Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

QUẢN LÍ – KHAI THÁC DI SẢN VĂN HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.37 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM - ÐẠI HỌC ÐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Đề tài: MỐI QUAN HỆ GIỮA DI SẢN VĂN HÓA VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH
(Học phần: QUẢN LÍ – KHAI THÁC DI SẢN VĂN HĨA)

Sinh viên thực hiện
Lớp
Giảng viên hướng dẫn

: VÕ HỒNG TRINH
: 15CVHH
: THẦY HỒ TẤN TUẤN

Ðà Nẵng, tháng 12/2018


MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU
Di sản văn hóa là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân tộc.
Đó là những giá trị văn hóa có sức sống trường tồn, đã vượt qua
được sự thẩm định của thời gian để từ quá khứ đến được với
hiện tại. Di sản văn hóa dân tộc là tài sản quý giá của mỗi quốc
gia, là linh hồn, hạt nhân gắn kết dân tộc. Là biểu hiện rõ nét
của bản sắc văn hóa dân tộc, di sản văn hóa đặc biệt quan
trọng trong thời đại tồn cầu hóa hiện nay. Vị trí địa lý và lịch sử


văn hoá đã đem lại cho Việt Nam nhiều di sản rất có giá trị trải
dọc theo chiều dài đất nước. Những giá trị đó là nguồn tài
nguyên quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển
của ngành du lịch Việt Nam. Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu kĩ
hơn về mối quan hệ giữa di sản văn hóa và phát triển du lịch.

3


Chương 1: Khái quát về Di sản Văn hóa và Du lịch
1.1.
Khái niệm
1.1.1. Di sản văn hóa
Theo UNESCO: “Di sản văn hóa là tồn bộ kết quả sáng tạo văn
hóa của các thế hệ trước để lại”. Di sản văn hóa gồm: Di sản
văn hóa hữu thể (Tangble) và di sản văn hóa vơ thể (Intangble).
Theo luật di sản văn hóa có hiệu lực từ ngày 1/1/2002 thì “Di
sản văn hóa” được định nghĩa như sau: “Di sản văn hóa bao
gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản
phẩm tinh thần vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học
được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch
sử văn hóa, khoa học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được
lưu truyền bằng miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức
lưu giữ lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, diễn xướng dân
gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công
truyền thống, tri thức về y học, dược học cổ truyền, về văn hóa
ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức
dân gian khác.








Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử văn hóa, danh lam
thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Di tích lịch sử văn hóa là cơng trình xây dựng, địa điểm và các
di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm
có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến
trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.
Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học.
Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch
sử văn hóa, khoa học có từ một trăm năm tuổi trở lên.
Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc
biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa
học.

4


1.1.2. Du lịch
Du lịch là việc thực hiện một chuyến đi của con người, với nhiều
mục đích cụ thể riêng biệt đến một nơi khác mà không phải để

định cư và có sự trở về sau chuyến đi. Du lịch là đi để vui chơi,
giải trí là việc thực hiện chuyến đi khỏi nơi cư trú, có tiêu tiền,
có lưu trú qua đêm và có sự trở về. Mục đích của chuyến đi là
giải trí, nghỉ dưỡng, thăm thân nhân, công tác, hội nghị khách
hàng hay du lịch khen thưởng, hoặc nhằm mục đích kinh doanh.
Các Tổ chức Du lịch Thế giới định nghĩa khách du lịch như
những người "đi du lịch đến và ở lại ở những nơi bên ngoài nơi
cư trú thường xuyên của họ trong hơn 24 giờ và khơng q một
năm liên tiếp cho giải trí, kinh doanh và các mục đích khác
khơng liên đến những nhân viên hướng dẫn du lịch của tổ chức
thực hiện việc du lịch đó."
1.2.

Đặc điểm

1.2.1 Di sản văn hóa
Di sản văn hoá bao gồm hầu hết các giá trị văn hoá do thiên
nhiên và con người tạo nên trong quá khứ. Nó là phần tinh tuý
nhất, tiêu biểu nhất đọng lại sau hàng loạt hoạt động sáng tạo
của con người từ đời này qua đời khác. Di sản văn hoá là những
giá trị văn hố đặc biệt bền vững vì nó phải được thẩm định một
cách khắt khe bằng sự thừa nhận của cả cộng đồng người trong
một thời gian lịch sử lâu dài, đó chính là tính chất đặc thù của di
sản văn hóa, phân biệt với khái niệm văn hóa nói chung. Bởi
vậy, có thể nói di sản văn hoá là bộ phận quan trọng nhất, cơ
bản nhất của nền văn hố nếu khơng muốn nói là tất cả. Những
hoạt động văn hoá đương đại trong chừng mực nào đó chỉ mới là
biểu hiện của văn hố, một phần có thể được coi là hoạt động
sáng tạo mà kết quả của nó chưa thể khẳng định ngay là sản
phẩm tiêu biểu, tinh tuý của văn hoá dân tộc, vì cịn thiếu một

yếu tố cơ bản là sự thẩm định của thời gian. Xét về mặt triết học
thì quan hệ giữa văn hóa và di sản văn hóa là quan hệ của
phạm trù cái chung và cái riêng. Văn hóa là cái chung, di sản
văn hóa là cái riêng. Mọi yếu tố của di sản văn hóa đều là văn

5


hóa, nhưng khơng phải mọi yếu tố của văn hóa đều là di sản
văn hóa, vì trong văn hóa cịn nhiều yếu tố bị mai một trong
dòng chảy lịch sử, do không vượt qua đuợc thử thách của thời
gian nên không được lưu truyền lại cho thế hệ sau thành di sản
văn hóa, hoặc những yếu tố văn hóa mới được hình thành chưa
được thẩm định của thời gian.

1.2.2 Du lịch
Du lịch là ngành khơng khói, ít gây ơ nhiễm môi trường, giúp
khách du lịch vừa được nghỉ ngơi, giảm stress vừa biết thêm
nhiều điều hay mới lạ mà khách chưa biết. Du lịch cịn góp phần
phát triển kinh tế của đất nước, tạo việc làm và tăng thu nhập
cho người lao động (hướng dẫn viên, các dịch vụ liên quan...).
Hiện nay ngành du lịch đang phát triển mạnh ở các nước thuộc
thế giới thứ ba. Nhu cầu về du lịch càng tăng thì vấn đề bảo vệ
mơi trường cần phải được coi trọng. Có một dạng du lịch nữa,
đó là du lịch xúc tiến thương mại, vừa đi du lịch vừa kết hợp làm
ăn, cũng rất phổ biến tại Việt Nam.
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, có các dạng du lịch:
















Du
Du
Du
Du
Du
Du
Du
Du
Du
Du
Du
Du
Du
Du

lịch
lịch
lịch

lịch
lịch
lịch
lịch
lịch
lịch
lịch
lịch
lịch
lịch
lịch

làm ăn.
giải trí, năng động và đặc biệt.
nội quốc, quá biên.
tham quan trong thành phố.
mạo hiểm, khám phá, trải nghiệm.
hội thảo, triển lãm MICE.
giảm stress, Du lịch ba-lô, tự túc khám phá.
bụi.
tình dục.
biển đảo.
văn hóa.
sinh thái.
y tế.
người cao tuổi.

6



1.3.

Vai trị của Di sản văn hóa với phát triển Du lịch

Phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa là hai mặt của một thể
thống nhất, có tác động tương hỗ lẫn nhau trong quá trình phát
triển của mỗi xã hội mà văn hóa được xem là nền tảng. Việc
phát huy các giá trị văn hố sẽ có tác dụng làm tăng ý thức,
trước hết là của mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc và của
bè bạn quốc tế đối với trách nhiệm bảo tồn các giá trị văn hóa.
Ngược lại việc bảo tồn sẽ là cơ sở và tạo ra cơ hội có được các
giá trị văn hóa để tự hào, để giới thiệu với các dân tộc khác, các
quốc gia khác trên thế giới.
Du lịch là một ngành kinh tế có định hướng tài nguyên một cách
rõ rệt, hay nói một cách khác du lịch chỉ có thể phát triển trên
cơ sở khai thác các giá trị tài nguyên du lịch. Đứng từ góc độ
này, các giá trị văn hóa được xem là dạng tài nguyên du lịch để
khai thác tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn, khác biệt và có
khả năng cạnh tranh không chỉ giữa các vùng miền, các địa
phương trong nước mà còn giữa Việt Nam với các nước trong
khu vực và quốc tế.
Có nhiều phương thức tiếp cận để phát huy các giá trị văn hóa,
tuy nhiên du lịch được xem là phương thức phát huy có hiệu quả
nhất, đặc biệt đối với bạn bè quốc tế. Không phải ngẫu nhiên du
lịch được xem là “cầu nối” giữa các dân tộc, giữa các nền văn
hóa trên thế giới. Qua hoạt động hướng dẫn du lịch, du khách có
cơ hội khơng chỉ được tận mắt nhìn thấy trong thực tế, mà còn
được hiểu về giá trị các di sản văn hóa nơi mình đến du lịch.
Nhiều giá trị văn hóa chỉ có thể cảm nhận được trong những
khung cảnh thực của tự nhiên, của nếp sống truyền thống cộng

đồng mà khơng thể có phim ảnh, diễn xuất nào có thể chuyển
tải được. Và chỉ có du lịch mới có thể đem lại cho du khách
những trải nghiệm đặc biệt, sống động.
Cơng tác bảo tồn các giá trị văn hố địi hỏi có kinh phí cho hoạt
động thu thập, nghiên cứu di sản; bảo vệ, tu sửa, tôn tạo, v.v.
bên cạnh những yêu cầu về kinh nghiệm, về đội ngũ, về trình
độ khoa học cơng nghệ, v.v. trong lĩnh vực bảo tồn. Nguồn kinh
phí dành cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa từ ngân sách

7


nhà nước và hợp tác quốc tế thường rất hạn hẹp so với nhu cầu
thực tế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công
tác bảo tồn văn hoá.
Trong bối cảnh trên, nguồn thu từ du lịch sẽ là đóng góp quan
trọng cho hoạt động bảo tồn của chính những giá trị văn hố.
Như vậy có thể thấy mối quan hệ tương hỗ mật thiết giữa bảo
tồn với phát huy di sản văn hóa và giữa bảo tồn, phát huy di
sản với hoạt động phát triển du lịch. Đây là những mối quan hệ
biện chứng cần được nhìn nhận một cách khách quan và đầy đủ
để xây dựng định hướng khai thác có hiệu quả các gía trị di sản
văn hóa phục vụ phát triển du lịch và xây dựng các chính sách
phù hợp để du lịch có thể có những đóng góp tích cực và trách
nhiệm nhất cho hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị di sản
văn hóa.
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính xã hội hố cao vì vậy
hoạt động phát triển du lịch có thể thu hút và cần được sự tham
gia rộng rãi của các thành phần kinh tế và cộng đồng xã hội.
Đây được xem là một trong những “điểm mạnh” so sánh của du

lịch so với các ngành kinh tế khác.
Chính vì vậy một trong những phương thức tiếp cận quan trọng
cho phát triển du lịch bền vững là đẩy mạnh phát triển du lịch
cộng động đồng, trong đó các giá trị truyền thống và vai trị của
cộng đồng được phát huy đầy đủ nhất.

8


Chương 2: Mối quan hệ giữa Di sản Văn hóa với phát
triển du lịch
2.1. Di sản văn hóa với sự phát triển kinh tế - xã hội
Di sản là một tài sản vơ cùng q giá của dân tộc. Nó là cốt lõi,
là cơ sở để gắn kết cộng đồng dân tộc và là cơ sở để tạo ra
những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Trong thời đại ngày nay,
dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, với cách nhìn nhận
mới và quan niệm mới khi đánh giá di sản văn hóa là một sản
phẩm du lịch thì di sản văn hóa khơng những khơng chỉ đáp ứng
nhu cầu tinh thần, vật chất của con người mà còn là nguồn lực
to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, của
một vùng hay của một quốc gia. Ta có thể tóm tắt ý nghĩa của
di sản đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong thời đại ngày
nay một cách sơ lược như sau:
- Nguồn di sản của cha ông với những di tích lịch sử, bia mộ, gia
phả cịn lưu lại đến ngày nay cùng với các nguồn tư liệu lịch sử
là những minh chứng hùng hồn thể hiện sự tồn tại và phát triển
của một dân tộc, tộc người tại quốc gia hay địa phương đó. Từ
đó con người sẽ có ý thức về cội nguồn của mình, dân tộc mình
và hiểu rõ về những biến cố thăng trầm lịch sử của dân tộc.
- Các di sản văn hóa cịn lưu giữ cho đến ngày nay có tác dụng

giáo dục tinh thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc một
cách to lớn. Có thể nói, mỗi con người khi tiếp xúc trực tiếp với
các thành tựu văn hóa của dân tộc mình đặc biệt lại có sự giải
thích của người am hiểu về nó ta sẽ thực sự cảm nhận được giá
trị to lớn của các di tích. Ví dụ khi đứng trước sườn núi Tản Viên
nhìn xuống những con đê bên dưới, nghe hướng dẫn viên kể về
sự tích “Sơn Tinh - Thủy Tinh” ta sẽ thấy con đê bình thường kia
có ý nghĩa biết bao và mỗi khi thấy nó ta sẽ có cảm giác tự hào
và nó chính là xương máu, mồ hơi của biết bao thế hệ người
dân Việt Nam.
- Thực tế đã chứng minh, một nơi có nguồn di sản văn hóa phong
phú, giàu bản sắc dân tộc thì hàng năm nơi đó thu hút được một
lượng khách lớn. Khách từ khắp nơi đổ về sẽ có tác động đến
nhiều mặt của đời sống xã hội địa phương mà trong đó điều dễ
dàng nhận thấy là nó làm cho cuộc sống của địa phương ngày
càng sôi động, nhộn nhịp hơn. Mặt khác, quá trình giao lưu tiếp

9


xúc của khách với người dân địa phương sẽ là điều kiện để các
nền văn hóa hịa nhập với nhau làm cho mọi người hiểu về nhau
hơn và tăng thêm tình hữu nghị, tương thân, tương ái giữa các
cộng đồng.
- Nơi có nguồn di sản văn hóa có giá trị lớn đặc biệt là những nơi
được công nhận là di sản thế giới thì ở đó có nhiều ưu thế và
điều kiện để phát triển kinh tế hơn so với các địa phương khác
thông qua hoạt động du lịch, đồng thời có tác động nhiều mặt
đến nền kinh tế của địa phương.
- Khi một nơi có nguồn di sản hấp dẫn và trở thành một điểm du

lịch thì du khách từ mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu vật chất
tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một số lượng lớn vật tư, hàng hóa
các loại đã kích thích mạnh mẽ đến các ngành kinh tế có liên
quan như nông nghiệp, công nghiệp chế biến, giao thông vận
tải, dịch vụ. Từ đó tạo ra nhiều việc làm cho người dân và giảm
bớt nạn thất nghiệp góp phần ổn định trật tự xã hội ở địa
phương.
Như vậy, với nguồn di sản phong phú mà biết cách khai thác để
phục vụ du lịch thì sẽ có tác dụng to lớn trong việc làm thay đổi
bộ mặt kinh tế xã hội của khu vực cả về nhận thức cũng như đời
sống tinh thần của người dân. Chính vì vậy, nhiều nước trên thế
giới đã coi di sản văn hóa như một hạt nhân của hoạt động kinh
doanh du lịch và góp phần không nhỏ để vực dậy nền kinh tế
ốm yếu của đất nước.
2.2. Tầm quan trọng của di sản văn hóa đối với việc phát triển
du lịch
Di sản văn hóa là một thành tố quan trọng tạo nên sản phẩm du
lịch và tạo nên sức hấp dẫn trong du lịch. Chúng ta có thể hiểu
di sản văn hóa được coi như là tổng quan cuộc sống của mỗi
cộng đồng dân tộc. Nó bao hàm cả đặc trưng về phong cách, lối
sống, thói quen, phong tục tập quán đến những giá trị vật chất
được lưu truyền từ ngàn xưa cho đến nay. Mà những thành tố
này đều được hình thành từ những tác động tương hỗ nhằm
thích ứng với hồn cảnh mơi trường thực tại.
Các tài nguyên du lịch văn hóa được coi là tài nguyên du lịch
đặc biệt hấp dẫn. Nếu như tài nguyên du lịch tự nhiên hấp dẫn
du khách bởi sự hoang sơ, độc đáo và hiếm hoi của nó thì tài

10



nguyên du lịch nhân văn thu hút khách bởi tính phong phú, đa
dạng, độc đáo và tính truyền thống cũng như tính địa phương.
Các đối tượng di sản văn hóa - tài nguyên du lịch nhân văn là cơ
sở để tạo nên loại hình du lịch văn hóa phong phú. Mặt khác
nhận thức văn hóa cịn là yếu tố thúc đẩy động cơ du lịch của
du khách.
Như vậy, xét dưới góc độ thị trường thì văn hóa vừa là yếu tố
cung vừa góp phần hình thành yếu tố cầu của hệ thống du lịch.
Trong một chừng mực nào đó ta có thể xét mối quan hệ giữa du
lịch và văn hóa thơng qua một số phương tiện và sản phẩm văn
hóa, cụ thể:
• Các sản phẩm tranh vẽ, điêu khắc, tượng nặn… tạo nên một
động lực thúc đẩy tầm quan trọng của du lịch. Tranh Đông Hồ,
tranh lụa… là những loại hình nghệ thuật mà du khách rất ưa
thích. Khi đến Huế về hầu như ai cũng mua cho mình hoặc bạn
bè một chiếc nón bài thơ. Người đi đến các vùng biển thì thường
tìm mua một số đồ lưu niệm được làm bằng các chất liệu có từ
biển hoặc mơ phỏng cuộc sống vùng biển.
• Trình diễn dân ca và các loại hình văn nghệ truyền thống cũng
như hiện đại cũng là một biểu hiện của di sản văn hóa. Thực tế
ở một số nước, âm nhạc là nguồn chủ yếu để mua vui và làm
hài lòng du khách tại các cơ sở lưu trú. Đặc biệt các khách sạn,
nhà nghỉ tại các nơi nghỉ mát có thể mang lại cơ hội cho du
khách thưởng thức âm nhạc dân tộc một cách tốt nhất. Các
chương trình giải trí buổi tối, hịa nhạc ghi âm đều làm tăng khía
cạnh nghệ thuật đang tồn tại của quốc gia đó. Hịa nhạc, diễu
hành và các lễ hội được du khách rất hoan nghênh. Các băng
hình, băng nhạc mà khách có thể mua được là phương tiện rất
hiệu quả nhằm duy trì, gìn giữ nền văn hóa của một địa phương.

• Điệu nhảy dân tộc truyền thống tạo nên một sức hút hết sức lôi
cuốn, sôi động và mạnh mẽ của một nền văn hóa đối với du
khách. Các hình thức và chương trình tiến hành đầy màu sắc,
trang phục cổ truyền dân tộc và trình độ nghệ thuật đã tăng
thêm sức cuốn hút. Hầu hết các dân tộc đều có điệu nhảy của
mình. Các buổi biểu diễn khu vực và các chương trình cơng
cộng khác cũng tạo thêm nhiều cơ hội mới để duy trì và phát
huy truyền thống văn hóa dân tộc.

11


Tầm tác động, ảnh hưởng và sức hấp dẫn của di sản phụ thuộc
và giá trị của nó. Một di sản có giá trị càng lớn thì tầm tác động,
ảnh hưởng và sức hấp dẫn của nó càng lớn. Điển hình là các di
sản văn hóa thế giới của Việt Nam như Cố Đô Huế, Thánh địa
Mỹ Sơn, Phố cổ Hội An… được đánh giá có giá trị tồn cầu thì
thực tế cũng chứng minh nó có sức hấp dẫn tồn cầu. Hàng
năm, một lượng du khách lớn khơng chỉ trong nước mà trên
toàn thế giới đến tham quan và thưởng thức giá trị của nó.
2.3. Tác động của hoạt động du lịch đối với di sản văn hóa
Một trong những ý nghĩa của du lịch là góp phần cho việc phục
hồi và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc. Nhu cầu về
nâng cao nhận thức văn hóa trong chuyến đi của du khách thúc
đẩy các nhà cung ứng chú ý, yểm trợ cho việc khơi phục, duy trì
các di tích, lễ hội, sản phẩm làng nghề để thu hút du khách. Từ
đó góp phần bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Và
ngược lại, việc phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là góp phần
làm cho du lịch phát triển. Hoạt động du lịch phát triển đã tạo
ra nguồn thu để tạo đầu tư cho công tác bảo tồn. Thông qua

hoạt động du lịch, việc khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa
truyền thống đã mang lại nguồn lợi cho người dân và địa
phương, góp phần vào việc nâng cao nhân thức của họ trong
việc phát huy các giá trị truyền thống. Ngày nay, nhu cầu về du
lịch văn hóa, du lịch nhân văn, du lịch trở về với cội nguồn đang
trở thành một nhu cầu cần thiết và chính đáng của con người thì
mối quan hệ giữa di sản văn hóa với du lịch càng trở nên gắn bó
khăng khít với nhau. Các điểm du lịch cịn tạo ra một khơng
gian và mơi trường sống cho các hoạt động văn hóa dân gian
truyền thống gắn với các di tích đặc biệt là các giá trị văn hóa
phi vật thể (như ca Huế, nhã nhạc cung đình Huế, hát quan họ,
nghệ thuật ẩm thực). Hoạt động du lịch góp phần thổi hồn vào
di tích, đưa các giá trị truyền thống tham gia vào cuộc sống
hàng ngày với người dân. Điều này đã góp phần giáo dục lịng
u nước và tự hào dân tộc cho mỗi người dân địa phương, cho
những du khách đến từ mọi miền của Tổ quốc.
Một trong những chức năng của du lịch là giao lưu văn hóa giữa
các cộng đồng. Từ việc giao lưu này, các di sản văn hóa cịn tiếp
nhận những cái mới trên cơ sở giữ nguyên bản chất có sự sàng

12


lọc sẽ tạo ra văn hóa dân tộc ngày càng trở nên tiên tiến, đậm
đà bản sắc, thích ứng và hội nhập chung với nền văn hóa thế
giới mà vẫn khơng mất đi bản sắc riêng của mình.
Đi du lịch, trong quá trình giao lưu tiếp xúc và cảm nhận, con
người sẽ dần đồng cảm, gần gũi và thấu hiểu văn hóa địa
phương. Đồng thời nhận thức giá trị và tầm quan trọng của di
sản địa phương mà từ đó có hành vi tun dương, bảo vệ thậm

chí có những hành động thiết thực để đầu tư bảo tồn, phát triển
cho giá trị di sản văn hóa đó. Tuy nhiên xét về một khía cạnh
nào đó thì du lịch cũng có những tác động xấu đến bản sắc văn
hóa địa phương. Nhiều khi sự thâm nhập với mục đích chính
đáng lại bị lạm dụng và sự thâm nhập biến thành sự xâm hại. Ai
đến Sa Pa cũng muốn đi chợ Tình song chợ Tình Sa Pa - một nét
sinh hoạt văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc đang bị
những du khách tị mị, ít văn hóa xâm hại bằng những cử chỉ
thô bạo như rọi đèn vào các cặp tình nhân, lật nón các thanh nữ
để xem mặt. Mặt khác để thỏa mãn nhu cầu của du khách, vì lợi
ích kinh tế trước mắt nên các hoạt động văn hóa truyền thống
được trình diễn một cách thiếu tự nhiên hoặc mang ra làm trò
cười cho du khách. Nhiều nhà cung ứng du lịch đã thuyết phục
được địa phương thường xuyên trình diễn lại các phong tục, lễ
hội cho khách xem. Nhiều trường hợp do thiếu hiểu biết về
nguồn gốc, ý nghĩa các hành vi của lễ hội nên người ta đã giải
thích một cách sai lệch các giá trị đó.
Như vậy, những giá trị văn hóa đích thực của một cộng đồng
đáng lý phải được tôn trọng lại bị đem ra làm trò tiêu khiển,
mua vui cho du khách. Giá trị truyền thống đã dần bị lu mờ do
sự lạm dụng về mục đích kinh tế.

13


Chương 3: Thực trạng và phương hướng phát triển giữa
di sản văn hóa và du lịch
3.1. Thực trạng
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp chỉ có thể phát triển trên cơ
sở khai thác các giá trị tài nguyên du lịch. Từ góc độ này, kho

tàng di sản đồ sộ ở cả loại hình vật thể, phi vật thể cùng hệ
thống di tích thiên nhiên, lịch sử, văn hóa phong phú, dày đặc
của Việt Nam chính là nguồn tài nguyên du lịch lớn, góp phần
quan trọng tạo nên sự hấp dẫn, độc đáo cho sản phẩm du lịch
giữa các vùng miền, địa phương trong nước và giữa Việt Nam
với các quốc gia khác.
Ở chiều ngược lại, hoạt động du lịch cũng là cầu nối hữu hiệu
giúp quảng bá, phát huy giá trị di sản, mang lại lợi ích thiết thực
cho cộng đồng, từ đó giới thiệu hình ảnh, văn hóa Việt Nam tới
công chúng cả nước, nhất là bạn bè quốc tế. Đơn cử, năm 2017,
Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) đã đón hơn 3,6 triệu lượt khách,
trong đó có 2,4 triệu lượt khách quốc tế, thu khoảng 1.100 tỷ
đồng từ bán vé; quần thể di tích Cố đơ Huế đón khoảng 3 triệu
lượt khách, trong đó có hơn 1,8 triệu lượt khách quốc tế, thu
hơn 320 tỷ đồng từ bán vé; Khu phố cổ Hội An (Quảng Nam)
đón 1,96 triệu lượt khách, thu về 219 tỷ đồng từ bán vé… Như
vậy, có thể thấy giữa hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn
hóa với phát triển du lịch có mối quan hệ tương hỗ mật thiết.
Nếu biết quản lý, sử dụng đúng hướng, di sản sẽ là nguồn lực
lớn mang đến lợi nhuận lâu dài, bền vững cho du lịch nói riêng
và nền kinh tế - xã hội nói chung.
Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động du lịch dựa trên khai thác di
sản thời gian qua, dễ nhận thấy để đạt mục tiêu tăng trưởng
kinh tế, phần thua thiệt thường thuộc về di sản khi công tác bảo
tồn “nguồn vốn tự nhiên” này chưa được coi trọng đúng mức.
Bằng chứng là để đánh đổi cho những cơng trình hồnh tráng
như các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, hệ thống cáp treo…;
hàng trăm nghìn héc-ta rừng đã biến mất, nhiều bãi biển đẹp bị
biến dạng, nhiều dãy núi bị tàn phá; và cùng với đó là sự biến
đổi hệ sinh thái tự nhiên cũng như mơi trường văn hóa của cộng

đồng dân cư trong khu vực. Ở châu Á, UNESCO từng lên tiếng
cảnh báo đối với In-đô-nê-xi-a khi văn hóa bản địa ở Ba-li gần

14


như biến mất do phát triển du lịch “nóng”. Cố đơ Ayutthaya, di
sản văn hóa thế giới nổi tiếng của Thái-lan cũng từng làm chính
phủ nước này đau đầu khi hoạt động du lịch có khả năng làm
biến đổi các giá trị căn bản của di tích đã được Cơng ước Bảo
tồn Di sản văn hóa thiên nhiên ghi nhận. Đáng chú ý, thung
lũng Elbe ở Đức đã phải rút khỏi danh sách di sản thế giới do
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Còn ở Việt Nam, Vịnh Hạ
Long không dưới một lần lọt vào tầm ngắm báo động của
UNESCO bởi các hạng mục kinh tế, du lịch phát triển ồ ạt làm
thay đổi cảnh quan, môi trường nơi đây. Báo giới từng tốn khơng
ít giấy mực khi phải “kêu cứu” cho nhiều di sản của Việt Nam
trước làn sóng du lịch. Ấy là khi các hang động ở Vịnh Hạ Long
trở thành địa điểm tổ chức những dạ tiệc xa hoa cho du khách;
bên trong động Thiên Đường (Quảng Bình) có nguy cơ trở thành
nơi tổ chức Cuộc thi Hoa hậu Hịa Bình Thế giới 2017; những dự
án đầu tư du lịch ở bán đảo Sơn Trà gây ảnh hưởng nghiêm
trọng tới cảnh quan, hệ sinh thái của nơi được ví là “lá phổi
xanh” của Đà Nẵng; hay khi dự án xây dựng cáp treo và khai
thác con đường thám hiểm xun động Sơn Đng (Quảng
Bình) gây nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận… Mới đây những
chuyên gia di sản và công chúng lại tiếp tục ngỡ ngàng, đau xót
khi một “cơng trình du lịch đồ sộ” bỗng mọc lên ngay giữa vùng
lõi Khu di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới Tràng An (Ninh
Bình) mà khơng hề được cấp phép; tượng Bà Chúa Xứ thứ hai

cũng được doanh nghiệp lén lút thi công trên núi Sam (An
Giang). Dù các cơng trình này đã buộc phải tháo dỡ, nhưng
những tổn thương mà chúng gây ra đối với cảnh quan, hệ sinh
thái di sản khó có thể khắc phục. Rõ ràng, nếu mối quan hệ biện
chứng giữa phát triển du lịch và bảo tồn, phát huy giá trị di sản
khơng được nhìn nhận một cách khách quan, đầy đủ, có định
hướng thì sự phát triển du lịch theo kiểu đặt mục tiêu kinh tế
lên hàng đầu sẽ chỉ mang đến những lợi ích ngắn hạn trước mắt
và để lại hậu quả dài lâu.
3.2. Phương hướng phát triển
Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, có tính liên ngành,
liên vùng, xã hội hóa cao và nội dung văn hóa sâu sắc. Trong
đó, nội dung văn hóa của du lịch hàm chứa nhiều nghĩa: Các giá
trị văn hóa là tài nguyên, là cái gốc để khai thác tạo ra các sản

15


phẩm du lịch văn hóa; Kinh doanh du lịch phải có văn hóa; ứng
xử của khách du lịch và cộng đồng địa phương nơi có hoạt động
du lịch phải có văn hóa;… Hơn thế nữa, thế mạnh của một quốc
gia/địa phương chính là bản sắc văn hóa và chỉ có dựa vào văn
hóa thì du lịch mới phát triển bền vững được. Trong Nghị quyết
08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn đã chỉ rõ trong quá trình phát triển du lịch phải
chú trọng bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện
nay, tài nguyên du lịch văn hóa, nhất là các di sản văn hóa đã
được xếp hạng, là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá để phát

triển du lịch bền vững ở các quốc gia/địa phương.
Tâm lý chung của du khách là thích tìm hiểu, khám phá những
gì mới lạ, quý hiếm. Vì thế, một số địa phương có những phong
tục tập quán cổ đã thu hút đông đảo du khách đến tham quan.
Trong những năm gần đây, dịng khách du lịch trên thế giới nói
chung tìm đến những nơi có các giá trị văn hóa truyền thống
đặc sắc ngày càng tăng nhanh. Việt Nam cũng là một điểm đến
hấp dẫn như vậy.
Thực trạng khai thác di sản trong phát triển du lịch ở Việt Nam
hiện nay cho thấy, để khai thác tốt hơn giá trị của các di sản,
cần thấm nhuần quan điểm khai thác hợp lý đi đôi với bảo tồn
và phát huy giá trị di sản. Theo đó, cần đào tạo đội ngũ cán bộ
từ quản lý di sản cho đến những người làm du lịch am hiểu cả
về văn hóa và kinh doanh du lịch. Bên cạnh đó, trong phát triển
du lịch tại các khu vực di sản phải giải quyết hài hòa mối quan
hệ và quyền lợi của các bên tham gia, nhất là đối với cộng đồng
địa phương. Mặt khác, cần đầu tư thỏa đáng cho công tác kiểm
kê hệ thống di sản và nghiên cứu, đánh giá giá trị của các di sản
để quản lý và xây dựng chiến lược khai thác một cách bài bản.
Cũng cần lưu ý là gắn di sản với phát triển du lịch khơng có
nghĩa là tất cả các di sản nào đều được khai thác du lịch. Có
những di sản chưa hoặc khơng được khai thác du lịch mà phải
bảo tồn. Trong khai thác du lịch ở các khu vực di sản, phải chú ý
đến quy mô, mức độ và thời điểm khai thác, đồng thời đẩy

16


mạnh xã hội hóa để tạo thêm nguồn kinh phí cho trùng tu, bảo
tồn di sản, phát huy vai trò của cộng đồng địa phương với tư

cách là chủ nhân của di sản trong các hoạt động bảo vệ, quản
lý và khai thác di sản.

17


KẾT LUẬN
Hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa và phát triển
du lịch khơng phải là hai mặt đối lập mà là một thể thống nhất,
đều hướng tới mục tiêu chung là vì sự phát triển bền vững. Có
thể thấy, trong “hành trình” tìm ra tiếng nói chung giữa phát
triển du lịch và bảo tồn di sản văn hóa hiện nay cần có sự thay
đổi đồng bộ từ nhiều cấp. Ở đó, là việc tiếp tục hồn thiện thể
chế, cơ chế chính sách, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để phát
triển bền vững du lịch văn hóa. Huy động nguồn lực xã hội cho
việc khai thác di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền
vững. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý di sản văn
hóa và khai thác du lịch. Đặc biệt, nâng cao nhận thức về vai
trò của di sản văn hóa trong phát triển du lịch bền vững. Trong
đó, việc cần làm ngay và ln chính là việc nâng cao nhận thức
của các chủ thể di sản văn hóa về việc phát triển du lịch thân
thiện với môi trường, không làm ô nhiễm xâm hại cảnh quan
thiên nhiên, môi trường sinh thái…

18


1.
2.
3.

4.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Đăng Duy, Trịnh Minh Đức (1993), Bảo tồn di tích lịch sử văn
hố.
Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
/> />
19



×