Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NHÀ VĂN HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021.76 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM - ÐẠI HỌC ÐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN

BÀI TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
Đề tài: BÀI LUẬN VỀ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN HÙNG
(Học phần: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NHÀ VĂN HÓA)

Sinh viên thực hiện

: VÕ HOÀNG TRINH

Lớp

: 15CVHH

Giảng viên hướng dẫn

: THẦY HUỲNH TẤN ĐÔNG


Ðà Nẵng, tháng 1/2018


MỤC LỤC

3


MỞ ĐẦU
Đền Hùng và lễ hội Đền Hùng là một di sản văn hóa mang tính
bản sắc của dân tộc Việt. Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi


tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của
khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Từ bao đời nay, mỗi người
dân Việt Nam luôn nhớ về ngày giỗ Tổ qua câu ca được truyền
tụng:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp nơi truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non mình ngàn năm
Người Việt Nam may mắn có chung một đạo, Đạo thờ cúng Ông
Bà. Người Việt Nam còn may mắn hơn nữa khi có chung một Tổ
để hướng về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một
đền thờ Tổ để tri ân. Giỗ Tổ Hùng Vương - từ rất lâu đã trở thành
ngày Giỗ trọng đại của cả dân tộc; đã in đậm trong cõi tâm linh
của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào, người Việt
Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đất Cội nguồn xã Hy Cương – Việt Trì - Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ
văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam.Có lẽ không một dân tộc
nào trên thế giới có chung một gốc gác tổ tiên - một ngày giỗ
Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng,
nửa theo cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý
thức về dân tộc, nghĩa đồng bào và gắn kết chúng ta thành một
khối đại đoàn kết. Hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu
thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam. Lịch sử như một
dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao biến động
thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng vẫn là nơi
của bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức Tổ
tiên. Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu kĩ hơn về đền Hùng và
phương hướng bảo tồn và phát huy giá trị của nó.

4



Chương 1: Khái quát về Đền Hùng
Đền Hùng là tên gọi khái quát của Khu di tích lịch sử Đền Hùng quần thể đền chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà
vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền
Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày 10 tháng
3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số
đều thống nhất nền móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây
dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê (thế kỷ
15) được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện tại.
1.1.

Vị trí

Đền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu,
ngày nay là xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Quần
thể di tích đền Hùng nằm từ chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa
Lĩnh cao 175 mét (núi có những tên gọi như Núi Cả, Nghĩa Lĩnh,
Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu
Sơn), thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú
Thọ, trong khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt giáp giới với
những xã thuộc huyện Lâm Thao, Phù Ninh và vùng ngoại ô
thành phố Việt Trì, cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 10
km. Khu vực đền Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh
đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang xưa. Theo cuốn Ngọc phả
Hùng Vương, đương thời các Vua Hùng đã cho xây dựng điện
Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này.
1.2.

Quá trình phát triển


Đền Hùng được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng là khu di tích
đặc biệt của quốc gia vào năm 1962. Đến năm 1967, Chính phủ
Việt Nam đã quyết định khoanh vùng xây dựng khu rừng cấm
Đền Hùng. Ngày 8 tháng 2 năm 1994, Thủ tướng Chính phủ Việt
Nam đã phê duyệt dự án quy hoạch tổng thể Khu di tích lịch sử
Đền Hùng lần thứ nhất, tạo tiền đề cho việc đầu tư xây dựng
nhiều công trình hạng mục trong khu di tích.
Ngày 6 tháng 1 năm 2001, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị
định số 82/2001/NĐ-CP, quy định về quy mô, nghi lễ tổ chức giỗ
Tổ Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng hàng năm. Ngày 10 tháng 3
âm lịch trở thành ngày quốc lễ, ngày giỗ Tổ Hùng Vương.

5


Khu di tích lịch sử Đền Hùng đã không ngừng lớn mạnh, được
thể hiện sâu sắc và rõ nét hơn qua hàng loạt công trình kiến
trúc văn hóa đầu tư xây dựng. Nổi bật nhất là từ sau Quyết định
số 84/2004/QĐ-TTg ngày 30 tháng 3 năm 2004 về việc phê
duyệt quy hoạch phát triển Khu di tích lịch sử Đền Hùng đến
năm 2015.
Nhiều công trình tiếp tục được xây dựng tại khu di tích Đền
Hùng như Đền thờ Lạc Long Quân, đường hành lễ tại trung tâm
lễ hội, trụ sở làm việc và nhà tiếp đón khách của khu di tích, đài
tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ...Trước sự phát triển và quy mô
ngày càng lớn, đòi hỏi phải có một bộ máy quản lý tương xứng.
Ngày 23 tháng 2 năm 2005, UBND tỉnh Phú Thọ đã ban hành
Quyết định số 525/2005/QĐ-UB về việc nâng cấp Ban quản lý
Khu di tích Đền Hùng thuộc Sở Văn hóa thông tin Phú Thọ thành
Khu di tích lịch sử Đền Hùng trực thuộc UBND tỉnh.

Ngày 6 tháng 12 năm 2012, UNESCO công nhận Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể của
nhân loại với những yếu tố thuộc đời sống tâm linh của người
Việt Nam đã tồn tại từ hàng nghìn năm nay, thể hiện nền tảng
tinh thần đại đoàn kết dân tộc và gắn kết cộng đồng. Tính độc
đáo của tín ngưỡng này thể hiện rất rõ ở yếu tố thờ Hùng Vương
chính là thờ Quốc tổ. Đây là hiện tượng văn hóa không phải dân
tộc nào cũng có.

6


Chương 2: Di tích Đền Hùng
2.1. Các di tích chính
Trong khu vực đền Hùng có 4 ngôi đền, 1 ngôi chùa, 1 lăng và
một số hạng mục kiến trúc khác, được xây dựng hài hoà với
cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, nơi khí thiêng của non sông hội
tụ.
Cổng đền: được xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh vào năm Khải
Định thứ 2 (1917), dạng vòm cuốn, cao 8,5m, gồm 2 tầng, 8
mái... Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng
tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, 4 góc mái trang trí rồng, đắp nổi
hai con nghê. Mặt trước của cổng đắp nổi phù điêu hai võ sĩ,
một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp,
ngực trang trí hình hổ phù.

Cổng dẫn lên khu di tích đền Hùng. Trán cửa ghi bốn chữ: Cao
sơn cảnh hành
Đền Hạ: Tương truyền là nơi Âu Cơ sinh hạ bọc trăm trứng, sau
nở thành một trăm người con, được xây dựng lại trên nền cũ,

vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII, kiểu chữ “nhị”, gồm tiền bái và
hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau 1,5m, kiến trúc đơn sơ,
kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái
trước. Đốc xây liền tường với đốc hậu cung, hai bên đắp phù

7


điêu, một bên voi, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng, không trang
trí, mái lợp ngói mũi, địa phương gọi là ngói mũi lợn.

Đền Hạ
Ngay chân đền Hạ là nhà bia, với kiến trúc hình lục giác, xây
dựng năm 1917, trên đỉnh có đắp hình nậm rượu, 6 mái được
lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi măng, có 6 cột
bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia hiện
nay đặt một bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi Người về thăm đền Hùng ngày 19/9/1954:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước,
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Chùa Thiên Quang: được xây theo kiểu nội công ngoại quốc,
gồm các toà Tiền đường (5 gian), Thiêu hương (2 gian), Tam bảo
(3 gian) ở phía trước, dãy hành lang, nhà Tổ ở phía sau. Các toà
được làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột xây, kèo
suốt. Mái chùa được lợp ngói mũi, có đầu đao cong. Bờ nóc tiền
đường đắp lưỡng long chầu nguyệt. Chùa thờ Phật theo lối Đại
thừa. Trước sân chùa có 2 tháp sư, hình trụ, 4 tầng; trên nóc đắp
hình hoa sen; lòng tháp xây rỗng; cửa vòm nhỏ. Trong tháp có
bia đá khắc tên các vị hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại
chùa.

Chùa còn có một gác chuông, được xây dựng vào thế kỷ XVII,
gồm 3 gian, 2 tầng mái, 4 vì kèo kiểu chồng rường kết hợp với
bẩy kẻ. Các bẩy, kẻ hầu như để trơn, không chạm trổ. Quả
chuông treo trên gác không ghi niên đại đúc chuông mà chỉ ghi:
“Đại Việt quốc, Sơn Tây đạo, Lâm Thao phủ, Sơn Vi huyện, Hy
Cương xã, Cổ Tích thôn cư phụng”.

8


Đền Trung (Hùng Vương Tổ miếu): nằm trên núi Nghĩa Lĩnh,
được xây theo kiểu hình chữ nhất, có 3 gian, quay về hướng
Nam, dài 7,2m, rộng 3,7m; mái hiên cao 1,8m. Bộ vì kiểu kèo
cầu quá giang gối vào tường, phía trước mở 3 cửa. Tương truyền
là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn
Nghĩa Lĩnh ngắm cảnh và họp bàn việc nước.

Đền Trung
Đền Thượng: Đền được đặt trên đỉnh núi, nơi ngày xưa theo
truyền thuyết các Vua Hùng thường lên tiến hành các nghi lễ,
tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa,
cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang
vật thịnh. Ngoài cổng đền có dòng đại tự: "Nam Việt triệu tổ" (tổ
tiên của người Việt phương Nam). Các công trình của đền được
xây dựng qua ba cấp khác nhau: phía trước là bức nghi môn lớn,
nhà chuông trống, tiền tế, đại bái và hậu cung. Bên phía tay trái
đền có một cột đá thề, hình vuông, cao 1,3m, rộng 0,3m, tương
truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền
ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước mà Hùng Vương
trao lại và đời đời hương khói trông nom miếu vũ họ Hùng. Năm

1968, Ty Văn hoá Vĩnh Phú tôn tạo di tích, làm bệ cho cột đá thề
như hiện nay.

9


Đền Thượng với bốn chữ Nam Việt triệu tổ
Lăng Hùng Vương: tương truyền là mộ của vua Hùng thứ 6.
Lăng mộ nằm ở phía Đông của đền Thượng, có vị trí đầu đội
sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Lăng hình
vuông, cột liền tường, có đao cong 8 góc, tạo thành 2 tầng mái;
tầng dưới 4 góc đắp 4 con rồng trong tư thế bò, tầng trên đắp
rồng uốn ngược, đỉnh lăng đắp hình “quả ngọc” theo tích “cửu
long tranh châu”; mái đắp giả ngói ống cổ; diềm 3 phía đều đắp
mặt hổ phù; ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, 2 bên cửa
đều đắp kỳ lân, xung quanh có tường bao quanh, chất liệu bằng
đá. Trong lăng có mộ vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật, dài
1,3m, rộng 1,8m, cao 1,0m. Phía trong lăng còn có bia đá ghi:
biểu chính (lăng chính). Phía trên ba mặt lăng đều có đề: Hùng
Vương lăng (lăng Hùng Vương).
Đền Giếng: tên chữ là Ngọc Tỉnh, nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, được
xây dựng vào thế kỷ XVIII, quay hướng Đông Nam, kiến trúc
kiểu chữ Công, gồm nhà tiền bái (3 gian), hậu cung (3 gian), 1
chuôi vồ và 2 nhà oản (4 gian), có phương đình nối tiền bái với
hậu cung. Tương truyền là nơi công chúa Tiên Dung và công
chúa Ngọc Hoa (con gái của Vua Hùng thứ mười tám) thường soi
gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này.
Cổng đền Giếng được xây vào thời Nguyễn, theo kiểu kiến trúc
2 tầng, 8 mái. Ở giữa tầng dưới có một cửa xây kiểu vòm, hai
bên có hai cột trụ, trên đắp nghê chầu. Trên cổng có bức đại tự

đề: “Trung sơn tiểu thất” (ngôi nhà nhỏ trong núi).

10


Đền Giếng
Đền Tổ mẫu Âu Cơ: được khởi dựng trên đỉnh Ốc sơn (thường
gọi là núi Vặn) vào năm 2001, khánh thành tháng 12 năm 2004.
Các hạng mục kiến trúc gồm: đền chính, tả, hữu vu, nhà bia, trụ
biểu, tam quan, nhà tiếp khách và hệ thống sân, vườn. Kiến trúc
đền theo lối cổ, với cột, xà, hoành, rui bằng gỗ lim, mái được lợp
bằng ngói mũi hài, tường bằng gạch. Đền chính kiểu chữ đinh,
có diện tích 137m2.
Trong đền có tượng thờ Mẹ Âu Cơ và Lạc hầu, Lạc tướng. Đường
đi lên đền được xây bằng 553 bậc đá.
Đền thờ Lạc Long Quân: Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân là
con của Kinh Dương Vương Lộc Tục và con gái Động Đình Quân
tên là Thần Long. Lạc Long Quân được xem là vị vua nước Xích
Quỷ, trước nhà nước Âu Lạc. Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem
như là thủy tổ của dân tộc Việt Nam, gắn liền với truyền thuyết
"bọc trăm trứng". Con trai cả của ông là người đã lập ra nước
Văn Lang, thống nhất 15 bộ lạc, lấy hiệu là Hùng vương đời thứ
nhất. Hiện nay đền thờ Lạc Long Quân nằm tại núi Sim của khu
di tích lịch sử Đền Hùng, cách núi Nghĩa Lĩnh (hay còn gọi là núi
Hùng) khoảng 1 km về phía Đông Nam. Đền được khởi công xây
dựng năm 2007, với tổng diện tích đất sử dụng là 13,79ha,
khánh thành năm 2009, gồm các hạng mục: nghi môn, trụ biểu,
nhà bia, đền chính (gồm tiền tế, đại bái, hậu cung), tả, hữu vu.
Trong đền đặt tượng Lạc Long Quân, đúc bằng đồng, bệ tượng,
lư hương được tạc bằng đá khối, họa tiết trang trí tinh xảo.


11


2.2. Lễ hội đền Hùng
Theo Ngọc phả Hùng Vương chép thời Hồng Đức hậu Lê thì từ
thời nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến Hậu Lê vẫn cùng
hương khói trong ngôi đền, ở đây nhân dân toàn quốc đều đến
lễ bái để tưởng nhớ công lao của Đấng Thánh Tổ xưa…" Văn học
dân gian Việt Nam nói về lễ hội đền Hùng như sau:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng ba
Lễ hội đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương là một lễ hội lớn
mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam, để tưởng nhớ và tỏ lòng
biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng. Lễ hội diễn ra vào
ngày 10 tháng 3 âm lịch, tuy nhiên, lễ hội thực chất đã diễn ra
từ hàng tuần trước đó với những phong tục như đâm đuống
(đánh trống đồng) của dân tộc Mường, hành hương tưởng niệm
các vua Hùng, và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ
rước kiệu và dâng hương trên đền Thượng. Lễ hội đền Hùng hiện
được Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nâng lên
thành giỗ quốc Tổ tổ chức lớn vào những năm chẵn.
Có 2 lễ được cử hành cùng thời điểm ngày chính hội:
Lễ rước kiệu vua: Đám rước kiệu, nhiều màu sắc của rất nhiều
cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới
chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ
dâng hương.
Lễ dâng hương: Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu
cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén
hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều

tâm niệm của mình với tổ tiên. Theo quan niệm của người Việt,
mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và những gốc cây,
hốc đá cắm đỏ những chân hương.
Phần hội có nhiều trò chơi dân gian. Đó là những cuộc thi hát
xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Phú Thọ,
những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông
Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện
chiến.

12


Từ năm 2001, giỗ tổ Hùng Vương trở thành quốc lễ. Từ năm
2007, ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm là ngày nghỉ lễ. Lê hội
đền Hùng những năm lẻ sẽ do tỉnh Phú Thọ đứng ra tổ chức.
Các năm chẵn sẽ có quy mô ở các cấp trung ương. Lễ hội đền
Hùng không chỉ diễn ra ở khu di tích lịch sử đền Hùng Phú Thọ
mà sẽ diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước như thành phố
Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng.v.v.
Theo nghị định 82/2001/NĐ-CP về việc quy ước lễ hội đền Hùng
thì:
"Năm chẵn" là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là "0", "năm
tròn" là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là "5"; Trung ương,
Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch cùng Ủy ban nhân dân tỉnh
Phú Thọ tổ chức Lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam, Ủy ban
Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể dự lễ
dâng hương.
"Năm lẻ" là số năm kỷ niệm có các chữ số cuối cùng còn lại. Ủy
ban nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời lãnh đạo Bộ Văn

hoá - Thông tin dự lễ dâng hương và tổ chức các hoạt động
trong lễ hội.
2.3. Trống đồng tại Đền Hùng
Trống đồng mang tên Trống Hy Cương được tìm thấy ở xã Hy
Cương ngay dưới chân núi Nghĩa Lĩnh ngày 7 tháng 8 năm
1990[6] khi một gia đình người dân đào hố tôi vôi. Trống khá
nguyên vẹn, có đường kính mặt 93 cm và chiều cao 70 cm, là
trống đồng Đông Sơn có kích thước lớn nhất trong tổng số trống
Đông Sơn đã biết ở Việt Nam và Đông Nam Á[7]. Trống có hoa
văn trang trí phong phú và cách điệu hóa cao độ, trong đó có
các loại hoa văn chủ đạo như hình ngôi sao mười hai cánh
đường kính đến 20 cm, tám con chim lạc dài 15 cm bay theo
hướng ngược chiều kim đồng hồ, hình người hóa trang cách điệu
chỉ có mắt và lông công, thuyền v.v. Có thể quanh Hy Cương
còn nhiều trống đồng chưa được phát hiện ra[8], nhưng với việc
phát hiện trống lớn như một bằng chứng khảo cổ tại chân núi
Nghĩa Lĩnh, cho thấy vị trí đặc biệt của Hy Cương và đền Hùng
trong lịch sử dân tộc (trống lớn thường thuộc sở hữu của một vị

13


tù trưởng hoặc thủ lĩnh rất lớn), là một trong những minh chứng
khẳng định tính lịch sử của huyền thoại các vua Hùng. Trống
hiện được lưu giữ trong Bảo tàng Hùng Vương với số đăng ký ĐH
2012 (theo số mới), số cũ là 1549.
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử
Đền Hùng
3.1. Phương hướng bảo tồn
Theo quy hoạch, phạm vi Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt

Đền Hùng có tổng diện tích 845 héc-ta, bao gồm các xã,
phường: Hy Cương, Chu Hóa và Vân Phú (thành phố Việt Trì);
Tiên Kiên (huyện Lâm Thao) và Phù Ninh (huyện Phù Ninh).
Trong đó, Khu vực I (vùng lõi) có diện tích 32,2ha, bao gồm các
di tích Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ, Đền Giếng, Lăng Vua
Hùng, Chùa Thiên Quang, Bảo tháp, Nhà thờ Tổ, gác Chuông.
Khu vực này tiếp tục bảo tồn nguyên trạng các di tích, hệ thống
đường bậc, cây xanh cảnh quan và rừng nguyên sinh.
Khu vực II (vùng đệm) có diện tích 812,8ha, bao gồm các khu
Núi Vặn, núi Trọc; khu Trung tâm lễ hội; khu cảnh quan Hồ Mẫu;
khu rừng quốc gia Đền Hùng và cảnh quan sinh thái phía Bắc;
tháp Hùng Vương; đài tưởng niệm liệt sỹ và đền thờ Quốc tổ Lạc
Long Quân và khu dân cư hiện trạng. Định hướng phát triển
vùng đệm chủ yếu là không gian kiến trúc, cảnh quan thiên
nhiên bảo vệ khu di tích, không gian tổ chức lễ hội và dịch vụ
du lịch.
Mục tiêu của quy hoạch nhằm bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát
huy giá trị lịch sử, cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái
của Khu di tích lịch sử Đền Hùng; định hướng kế hoạch tổng thể
quản lý và đầu tư xây dựng, tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị
Khu di tích lịch sử Đền Hùng.
Đồng thời, tạo lập các không gian tưởng niệm, tôn vinh các vua
Hùng và các bậc tiền nhân thời đại Hùng Vương để Khu di tích
lịch sử Đền Hùng là nơi giáo dục truyền thống yêu nước, đoàn
kết dân tộc, điểm du lịch về với cội nguồn dân tộc đặc biệt hấp
dẫn; tổ chức hệ thống hạ tầng phù hợp với các giai đoạn bảo
tồn và tôn tạo khu di tích.

14



3.2. Phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là tín ngưỡng đầu tiên của thế
giới được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể của
nhân loại. Theo thống kê, cả nước hiện có trên 1.400 địa điểm
có di tích thờ cúng các Vua Hùng và nhân vật liên quan đến thời
đại Hùng Vương. Riêng Phú Thọ có hơn 300 di tích liên quan đến
thời Hùng Vương, trong đó có trên 100 di tích thờ Vua Hùng.
Tỉnh đã thông qua công tác kiểm kê để nắm được tổng thể và
thực trạng không gian Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, từ đó
có biện pháp bảo tồn, khôi phục và phát huy đồng thời đề xuất
Bộ VH-TT&DL ban hành văn bản bổ sung nội dung hướng dẫn tổ
chức Giỗ Tổ Hùng Vương tại các di tích thờ cúng Vua Hùng và
các nhân vật liên quan đến thời đại Hùng Vương trong cả nước
để thực hành thống nhất.

Sau 4 năm kể từ năm 2014, cùng thời điểm tỉnh Phú Thọ thay
mặt đồng bào cả nước dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng
ngày mùng 10 tháng 3 tại Điện Kính Thiên trên đỉnh Nghĩa Lĩnh
- Khu Di tích lịch sử Đền Hùng, các địa phương ở Phú Thọ có di
tích thờ cúng Hùng Vương, các tướng lĩnh thời đại Hùng Vương
cũng đã đồng loạt làm lễ dâng hương, tri ân công đức các bậc
tiền nhân có công mở núi, đắp nền, dựng nên bờ cõi.
Sau khi Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được UNESCO vinh
danh, UBND tỉnh đã phê duyệt đề tài khoa học “Điều tra, nghiên
cứu phục dựng và chuẩn hóa nghi lễ thờ cúng Hùng Vương ở
Phú Thọ”, đây là căn cứ chuẩn hóa nghi lễ thờ cúng Hùng Vương
để thực hành tại các di tích thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ và
các di tích thờ cúng Hùng Vương trên cả nước. Tỉnh không chỉ
quan tâm tôn tạo Khu Di tích lịch sử Đền Hùng mà còn tăng


15


cường đầu tư tu bổ nhiều di tích tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương thuộc các xã vùng ven Đền Hùng và trong tỉnh, nhằm
đảm bảo không gian thiêng cho quần chúng nhân dân thực
hành, tổ chức các nghi lễ tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đảm
bảo trang nghiêm, đúng với nghi thức truyền thống địa phương.
Các ngành chức năng của tỉnh tiếp tục sưu tầm các truyền
thuyết, sắc phong, ngọc phả, tài liệu Hán Nôm; khôi phục và tổ
chức tốt một số lễ hội dân gian liên quan đến Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương như: Lễ hội Trò Trám, lễ hội làng He, lễ rước
vua về làng ăn tết, lễ rước ông Khiu bà Khiu, lễ hội ném chài, lễ
hạ điền và tín ngưỡng phồn thực, lễ dâng bánh chưng - bánh
giầy.
Công tác tuyên truyền, quảng bá tổ chức các nghi lễ Giỗ Tổ
Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng trên phương tiện thông tin đại
chúng được chú trọng, phong phú về nội dung, đa dạng về hình
thức. Tỉnh bước đầu đưa nội dung Tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương vào chương trình giáo dục ngoại khóa trong các trường
học phổ thông; tổ chức cho các em học sinh chăm sóc, tham
quan các di tích thờ cúng Hùng Vương. Bên cạnh việc phối hợp
với các đơn vị liên quan nghiên cứu, kiểm kê khoa học các di
tích thờ cúng Hùng Vương, tỉnh còn thực hiện tu bổ, tôn tạo Khu
Di tích lịch sử Đền Hùng theo quy hoạch phát triển mở rộng;
việc xây dựng tạo sự đồng bộ, hài hòa giữa cảnh quan môi
trường, mạng lưới giao thông nhằm tạo điều kiện thuận lợi và
ấn tượng tốt đẹp cho đồng bào hành hương về lễ Tổ.
Từ nguồn xã hội hóa của các cá nhân, tổ chức, nhiều hạng mục

trong Khu Di tích lịch sử Đền Hùng đã được tu bổ, tôn tạo hoặc
xây dựng mới như thay mới toàn bộ đường bậc từ cổng chính
lên đền Thượng, tôn tạo sân đền Hạ, cải tạo chùa Thiền Quang,
xây dựng cảnh quan khu vực chân núi như hoàn thành đường
trục hành lễ, bãi đỗ xe, hồ sinh thái. Nhiều di tích tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương trong tỉnh tiếp tục được bảo tồn, tu, tạo điều
kiện để nhân dân địa phương có không gian tổ chức các nghi lễ
tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đảm bảo trang nghiêm, đúng
với nghi thức truyền thống. Với các xã vùng ven Khu Di tích lịch
sử Đền Hùng, bên cạnh việc tham gia các hoạt động dịp lễ hội
Đền Hùng, chính quyền và người dân còn tích cực quản lý, bảo

16


tồn quần thể di tích văn hóa có từ thời Hùng Vương như miếu
Giã, chùa Quan Mạc, trong đó tiêu biểu là Đình Cả, nơi thờ tự
Hùng Vương thứ 16, 17 và 18 ở xã Tiên Kiên, huyện Lâm Thao.
Để tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương phát huy giá trị di sản,
trong thời gian tới, tỉnh tiếp tục phối hợp với các ngành liên
quan đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình Quốc gia về “Bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương” với phương châm: Vừa huy động sự tham gia
tối đa của cộng đồng trong việc giữ gìn, sáng tạo và chuyển
giao di sản, vừa nâng cao năng lực quản lý của chính quyền các
cấp trong việc bảo vệ di sản, để việc bảo tồn Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương trở thành hình mẫu trong công tác quản lý,
phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống.

17



KẾT LUẬN
Không chỉ mang ý nghĩa di tích lịch sử văn hóa đặc biệt của
quốc gia, khu di tích Ðền Hùng còn là một quần thể kiến trúc và
tín ngưỡng độc đáo, thể hiện bản sắc dân tộc và đạo lý "uống
nước nhớ nguồn", tưởng nhớ và tri ân công lao dựng nước của
Tổ tiên người Việt.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />
19



×