán
không cần thiết chấp nhận việc nhận tội như là một hình thức mặc cả. Ngoài ra,
mặc cả thú tội có thể dẫn đến sự chú trọng thái quá việc nhận tội của bị cáo, sự
lạm dụng quá mức nguyên tắc này, dẫn đến nhiều hệ lụy. Cơ quan điều tra có thể
tạo áp lực đối với bị cáo về việc nhận tội, Công tố viên thì đưa ra những cáo
buộc nghiêm trọng hơn như đã trình bày ở trên cũng nhằm mục đích đưa bị cáo
tới sự nhận tội. Thêm vào đó, nguyên tắc này còn có thể đưa đến kết quả là sự
thiếu tin tưởng của công chúng vào tư pháp hình sự, vì tư pháp bị xem như là cái
gì đó để đem ra trao đổi, thỏa thuận. Điều này sẽ dẫn tới sự coi thường pháp luật
của một bộ phận không nhỏ những kẻ phạm tội. Điều quan trọng nhất là quyền
của bị can có thể bị mang ra thỏa hiệp và việc nhận tội không phản ánh đúng sự
thật vì bị ảnh hưởng bởi việc tạo ra áp lực một cách bất hợp pháp và phi đạo
đức.
12


Từ đó có thể thấy, việc áp dụng nguyên tắc mặc cả thú tội cần phải được
xem xét một cách kỹ càng, hạn chế tối đa các nhược điểm mà nó mang lại, áp
dụng những gì phù hợp nhất để thỏa mãn với pháp luật của từng quốc gia cụ thể,
đảm bảo đạt hiệu quả trong hoạt động tư pháp hình sự.
Trong bối cảnh hoàn cầu hóa và nhất thể hóa khu vực và thế giới, các mô
hình tố tụng hình sự đã có sự giao thoa, tiếp nhận những yếu tố tích cực, tiến bộ
của nhau để đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm và bảo đảm
quyền con người. Việt Nam cũng không phải ngoại lệ, chúng ta có thể thấy các
đặc điểm của cả mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn trong

tố tụng hình sự của Việt Nam.
Tố tụng hình sự Việt Nam xác định việc tìm kiếm sự thật vụ án bằng
phương pháp điều tra, thẩm vấn, đồng thời bảo vệ tối đa các quyền con người
trong tố tụng hình sự. Mục tiêu xuyên suốt của tố tụng hình sự Việt Nam là tìm
ra sự thật khách quan của vụ án. Do đó, tìm kiếm chứng cứ, xác định sự thật của
vụ án là nhiệm vụ quan trọng do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng thực hiện. Cũng xuất phát từ mục tiêu này, trong tố tụng hình sự Việt Nam
không tồn tại chế định đặc trưng của mô hình tố tụng tranh tụng là “tuỳ nghi
truy tố” hay “mặc cả thú tội” .Việc phát hiện và xử lý tội phạm mang tính bắt
buộc. Việc áp dụng nguyên tắc mặc cả thú tội tại Việt nam là không phù hợp. Là
một nước đang phát triển, cùng với sự hội nhập toàn cầu thì tội phạm cũng diễn
ra rất phức tạp. Khi áp dụng nguyên tắc này, nhược điểm sẽ phát sinh, oan sai sẽ
càng nhiều, không những không thể giải quyết vụ án đúng đắn, đảm bảo quyền
con người, quyền công dân mà trái lại, là cơ hội để một số loại tội phạm đặc
trưng, điển hình gia tăng như các tội phạm tham nhũng, chức vụ trong hoạt động
tư pháp. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, học hỏi để có những chọn lọc từ mặc cả thú
tội vẫn là điều khuyến khích tham gia.
Kết luận
Là một nguyên tắc đặc trưng trong tố tụng tranh tụng, mặc cả thú tội tạo
nên nét đặc trưng riêng trong mô hình tố tụng hình sự của Hoa Kỳ. Sự tồn tại lâu
13


dài của nguyên tắc này đã chứng minh được tính ưu việt và phù hợp với điều
kiện của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc này, các quốc gia trên thế
giới cần có sự cân nhắc kỹ càng, dựa trên điều kiện kinh tế, chính trị ở mỗi quốc
gia để có được sự áp dụng mang lại hiệu quả cao nhất

14



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.

4.
5.

Tập bài giảng Tư pháp hình sự so sánh. Trường Đại học kiểm sát Hà Nội.
Bài viết “Một vài đặc điểm về tố tụng hình sự Hoa Kỳ”.
/>Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ. Chương 5: Thủ tục tố tụng hình sự
/> /> />
15



×